Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tư duy mới của Đảng về: Kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới ở nước ta. Liên hệ với thực tế của tỉnh Đắk Lắk.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.69 KB, 12 trang )

Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

Tiểu luận chủ đề 4: Tư duy mới của Đảng về: Kinh tế thị trường trong 30 năm đổi
mới ở nước ta.
Liên hệ với thực tế của tỉnh Đắk Lắk.

A. MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch
sử và thời gian phát triển vừa tròn 30 năm. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy, lý luận và thực tiễn
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại trong sự nghiệp phát triển của đất
nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.” Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật
chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH), tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. So với thời kỳ trước đổi mới, diện
mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu
và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực
sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối CNH, HĐH đất nước.
Sau khi được tìm hiểu môn học đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự chỉ dạy của Thầy giáo
bộ môn, em đã phần nào hiểu được về tầm quan trọng của những chính sách, đường lối đúng đắn của Đảng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là sự thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong 30
năm đổi mới ở nước ta- một sự thay đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp
chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh
tế vững mạnh.
Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình về đường lối chính sách của Đảng về công
cuộc đổi mới tư duy nền kinh tế thị trường mà em đã quyết định chọn đề tài “Tư duy mới của Đảng về Kinh


tế thị trường trong 30 năm đổi mới ở nước ta”.
Đề tài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích các giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng ta, khẳng định
tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế thị trường định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình
bày những thành tựu và thách thức của nền kinh tế. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta- Nền kinh tế thị trường được nghiên cứu trong 30
năm đổi mới hoạt động trong những biến đổi và xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới.

B. NỘI DUNG
I.

Sự hình thành tư duy của đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới

Tiểu luận Tư duy mới của Đảng về: Kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới ở nước ta.
I.1. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội VI-VIII
1


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với thời kì trước
đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển
chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hoá là
tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm
mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa Tư
bản. Chủ nghĩa Tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hoá. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là
kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu
phát triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền

sản xuất hoá cao.
Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa Xã hội. Kinh tế thị
trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là
phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh
tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc
trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều
phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ
cho chúng.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các chủ
thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung
cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận
hành theo qui luật vốn có của kinh tế thị trường: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật lưu
thông tiền thị trường. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
I.2. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX-X
Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và
chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất cùa chủ nghĩa xã hội”. Nội dung cơ bản của
định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:
Về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến
khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả
hơn.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mọi cá nhân và mọi
vùng miền phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng
cho sự phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã
hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể
hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã hội. Đồng thời
2


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng
góp và các nguồn lực khác.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể
hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm quyền lợi
chính đáng của mọi người.
I.3. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội XI-XII
Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XII xác định, nước ta xây dựng mô hình kinh tế “Nền kinh tế thị
trường (KTTT) định hướng XHCN” với định nghĩa “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
qui luật của KTTT, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước.
Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; đồng thời tiếp tục đưa ra phương hướng “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ XII đã kế thừa, làm rõ và thể hiện bước phát triển mới trên nhiều luận điểm quan
trọng, trong đó có những luận điểm lần đầu tiên được đề cập:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh tế vận

hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đây là luận điểm không mới nhưng
lần này được Đảng ta khẳng định rõ hơn, bởi lẽ, trên thực tế, nền kinh tế nước ta đang từng bước được
công nhận là nền kinh tế thị trường và đến năm 2018, sẽ được các thành viên WTO công nhận là nền
kinh tế thị trường đầy đủ.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đây là luận điểm không mới nhưng
lần này được Đảng ta khẳng định rõ hơn, bởi lẽ, trên thực tế, nền kinh tế nước ta đang từng bước được
công nhận là nền kinh tế thị trường và đến năm 2018, sẽ được các thành viên WTO công nhận là nền
kinh tế thị trường đầy đủ.
Thứ ba, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Chúng ta đã vận hành nền
kinh tế theo nguyên lý này trên thực tế nhưng đây cũng là luận điểm lần đầu được đề cập, khẳng định
trong Văn kiện chính thức. Những năm vừa qua, sự phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
FDI, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, phát triển thị trường chứng khoán, xã hội hoá dịch vụ công,
triển khai đối tác công - tư một cách sáng tạo trong xây dựng cơ bản và phát triển kết cấu hạ tầng..., đã
góp phần giải phóng sức sản xuất và mọi tiềm năng phát triển trong và ngoài nước. Đây là điều kiện cơ
bản để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển là bảo đảm tự do kinh doanh và thúc
đẩy cạnh tranh; thiết lập và hoàn thiện cơ chế thị trường lành mạnh, minh bạch; phát triển đầy đủ,
đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; các chủ thể thị trường cạnh tranh bình đẳng.
Thứ tư, khác với giai đoạn trước, chúng ta đã từng coi "Kinh tế tư nhân là một trong các động
lực của nền kinh tế", lần này chúng ta khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát hơn, coi "kinh tế tư nhân là
động lực quan trọng của nền kinh tế".
3


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

Thứ năm, các nguồn lực Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính

sách phát triển, nhưng phải phù hợp với cơ chế thị trường.Ở trình độ phát triển còn chưa cao như nền
kinh tế nước ta, Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước sử dụng
các nguồn lực của mình, cùng các công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

II.

Những thay đổi về tư duy của đảng ta
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay kinh tế sở hữu,
chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư
bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh
xã hội chủ nghĩa, vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất là một
động lực của sự phát triển). Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư
liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay
và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng hoàn
thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng
bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến
quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải
qua một quá trình dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát

triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất với
những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản
công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối
hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa
là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn
thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ
chức sản xuất, kinh doanh.
- Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động đã đi
đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong
4


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái
lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm
nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu. Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của
chúng ta cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường. Nói cơ
chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội
dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp
và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI
khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch

toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội
VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không đối lập với chủ
nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh
tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ
Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có
của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh
tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ
nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động
và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới
đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng
nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh
tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội
không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền
kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù
của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại
hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều

hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX,
các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
5


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng
bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát
triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh. Điều quan trọng hơn nữa là với
chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh
tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương,
lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta.

III.

Những thành tựu của đảng ta sau 30 đổi mới
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn
hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng:

giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp
theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn
duy trì bình quân tăng 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010,
do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Trong các
năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công
2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Ngành công nghiệp và xây dựng duy
trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được
cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường
xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực nông
nghiệp phát triển khá ổn định; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc
cả nước còn thiếu ăn, nay trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp
phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà-phê, cao-su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng
lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Việc
khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững được
quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao
thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng, đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý
cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
6


Trường ĐH:Buôn Ma thuột


IV.

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

Phương hướng và giải pháp của đảng về tư duy kinh tế thị trường trong những năm
tiếp
Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc
xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển nhanh và bền vững vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

IV.1. Các yếu tố cơ bản thay đổi tư duy của đảng ta
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật
pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được
thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới,
sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan
tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu
hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực
và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hoá, dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư,
kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích
ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực
phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá
trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới
phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế.

IV.2. Những khó khăn và phương hướng trong thời gian tới về đổi mới tư duy kinh tế của đảng ta
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là do
nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều
bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các
chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu
thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng ở
7


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế còn nhiều
hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành
chính còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định
chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo
đảm thực thi nghiêm minh.
- Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả.
Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường.

- Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập. Bất bình đẳng xã hội, phân
hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xóa đói, giảm nghèo còn chưa bền vững.
- Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp
ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm soát quyền lực, phân công, phân cấp còn nhiều bất cập.
Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu
lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả chưa
cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.

V.

Liên hệ với thực tế tỉnh Đăk Lăk
Tình hình kinh tế Với nét đặc trưng, giàu bản sắc về văn hóa, Đắk Lắk còn là vùng đất có nhiều tiềm
năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội. Sau 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo,
kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được những thành tựu quan trọng, phát triển khá toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng ở mức khá cao và liên tục. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2005 - 2010 đạt
12,1%/năm. Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2010 tổng GDP đạt 12.810 tỉ đồng, gấp 1,7 lần so với
năm 2005. Thu cân đối ngân sách trên địa bàn tăng nhanh, bình quân đạt 23,94%/năm; tỷ lệ hộ nghèo
giảm còn 10% (theo tiêu chí cũ). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt khoảng 29.436 tỉ đồng, bằng
31,8% GDP, tăng 28,46% so với kế hoạch. Các chương trình, đề án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ngày
càng có trọng tâm, trọng điểm hơn, đã góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn. Riêng năm
2011, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 13%; thu ngân sách trên 3.500 tỉ đồng; bình quân thu nhập đầu người
đạt trên 21,5 triệu đồng/năm.
Bên cạnh việc chú trọng chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc trong tỉnh luôn được Đảng bộ quan tâm đặc biệt. Quán triệt và nhận thức sâu sắc các quan điểm cơ
bản của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk xác định văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội”. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005 - 2010” đã đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ: “Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phát triển văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần của xã hội”.Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã đề ra những chủ
trương, chính sách, chương trình, giải pháp về công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc trên địa

bàn tỉnh và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ.
Quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nền văn hóa Việt Nam,
đồng thời để triển khai thực hiện tốt việc phát triển kinh tế, xã hội gắn với công tác bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc trong bối cảnh hội nhập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, thời gian tới Đắk Lắk sẽ tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải
8


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

pháp sau:
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; phát huy sức mạnh tổng hợp của
hệ thống chính trị và toàn xã hội trong phát triển kinh tế và xây dựng đời sống tinh thần cho các tầng lớp
nhân dân; cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phải đưa nhiệm vụ xây
dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật vào nghị quyết, các chương trình, kế hoạch hành động để
tổ chức thực hiện. Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, cần kế thừa, chọn lọc và phát huy có
hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống cao đẹp, đấu
tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa, loại hình văn hóa độc hại, văn hóa lai căng ảnh hưởng tiêu cực đến
đời sống xã hội.
- Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao vai trò, ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân
dân tham gia công tác xây dựng và phát triển đời sống văn hóa trong tình hình mới. Đề cao vai trò của
việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo, quản lý, bảo đảm mối quan hệ phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa.
- Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”;
Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới”; Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) “Về chống sự xâm nhập của các
sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát

triển văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2020” theo Chỉ thị số 194/CT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, các chương trình, đề án, kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ
thuật của Trung ương, của tỉnh. Thông qua công tác quán triệt, tuyên truyền, hướng dẫn, góp phần nâng
cao bản lĩnh chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ - trí thức, học sinh, sinh viên, đồng bào
các dân tộc thiểu số nắm rõ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa trong thời kỳ mới.

C.KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một phạm trù nghiên cứu rộng lớn. Quá trình
nghiên cứu nó cần nhiều thời gian, tư liệu và sự tham gia của các nghiên cứu có chuyên môn. Trong khuôn
khổ nội dung đề tài tiểu luận: “Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới ở nước
ta” đã trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng ta, khẳng định tính đúng đắn và
cần thiết của nền kinh tế thị trường định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình bày những
thành tựu và thách thức của nền kinh tế. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngoài ra, đề tài tiểu luận này còn khẳng định tính đúng
đắn của việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường. Hoàn thành bài
tiểu luận về “ Tư duy đổi mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới ở nước ta”- một vấn
đề quan trọng và xuyên suốt luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu nên chắc chắn em không
tránh khỏi những thiếu sót do trình độ còn hạn chế, thời gian không cho phép nghiên cứu sâu rộng, điều
kiện để thu thập thông tin còn khó khăn Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn
để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
9


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

10



Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nhìn lại 30 năm đổi mới Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế
/>2. Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
/>3. Đắk Lắk phát triển kinh tế gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc trong bối cảnh
hội nhập
/>4. Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam (Ths Võ Duy Trí)

11


Trường ĐH:Buôn Ma thuột

Tài liệu được viết bởi Trần Hữu Đăng Nguyên

PHỤ LỤC
A.

MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................................................1

B.

NỘI DUNG...................................................................................................................................................................................1
I.


Sự hình thành tư duy của đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới.....................................................................................1
I.1. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội VI-VIII....................................................................................................1
I.2. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX-X.........................................................................................................2
I.3. Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội XI-XII......................................................................................................3

II.

Những thay đổi về tư duy của đảng ta......................................................................................................................................4

III.

Những thành tựu của đảng ta sau 30 đổi mới......................................................................................................................6

IV.

Phương hướng và giải pháp của đảng về tư duy kinh tế thị trường trong những năm tiếp................................................7

IV.1. Các yếu tố cơ bản thay đổi tư duy của đảng ta....................................................................................................................7
IV.2. Những khó khăn và phương hướng trong thời gian tới về đổi mới tư duy kinh tế của đảng ta.........................................7
V.
C.

Liên hệ với thực tế tỉnh Đăk Lăk..............................................................................................................................................8
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................................................9

TÀI LIỆU THAM KHẢO:.................................................................................................................................................................11

12




×