Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Kỹ thuật lập pháp trong quốc triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.81 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THỊ LÝ

KỸ THUẬT LẬP PHÁP TRONG
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

MÃ SỐ: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ VĂN LONG

HÀ NỘI 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các tài liệu được trích dẫn
trong luận văn rõ ràng đúng nguồn gốc.
Tác giả
Hồ Thị Lý



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn tới TS. Lê Văn Long –
chủ nhiệm khoa Tại chức, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ nhiều ý kiến khoa học trong suốt thời gian tôi thực
hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong bộ môn Lý luận
Nhà nước và pháp luật cùng bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ
về mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2011
Người thực hiện
Hồ Thị Lý


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………...... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………... 1
2. Tình hình nghiên cứu……………………………………………………... 2
3. M ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………….....

5

3.1. Mục đích nghiên cứu……………………………………….................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………… 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………... 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………... 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….. 5
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………. 6
6. Ý nghĩa và giá trị thực tiễn của luận văn…………………………………. 6
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………… 6


B. NỘI DUNG……………………………………………………………... 7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ HOÀN THIỆN CỦA
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT……………………………………………… 7
1.1. Thời điểm ban hành bộ luật…………………………………………... 7
1.2. Quốc triều hình luật – công trình pháp điển hóa tiêu biểu trong
lịch sử lập pháp Việt Nam…………………………………………………. 12
1.2.1. Quốc triều hình luật là thành quả của quá trình tập hợp hoá các quy
định pháp luật của nhiều triều vua hậu Lê…………………………………. 12
1.2.2. Quốc triều hình luật kế thừa thành tựu lập pháp của các triều đại
Lý – Trần………………………………………………………………........

15

1.2.3. Quốc triều hình luật tiếp thu có chọn lọc pháp luật phong kiến
Trung Quốc…………………………………………………………………. 17
1.2.4. Quốc triều hình luật là bộ luật có tác động mạnh mẽ, toàn diện,
sâu sắc đến hoạt động của bộ máy đương thời và của xã hội…………….. 21
1.2.5. Quốc triều hình luật có tính ổn định lâu dài trong quá trình điều
chỉnh trên thực tế…………………………………………………………... 22


1.2.6. Quốc triều hình luật có những quy định mang tính nhân văn sâu
sắc…………………………………………………………………………… 22
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIÁ TRỊ VỀ KỸ THUẬT LẬP PHÁP TRONG
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT……………………………………………… 25
2.1. Quốc triều hình luật bảo đảm tính nguyên tắc xây dựng luật……… 25
2.1.1. Quốc triều hình luật thừa nhận nguyên tắc chỉ được làm những gì
mà pháp luật cho phép……………………………………………………… 25
2.1.2. Hài hòa hóa mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức và phong tục
tập quán……………………………………………………………………... 28

2.1.3. Quốc triều hình luật thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong thực thi
pháp luật…………………………………………………………………….. 31
2.1.4. Quốc triều hình luật thừa nhận các quy định của pháp luật trong
các văn bản quy phạm pháp luật mà không thừa nhận việc sử dụng hình
thức án lệ……………………………………………………………………. 33
2.2. Cách thức thể hiện nội dung bộ luật…………………………………. 34
2.3. Kỹ thuật pháp lý trong xây dựng quy phạm pháp luật……………... 37
2.4. Kỹ thuật lập pháp trong một số lĩnh vực cụ thể…………………….. 42
2.4.1. Lĩnh vực hình sự……………………………………………………... 42
2.4.2. Lĩnh vực dân sự và hôn nhân gia đình……………………………… 52
2.4.3. Lĩnh vực tố tụng hình sự…………………………………………….. 62
2.5. Một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp hiện nay qua việc nghiên
cứu Quốc triều hình luật…………………………………………………... 69

KẾT LUẬN………………………………………………………………... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………. 74


1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vị trí của pháp luật ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội ta; ý thức pháp luật của người dân cũng ngày một cao hơn và do đó,
những yêu cầu, đòi hỏi về một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, duy trì ổn định chính trị và bảo đảm công
bằng xã hội đặt ra ngày càng cấp thiết. Để bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện hành, bên cạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp thu kinh
nghiệm lập pháp nước ngoài, một xu hướng đang được giới luật học Việt Nam
quan tâm: đó là tìm về với cuội nguồn truyền thống luật Việt để nhìn thấy

những kinh nghiệm thành công, thất bại của tiền nhân thông qua các chế định
chính trị - nhà nước và pháp quyền trong từng thời kỳ lịch sử của đất nước.
Có thể coi thế kỷ XV là thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt, đánh dấu một
chuyển biến lớn trong đời sống pháp luật Việt Nam. Hệ thống pháp luật tương
đối hoàn chỉnh và được áp dụng một cách nghiêm minh đã tạo nên sức mạnh
kỷ cương cho nước Đại Việt thời Lê sơ - một quốc gia mà nhiều nhà nghiên
cứu nước ngoài cho là hùng mạnh nhất Đông Nam Á thế kỷ XV. Tiêu biểu
trong các văn bản pháp luật thời Lê Sơ là Quốc triều hình luật. Trải qua thời
gian dài nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng pháp luật vẫn còn mang giá
trị thời sự sâu sắc.
Quốc triều hình luật là di sản văn hoá, pháp lý đồ sộ, đặc sắc, độc nhất
vô nhị của Việt Nam và có vị trí xứng đáng trong lịch sử lập pháp của thế
giới. Đây là bộ luật bao trùm nhiều nội dung khác nhau, có sức sống lâu bền
và tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc tới hầu hết các lĩnh vực của xã hội
đương thời, đặt nền tảng xây dựng nước Đại Việt phát triển đến đỉnh cao nhất,
rực rỡ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam với nền pháp trị nghiêm
minh. Bộ luật được xây dựng cách đây hơn 500 năm nhưng chứa đựng nhiều


2

nội dung tiến bộ nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các
bộ luật cùng thời. Nó được đánh giá là “một thành tựu có giá trị đặc biệt”,
“không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại
trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn và đầu thế kỷ XIX: Hoàng
Việt luật lệ…”. [52, tr. 16] Vào thời kỳ này, trí thức, khoa học pháp lý, kỹ
thuật làm luật chưa phong phú như hiện nay nhưng cách làm luật của các nhà
soạn thảo Quốc triều hình luật đã tránh cho người vận dụng pháp luật khỏi vấp
phải vô vàn khó khăn, rối rắm của nền pháp luật rườm rà ngày nay. Văn
phong pháp lý của bộ luật có sức tổng hợp khái quát rộng nhưng rất cô đúc,

lời văn trong sáng, dung dị, dễ hiểu đối với dân thường. Người ít chữ nghe
cũng có thể hiểu và nhớ được.
Quốc triều hình luật đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, lĩnh vực
khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chỉ chủ yếu phân tích về mặt
nội dung, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt
kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật. Để góp phần tìm hiểu pháp luật
truyền thống Việt Nam nói chung và Quốc triều hình luật nói riêng phục vụ
cho việc nghiên cứu và kế thừa những giá trị quý báu trong kho tàng lập pháp
luật cổ Việt Nam, đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề về kỹ thuật lập
pháp trong Quốc triều hình luật, để từ đó rút ra những bài học có giá trị đối
với hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về Quốc triều hình luật đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu và hội thảo khoa học Các công trình này nghiên cứu về Quốc triều hình
luật ở nhiều khía cạnh khác nhau như: Cổ luật Việt Nam Và tư pháp sử (xuất
bản tại Sài Gòn năm 1975) của thạc sĩ Vũ Văn Mẫu; Nghiên cứu về hệ thống
pháp luật Việt Nam thế kỷ XV – XVIII (xuất bản năm 1994) của Viện Nhà
nước và pháp luật thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia;
Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII (xuất bản năm 1994) của nhà sử
học người Hàn Quốc Insun Yu; Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm


3

ngày mất Lê Thánh Tông (năm 1997) do Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức; Pháp luật các triều đại Việt Nam
và các nước (xuất bản năm 2004) của tiến sĩ Cao Văn Liên; Quốc triều hình
luật - lịch sử hình thành, nội dung và giá trị (xuất bản năm 2004) do tiến sĩ Lê
Thị Sơn chủ biên; Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Quốc triều hình luật-những giá
trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

(tổ chức tại Thanh Hoá năm 2007); Lê Thánh Tông - vị vua anh minh, nhà
cách tân vĩ đại (xuất bản năm 2007) và Bộ luật Hồng Đức – di sản văn hoá
pháp lý đặc sắc của Việt Nam (xuất bản năm 2010) của Luật sư Lê Đức Tiết;
Kỷ yếu hội thảo khoa học 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (xuất bản năm
2010) của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp…Và còn rất nhiều các bài viết
trên các tạp chí đề cập đến một số khía cạnh khác nhau của Quốc triều hình
luật. Song, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và tổng hợp về kỹ thuật lập
pháp trong Quốc triều hình luật thì chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
khảo nào. Hiện nay, chỉ rải rác đây đó có những bài viết hay công trình nghiên
cứu đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề như:
Lê Thị Sơn (chủ biên) - Quốc triều hình luật - lịch sử hình thành, nội
dung và giá trị, nhà xuất bản Khoa học xã hội 2004. Đây là công trình được
coi là tiêu biểu nhất và nghiên cứu về Quốc triều hình luật ở phạm vi rộng
nhất.Tác phẩm này do tập thể tác giả gồm các nhà sử học, luật học thực hiện.
Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề như: Quá trình hình thành Quốc triều hình
luật, tư tưởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình luật, vấn đề quan chế,
vấn đề tội phạm, hình phạt, tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình trong
Quốc triều hình luật…Các bài viết trong tác phẩm chủ yếu đề cập đến vấn đề
nội dung của Quốc triều hình luật chứ không xem xét Quốc triều hình luật
dưới phương diện kỹ thuật lập pháp. Bài viết “Quốc triều hình luật và những
giá trị lập pháp” của TS Nguyễn Quốc Hoàn có đề cập đến khía cạnh kỹ thuật
lập pháp, nhưng cũng chỉ mang tính khái quát, chưa chi tiết, cụ thể. Bài viết
“Nội dung và giá trị của những quy định về các tội phạm cụ thể trong Quốc


4

triều hình luật” của Thạc sỹ Đỗ Đức Hồng Hà song song với việc đề cập đến
những giá trị về nội dung của Quốc triều hình luật, tác giả cũng có đề cập đến
vấn đề kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực hình sự.

Một số bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Quốc triều hình luật những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam” như: Lê Hồng Sơn - Quốc triều hình luật – công trình pháp điển
hoá tiêu biểu trong lịch sử lập pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến. Bài viết đã
khái quát một số vấn đề về cách thức thể hiện nội dung của bộ luật và cách
trình bày các quy phạm pháp luật cụ thể; Hoàng Thị Kim Quế - Mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong Quốc triều hình luật và những giá trị đương
đại. Bài viết đã phân tích sự thể chế các chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức trong
Quốc triều hình luật và nguyên tắc “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho
phép” là những nguyên tắc chủ đạo trong xây dựng và thực hiện Quốc triều
hình luật; Lê Minh Tâm - Bộ Quốc triều hình luật – công trình mang đậm bản
sắc văn hoá pháp lý và tính nhân văn của dân tộc Việt Nam. Bài viết cũng có
một phần nhỏ đề cập đến cấu trúc của Quốc triều hình luật.
Nguyễn Đức Lộc - Truyền thống pháp điển hoá qua các triều đại phong
kiến Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14, năm 2008. Bài viết đã đề
cập đến kỹ thuật pháp điển hoá của Quốc triều hình luật.
Nguyễn Minh Tuấn – Nét độc đáo của quy phạm pháp luật trong Bộ
luật Hồng Đức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 33, năm 2008. Bài viết đã
phân tích những nét độc đáo trong cách thức tổ chức và thể hiện các quy phạm
pháp luật trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức).
Lê Đức Tiết - Bộ luật Hồng đức – di sản văn hoá pháp lý đặc sắc của
Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2010. Trong chương III của tác
phẩm (Kế thừa và phát huy kinh nghiệm soạn thảo, thực thi Bộ luật Hồng Đức
vào sự nghiệp hoàn thiện pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) đã đề cập đến kỹ thuật soạn thảo Bộ luật và những giá trị đối với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.


5

Trần Văn Luyện - Chế độ canh giữ, bảo vệ trong Luật Hồng Đức và

những bài học kinh nghiệm lập pháp, bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học
1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2010. Thông
qua những quy định cụ thể về chế độ canh giữ, bảo vệ, bài viết đã đưa ra nhận
xét về cách thức điều chỉnh pháp luật trong Quốc triều hình luật và những bài
học kinh nghiệm lập pháp của những người soạn thảo Quốc triều hình luật.
Như vậy, mặc dù có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề kỹ
thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, nhưng chỉ ở một số khía cạnh nhất
định. Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích được đặt ra cho đề tài là nghiên cứu về kỹ thuật lập pháp
trong Quốc triều hình luật từ đó kế thừa những giá trị quý báu để nâng cao
chất lượng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát về sự ra đời và hoàn thiện của Quốc triều hình luật;
- Tìm hiểu những giá trị về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật;
- Rút ra một số kết luận, kiến nghị về kỹ thuật lập pháp ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về cách thức soạn
thảo, ban hành bộ luật, cách thức thể hiện nội dung bộ luật cũng như cấu trúc
các quy phạm pháp luật cụ thể thông qua các quy định trong Quốc triều hình
luật.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật trong Quốc triều hình
luật dưới góc độ kỹ thuật lập pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu



6

Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã vận dụng phương pháp luận cơ bản
là duy vật biện chứng. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp khảo sát thống
kê, phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích và chứng minh. Từ đó, rút ra
nhận xét, đánh giá bước đầu.
6. Ý nghĩa và giá trị thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích những quy định trong Quốc triều hình luật, luận
văn đã nêu ra được những giá trị về kỹ thuật lập pháp nói chung và kỹ thuật
lập pháp trong những lĩnh vực cụ thể. Từ đó rút ra những kinh nghiệm quý
báu trong kỹ thuật lập pháp hiện nay.
Nghiên cứu về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật sẽ góp phần
vào tổng kết, đánh giá những đóng góp và thành tựu của triều Lê sơ về
phương diện pháp luật. Trên cơ sở đó tìm hiểu thêm về những giá trị lịch sử
truyền thống của dân tộc, tìm ra bài học bổ ích trong công cuộc hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về sự ra đời và hoàn thiện của Quốc triều hình luật
1.1.

Thời điểm ban hành bộ luật

1.2.

Quốc triều hình luật – công trình pháp điển hóa tiêu biểu trong lịch sử
lập pháp Việt Nam

Chương 2: Một số giá trị về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật

2.1.

Quốc triều hình luật bảo đảm tính nguyên tắc trong xây dựng luật

2.2.

Cách thức thể hiện nội dung bộ luật

2.3.

Kỹ thuật pháp lý trong xây dựng quy phạm pháp luật

2.4.

Kỹ thuật lập pháp trong một số lĩnh vực cụ thể

2.5.

Một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp qua việc nghiên cứu Quốc
triều hình luật


7

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ HOÀN THIỆN CỦA
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
1.1. Thời điểm ban hành bộ luật
Trong 360 năm tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu to lớn
và nhiều mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật và điển chế. Nhà Lê đã xây

dựng được hàng chục bộ luật và những văn bản pháp luật lớn, trong đó Quốc
triều hình luật được coi là bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của
triều Lê. Văn bản của bộ luật này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn
được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán – Nôm. Tại đây có hai bản in ván khắc
đều có tên là Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy
có tên gọi là Lê triều hình luật nhưng nội dung của nó lại là bản sao lại của
Quốc triều hình luật và chép vào thời gian sau này. Trong đó bản Quốc triều
hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn cả và được
coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6 quyển, in ván khắc
trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một cuốn. Sách không
ghi tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên đại in ấn và
cũng không có lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Bìa nguyên bản cuốn sách đã
mất, được thay thế bằng một tờ bìa viết bốn chữ Hán là Quốc triều hình luật
bằng bút lông. Chính vì vậy cho đến nay, “việc xác định thời điểm khởi thảo
bộ luật này cũng như thời điểm tiêu biểu nhất cho sự hoàn chỉnh bộ luật này
vẫn đang còn là một vấn đề chưa được khẳng định”. [52, tr. 12]
Ở Việt Nam hiện có những ý kiến và luận chứng rất khác nhau về vấn
đề này. Vũ Văn Mẫu trong một số sách chuyên khảo về cổ luật Việt Nam cho
rằng Bộ Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông
với niên hiệu Hồng Đức và vì vậy mà đời sau thường gọi là Bộ Luật Hồng
Đức [24, tr. 191-192]. Đinh Gia Trinh trong tác phẩm “Sơ thảo lịch sử nhà
nước và pháp quyền Việt Nam” cũng cho rằng, bộ luật được ban hành dưới


8

thời vua Lê Thánh Tông nhưng cụ thể là năm 1483 và đặt tên cho bộ luật là
Bộ luật 1483 [43, tr. 155-156].
Viện Sử học Việt Nam trong lời nói đầu Quốc triều hình luật đã đưa ra
giả thuyết rằng: “Quốc triều hình luật đã được khởi thảo từ sớm hơn, thậm trí

từ ngay năm đầu của triều Lê…bộ luật của triều Lê đã được chính người anh
hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc kháng chiến chống Minh ban hành
ngay từ ngày đầu của triều đại mình và bộ luật này không ngừng được các
triều vua kế tiếp bổ sung, hoàn chỉnh dần, trong đó chắc chắn là có những
đóng góp to lớn của ông vua nổi tiếng văn hiến Lê Thánh Tông và niên hiệu
Hồng Đức rực rỡ của ông. Và chắc chắn là khi soạn bộ luật đầu tiên của triều
đại mình, Lê Thái Tổ cũng đã kế thừa các bộ luật tiền bối” [52; tr. 14-15].
Một số học giả người Pháp là Raymond Deloustal và giáo sư Lingat khi
khảo dịch và nghiên cứu về Quốc triều hình luật đã căn cứ vào thiên Hình luật
chí và Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,
đều cho rằng Quốc triều hình luật được ban hành vào năm Cảnh Hưng thứ 38
(1777). Một học giả khác là Emile Gaspardone thì lại nhấn mạnh rằng bộ luật
đã được công bố 10 năm trước đó, tức là vào năm 28 niên hiệu Cảnh Hưng
(1767). Theo Insun Yu, một giáo sư Hàn Quốc thì “những nghiên cứu của các
học giả Việt Nam và Nhật Bản cho thấy cả Deloustal và Gaspardone đều sai
lầm khi đặt năm tháng soạn thảo bộ luật nhà Lê vào nửa sau thế kỷ XVIII”
[13, tr. 69] .Tuy nhiên, ông cũng không cung cấp thêm được dữ liệu mới để
khẳng định thời điểm ban hành của Quốc triều hình luật.
Trong số các khẳng định trên, nếu lấy năm 1483 để khẳng định và đặt
tên cho Quốc triều hình luật như Đinh Gia Trinh thì có phần hơi kiên cưỡng,
vì đó chỉ là năm Lê Thánh Tông ra lệnh soạn thảo bộ luật. Nếu dứt khoát cho
rằng Quốc triều hình luật được ban hành năm 1777 như các tác giả người
Pháp thì rõ ràng không đủ thuyết phục, vì, phải đồng ý với Vũ Văn Mẫu, khi
ông viết: “đến năm 1777, vào quãng thời Lê Mạt, vận nhà Lê đã suy vi, giặc
cướp nổi lên như ong, trong triều thì chúa Trịnh cướp quyền đâu phải lúc nhà


9

Lê san định và ban hành bộ luật mới” [26, tr. 236]; còn khẳng định Quốc triều

hình luật được ban hành dưới triều Lê Thái Tổ thì e là quá sớm. Lê Thái Tổ
chỉ ở ngôi có 5 năm. Tất nhiên, trong 5 năm trị vì đất nước, Lê Thái Tổ đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật đơn lẻ về từng lĩnh vực, từng loại sự việc và ông
có thể đã vạch ra nhiều ý tưởng về xây dựng triều đại, xây dựng đất nước và
cả về mặt lập pháp. Có lần, Lê Thái Tổ từng hạ lệnh cho các tướng hiệu và
các quan rằng: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp
luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các tướng
hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều
luật thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp” [20, tr.
361]. Nhưng từ ý tưởng lớn lao, tốt đẹp đó đến một văn bản mang đậm tính
pháp điển hóa cao như Quốc triều hình luật thì không đơn giản.
Cũng phải khẳng định chắc chắn rằng, trong Quốc triều hình luật có
những điều luật có nguồn gốc hoặc chép nguyên văn các điều luật được ban
hành dưới thời kỳ trị vì của các vua Lê tiền nhiệm. Nhưng không nên vì vậy
mà cho rằng nó được ban hành từ các thời vua trước đó. Khoa học pháp lý
ngày nay cho rằng, làm luật không phải là sáng tác ra luật, hiểu theo cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng. Công lao lớn nhất của các nhà lập pháp là biết sưu tầm, hệ
thống hóa, pháp điển hóa các quy định trước đó thành một bộ pháp điển hoàn
chỉnh. Bộ luật dân sự đầu tiên của nước ta – Bộ luật Dân sự năm 1995 –
không phải là sản phẩm chỉ của Quốc Hội khóa IX mà nó là kết quả của cả
quá trình “quy định, tham chiếu” các văn bản pháp luật của 8 khóa Quốc hội
trước đó, từ khóa I đến khóa VIII. Nhưng không vì thế mà không định được
niên đại của Bộ luật Dân sự đầu tiên vì Bộ luật được ban hành tháng 10/1995
là Bộ luật Dân sự 1995, ít ra để phân biệt với Bộ luật Dân sự được Quốc hội
khóa XI thông qua năm 2005 thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995.
Trở lại với Bộ luật nhà Lê. Hầu hết các ý kiến dù có khác nhau về niên
đại của Bộ luật thì cũng đều thống nhất trong nhận định rằng Bộ luật được
nhiều đời vua bằng hoạt động lập pháp của mình mà sáng tạo nên. Nhưng đó



10

chỉ là cách nói không chính thức vì với tên gọi “Quốc triều hình luật” với tư
cách là một văn bản pháp luật hoàn chỉnh thì chỉ được ban hành vào một đời
vua. Đó là vua nào, xét một cách khách quan có thể có căn cứ để khẳng định
đích danh vị vua đó không?
Theo quan điểm của chúng tôi, Quốc triều hình luật chính thức được
ban hành dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức. Không phải
ngẫu nhiên mà Quốc triều hình luật còn có tên gọi khác là “Bộ luật Hồng
Đức”. Tên gọi “Bộ luật Hồng Đức” đã đi vào sử sách đến nay ít nhất đã vài ba
trăm năm và không phải mãi đến thời cận, hiện đại mới được đặt ra. Phan Huy
Chú trong “Hình luật chí” thuộc Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận xét
về pháp luật nhà Lê như sau: “Hình luật đời Hồng Đức tham dụng các đời
Tùy, Đường, xử trí có những điều nhất định, nặng nhẹ có những mức các đời
tuân theo dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại
cương chế độ bao giờ cũng đều theo đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái
khuôn phép để buộc dân. Nay thử khảo xem, hình pháp thì nặng nhẹ có 5 bậc,
luật văn thì có hơn 700 điều” [5, tr. 372].
Dõi theo các đánh giá, nhận định về pháp luật nhà Lê, có thể dễ dàng
nhận ra Phan Huy Chú đang trực tiếp bàn đến Quốc triều hình luật, nhưng ông
không theo cách gọi đó mà nói rất cụ thể: “Hình luật đời Hồng Đức”, cũng tức
là Luật Hồng Đức. Hơn nữa đi vào nội dung đoạn cuối phần mở đầu này, sẽ
thấy Phan Huy Chú dành “Hình luật chí” của mình để trực tiếp xem xét, khảo
lược Luật Hồng Đức và được trình bày trong 5 quyển còn lại, từ quyển
XXXIV đến quyển XXXVIII.
Phan Huy Chú sinh năm 1782, vào những năm cuối triều Lê. Khi ông
lớn lên, nhà Lê không còn, nhưng một triều đại tồn tại 360 năm với những
công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và những triều vua dẫn dắt
đất nước đến những năm thịnh trị, nhất là gần 40 năm trị vì của đời vua Lê
Thánh Tông, chắc chắn đã để lại dấu ấn sâu đậm, nhất là về mặt tinh thần,

trong đó có đời sống pháp luật. Vì vậy, Lịch triều hiến chương loại chí có


11

những nhận định và cả những thông tin về Bộ luật nhà Lê mà Phan Huy Chú
gọi “Hình luật đời Hồng Đức” là đáng tin cậy.
Cùng với Phan Huy Chú, ông vua đầu tiên của triều Nguyễn – Gia
Long khi ra lệnh cho banh hành bộ Hoàng Việt Luật Lệ đã chỉ đạo cho quần
thần: “ …giở xem hình luật của các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều
đại thành lập từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng cho mỗi triều đại, mà đầy
đủ hơn cả là Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)…Thế nên, ta ra lịnh cho triều thần
lấy luật của các triều đại nước ta làm căn bản, tham chiếu Luật Hồng Đức và
Luật Thanh triều, rút lấy, thêm bớt, cân nhắc, biên tập thành Bộ luật tiện
dụng” [36, tr. 213].
Như vậy, khi cho ban hành bộ luật mới Gia Long đã chỉ đích danh Bộ
luật Hồng Đức là bộ luật chủ yếu nhất để tham chiếu. Hồng Đức đã trở thành
danh xưng một cách tự nhiên của Bộ luật và Gia Long nói đến Bộ luật Hồng
Đức cũng rất tự nhiên, có vẻ đương nhiên. Luật Hồng Đức đã đi vào tiềm thức
chung của nhà vua như văn bản chính thức của một triều đại – triều đại nhà
Lê. Tất cả điều đó nói lên tính cách đặc biệt của Quốc triều hình luật nhà Lê –
gắn bó sâu sắc với niên hiệu của ông vua đã ban hành nó.
Sự ghi nhận của Nguyễn Văn Thành, tổng biên soạn Hoàng Việt Luật
Lệ cũng chứng tỏ việc gọi Quốc triều hình luật - bộ luật tiêu biểu của nhà Lê
bằng tên gọi Luật Hồng Đức là rất thông dụng và có sự kính trọng, suy tôn:
“Nước ta, trong các triều đại trị vì từ trước đến nay thì triều đại nào cũng có
đầy đủ pháp luật. Các bộ luật ấy vẫn tham chiếu theo Bộ luật Hồng Đức vì
những điều trong bộ luật ấy gọn rõ, văn lại giản lược, phân minh, dễ hiểu”
[36, tr. 213].
Nói tóm lại, Quốc triều hình luật không phải ngẫu nhiên được các thế

hệ trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc gọi bằng tên Bộ luật Hồng Đức. Đó là
một thực tế lịch sử, có thể nói đã vượt thời gian, không gian. Nên chăng, đã
đến lúc cần khẳng định Quốc triều hình luật – Bộ luật nhà Lê, thành quả hoạt
động lập pháp của cả triều đại nhà Lê chỉ có thể ra đời thời Lê Thánh Tông


12

niên hiệu Hồng Đức và tên luật – Luật Hồng Đức – ra đời ít nhất 3, 4 thế kỷ
nay là một hiện thực lịch sử khách quan.
1.2. Quốc triều hình luật – công trình pháp điển hóa tiêu biểu trong lịch
sử lập pháp Việt Nam
Quốc triều hình luật không phải là công trình của một đời vua, cũng
không phải được ra đời như sản phẩm của một hoạt động lập pháp đơn lẻ, cá
biệt, đơn hành. Nó là thành quả trí tuệ trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa các
quy định pháp luật được ban hành rải rác trong các triều vua Hậu Lê, kế thừa
các thành tựu lập pháp từ thời Lý – Trần, tiếp thu có chọn lọc pháp luật phong
kiến Trung Quốc và phát triển nhiều quy định mới, phản ánh được các yêu cầu
của tình hình kinh tế - xã hội đất nước trong thế kỷ XV.
1.2.1. Quốc triều hình luật là thành quả của quá trình tập hợp hoá các
quy định pháp luật của nhiều triều vua hậu Lê
Mặc dù có thể được ban hành vào triều vua Lê Thánh Tông – niên hiệu
Hồng Đức, nhưng nội dung của 722 điều khoản của bộ Quốc triều hình luật
còn lưu giữ đến ngày nay lại cho thấy bộ luật này là thành quả tập hợp hoá các
quy định pháp luật của nhiều triều vua Hậu Lê. Qua nghiên cứu những ghi
chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Lịch triều hiến chương loại chí cho thấy ngay từ khi lên ngôi Lê Thái Tổ đã
ban hành những quy định về hình phạt và luật lệ kiện tụng, về chức tước các
quan văn võ, về phân cấp chính quyền địa phương, về việc hạn chế thế lực và
sự lạm quyền của các công thần…So sánh các ghi chép về hình phạt dưới thời

Thái Tổ trong chính sử với các quy định tại chương I Quốc triều hình luật ta
có thể thấy rõ có sự trùng lặp hầu như hoàn toàn. Đầu tiên là về hệ thống hình
phạt, hầu hết các hình phạt xuy, trượng, đồ, lưu, tử, thích chữ, phạt tiền, biếm,
sung vợ con người phạm tội làm nô tỳ, tịch thu tài sản đều được vua Thái Tổ
quy định và áp dụng từ trước và ngay sau khi lên ngôi, chỉ có điều 1 và điều 9
của Quốc triều hình luật là có sự khác biệt so với lệnh chỉ do vua Lê Thái Tổ
ban hành năm 1429. Theo điều 1, điều 9, số chữ thích cao nhất với tội lưu


13

châu xa là 10 chữ trong khi lệnh chỉ năm 1429 quy định phạm tội lưu vào
châu Bố Chính phải thích 20 đến 30 chữ; hạng đày vào Diễn Châu phai thích
từ 6 đến 10 chữ [20, tr. 369]. Như vậy, chắc chắn điều 1 đã được sửa đổi vào
các triều vua sau. Ngoài ra các nguyên tắc chung quy định tại chương I như
nguyên tắc chiếu cố theo bát nghị, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền cũng đã
được quy định và áp dụng trong thực tiễn dưới thời vua Lê Thái Tổ.
Một khía cạnh nữa nói lên tính kế thừa của Quốc triều hình luật đối với
các quy định có từ thời kỳ đầu của vương triều Hậu Lê là Bộ luật này có 69
điều khoản đề cập đến cấp hành chính lộ, đến các chức xã quan, quan tể
tướng, quan sảnh viện…nhưng các tài liệu chính thức về sử học lại cho thấy
đến thời Lê Thánh Tông thì cấp hành chính lộ đã không còn tồn tại, các chức
quan như tể tướng, hành khiển cũng đã bị bãi bỏ vào năm 1466. Vì vậy, có thể
thấy các quy định này tồn tại trong Quốc triều hình luật thực chất là sự hệ
thống hóa các quy định đã tồn tại từ triều vua trước đó. Ngoài ra, khi xem xét
nội dung Điều 347 quy định về việc cấp quân điền cho phép lấy ruộng công
của các xã lân cận cấp bù cho nhau, cho thấy điều khoản này cũng phải có từ
thời vua Lê Thái Tổ vì phép quân điền của Lê Thánh Tông quy định đất xã
nào chỉ chia cho dân xã ấy [20, tr. 369].
Dưới thời vua Lê Thái Tông, những chỉ dẫn trong Hồng Đức thiện

chính thư cho biết có nhiều điều khoản trong Quốc triều hình luật đã được sử
dụng từ thời vua Lê Thái Tông. Hồng Đức thiện chính thư là tập sách gồm
322 mục mà nội dung của nó là ghi tóm tắt lại 322 Lệ và án lệ dưới thời Lê
Nhân Tông, Lê Thánh Tông và một số án lệ ban hành dưới các triều vua sau.
Trong Hồng Đức thiện chính thư từ điều 126 đến điều 163 được ghi dưới niên
hiệu Thiệu Bình (là niên hiệu được vua Lê Thái Tông sử dụng từ năm 1434 –
1439). So sánh những điều khoản dưới niên hiệu Thiệu Bình trong Hồng Đức
thiện chính thư với Quốc triều hình luật cho thấy có 5 điều khoản (điều 310,
502, 507, 513, 527) đã được các nhà làm luật sau này giữ nguyên và đưa vào
bộ luật. Ngoài ra các Điều 672 và Điều 683 trong Quốc triều hình luật cũng là


14

những điều khoản có từ thời vua Lê Thái Tông vì nội dung các điều khoản
này hoàn toàn phù hợp với các lệnh chỉ năm 1434 quy định về trình tự, thẩm
quyền xét xử của các cấp chính quyền và chỉ dụ năm 1437 quy định về việc
xét xử các quan đại thần, hình quan phải căn cứ vào các điều luật chính xác để
buộc tội.
Dưới thời Lê Nhân Tông, nền nông nghiệp tiểu nông đã có sự phát triển
nhanh hơn, việc mua bán chuyển nhượng ruộng đất diễn ra phổ biến và phát
sinh nhiều tranh chấp, kiện tụng. Để đáp ứng yêu cầu giải quyết những quan
hệ đó, vào năm 1449, vua Lê Nhân Tông đã “bổ sung chương Điền sản gồm
14 điều vào bộ hình luật” [20, tr 421]. Trong Quốc triều hình luật 14 điều luật
này được xếp vào được xếp vào một phần riêng thuộc chương 6 với tiêu đề
“điền sản mới tăng thêm” từ điều 374 đến điều 387.
Tiếp nối những đóng góp của các đời vua trước, Lê Thánh Tông – vị
vua anh minh bậc nhất của triều Lê đã có những đóng góp to lớn để hoàn thiện
về cơ bản và cho ban hành bộ Quốc triều hình luật. Phần lớn các luật lệ ban
hành dưới triều vua Thánh Tông được tập hợp trong hai bộ tư liệu về pháp

luật là Hồng Đức thiện chính thư và Thiên nam dư hạ tập. So sánh từng điều
khoản trong hai bộ pháp điển này với Quốc triều hình luật cho thấy vua Lê
Thánh Tông đã đưa thêm vào Quốc triều hình luật nhiều điều luật mới bao
gồm: Chương Vi chế; 10 điều, Quân chính: 2 điều, Vệ cấm: 1 điều, Hộ hôn: 9
điều, Điền sản: 21 điều, Thông gian: 5 điều, Đạo tặc 16 điều, Đấu tụng: 6
điều, Trá ngụy: 2 điều, Tạp luật: 7 điều và Đoán ngục: 1 điều.
Sau Lê Thánh Tông, những chỉ dẫn chính xác trong Quốc triều hình
luật cho biết vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), vua Lê Tương Dực đã đưa
thêm vào bộ luật điều 389; vào năm thứ 2, niên hiệu Quang Thuận (1517), vua
Lê Chiêu Tông đã đưa thêm vào bộ luật điều 391 [52, tr. 152-153].
Như vậy, bộ Quốc triều hình luật đã được xây dựng, bổ sung và hoàn
thiện dần qua các triều vua Hậu Lê, trong đó người có công lao lớn nhất tập
hợp, san định, xây dựng lại thành một bộ pháp điển hoàn chỉnh là vua Lê


15

Thánh Tông, một vị vua hiền tài và anh minh hiếm thấy trong các triều đại
phong kiến Việt Nam.
1.2.2. Quốc triều hình luật kế thừa thành tựu lập pháp của các triều
đại Lý – Trần
Các tài liệu của sử học và khảo cổ học đã khẳng định rằng, trong thời
đại Lý – Trần ở nước ta đã từng tồn tại những bộ luật thành văn, trong đó tiêu
biểu có Hình thư đời Lý và Hình thư đời Trần. Mặc dù hai bộ Hình thư này đã
thất truyền, nhưng chúng ta vẫn có thể tìm hiểu nội dung của pháp luật triều
Lý – Trần thông qua các chiếu lệnh và thực tiễn áp dụng pháp luật được ghi
chép lại trong chính sử (đặc biệt là trong Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều
hiến chương loại chí). So sánh Quốc triều hình luật với hệ thống pháp luật
thời Lý – Trần chúng ta có thể thấy bộ luật này đã trực tiếp kế thừa, phát triển
và hoàn thiện nhiều thành tựu lập pháp thời Lý – Trần, đặc biệt là trong lĩnh

vực hình sự. Chẳng hạn như những quy định về hình phạt, thời Lý – Trần đã
tồn tại hình phạt ngũ hình là: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Điều 1 Quốc triều hình
luật tiếp tục công nhận các loại hình phạt này nhưng bổ sung thêm một số chi
tiết cụ thể trong hình phạt đồ và lưu (hình phạt đồ thì bổ sung thêm mức phạt
tượng phường binh và quy định cụ thể các hình thức phạt phụ kèm theo như
phạt trượng và thích chữ vào mặt – điều đáng lưu ý là các mức phạt này đều
được quy định giảm nhẹ hơn so với thời Lý – Trần; còn đối với hình phạt lưu
thì Quốc triều hình luật có cụ thể hóa thành ba mức độ - bậc lưu khác nhau,
tùy theo tội để tăng giảm). Bên cạnh đó, các hình phạt khác như thích chữ vào
mặt, phạt tiền, xung vợ con người phạm tội làm nô tỳ, bãi chức, tịch thu tài
sản được quy định và áp dụng từ thời Lý – Trần cũng được ghi nhận trong
Quốc triều hình luật và được bổ sung, sửa đổi cho hoàn thiện hơn. Ví dụ, trên
cơ sở tiếp thu những quy định từ thời Lý – Trần về hình phạt thích chữ vào
mặt với số chữ là 20, 30 , 50 chữ, Điều 9 Quốc triều hình luật đã quy định cụ
thể hình phạt thích chữ có 5 bậc là 2, 4, 6, 8, 10 chữ và là hình phạt bổ sung
cho tội đồ, lưu.


16

Ngoài ra, một số nguyên tắc chung được quy định trong các đạo chiếu
của pháp luật Lý – Trần như nguyên tắc chuộc tội bằng tiền (Chiếu năm
1042), nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự liên đới (chiếu 1123), nguyên
tắc thân thuộc trong gia quyến được che giấu tội cho nhau (Chiếu năm 1315)
cũng được ghi nhận lại trong Quốc triều hình luật với những quy định cụ thể,
chặt chẽ hơn. Trong quy định nhà Lý quy định: “Người từ 70 tuổi trở lên, 80
tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu
cho đến các thân thuộc nhà vua từ hạng đại công trở lên phạm tội thì cho
chuộc (bằng tiền) nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này” [20, tr.
99].Trong Quốc triều hình luật, các Điều 6, 14, 16 quy định cụ thể loại tội đồ

và diện được chuộc tội bằng tiền (như: Họ Hoàng Hậu; quan viên quân dân do
sơ suất phạm tội từ tội lưu trở xuống; những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi
trở xuống, những người bị phế tật phạm từ tội lưu trở xuống thì đều cho chuộc
tội bằng tiền). Các điều 21, 22, 24 quy định cụ thể số tiền chuộc của từng loại
tội khác nhau. Chẳng hạn, tiền chuộc bị xử đánh trượng - Mỗi trượng, quan
tam phẩm chuộc 5 tiền; tứ phẩm 4 tiền, ngũ phẩm, lục phẩm 3 tiền…(Điều
21); tiền chuộc tội biếm, mỗi hạng, quan nhất phẩm chuộc 100 quan, nhị
phẩm 75 quan, tam phẩm 50 quan…(Điều 22); tiền chuộc bị thích chữ vào
mặt, vào cổ, mỗi chữ, tam phẩm chuộc 2 quan, tứ phẩm 1 quan 5 tiền, ngũ
phẩm 1 quan…(Điều 24). Trong luật nhà Lý, nhà Trần, nguyên tắc truy cứu
trách nhiệm hình sự liên đới được quy định căn cứ vào mối quan hệ gia đình
và quan hệ láng giềng. Trong Quốc triều hình luật, việc truy cứu trách nhiệm
hình sự liên đới ngoài quan hệ gia đình còn căn cứ vào quan hệ đồng cư (Điều
424), vào trách nhiệm công vụ của quan lại (Điều 153, 154, 155…). Luật nhà
Trần quy định chỉ vợ chồng, cha con mới được che giấu tội cho nhau (chiếu
năm 1315), Quốc triều hình luật đã mở rộng diện được che giấu tội cho nhau
đến người thân thuộc phải để tang 9 tháng trở lên, anh em chồng, anh em vợ,
cháu, ông bà và các bác chú thím, cô ruột chồng (chưa xuất giá) đồng thời


17

cũng quy định cụ thể các tội mà người thân thuộc có nghĩa vụ phải tố cáo
nhau (Điều 504).
Hầu hết những điều khoản tiếp thu từ luật nhà Lý, Trần đều là những
điều khoản chỉ có trong bộ luật nhà Lê mà không có trong luật nhà Đường,
nhà Minh. Điều đó đã nói lên sự độc lập, sáng tạo và tính thực tiễn trong hoạt
động xây dựng pháp luật của các triều đại Lý - Trần, Hậu Lê. Như vậy, sự kế
thừa thành tựu lập pháp của các triều đại Lý - Trần là một trong những yếu tố
làm nên điểm đặc sắc và tiến bộ của Quốc triều hình luật.

1.2.3. Quốc triều hình luật tiếp thu có chọn lọc pháp luật phong kiến
Trung Quốc
Quốc triều hình luật tiếp thu nhiều thành tựu lập pháp của Trung Quốc,
chịu ảnh hưởng của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có
những điểm không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung
Quốc cả về nội dung lẫn bố cục. Về bố cục, bộ luật nhà Đường có 502 điều
chia thành 12 chương. Quốc triều hình luật có 722 điều chia thành 13 chương.
Các chương trong hai bộ luật này như sau:
Luật nhà Đường

Quốc triều hình luật

1. Danh lệ

1. Danh lệ

2. Cấm vận

2. Vệ cấm

3. Quy chế hành chính

3. Vi chế

4. Hộ hôn

4. Quân chính

5. Khai khố


5. Hộ hôn

6. Thiện hưng

6. Điền sản

7. Đạo tặc

7. Thông gian

8. Đấu tụng

8. Đạo tặc

9. Trá ngụy

9. Đấu tụng

10. Tạp luật

10. Trá ngụy

11. Bộ vong

11. Tạp luật

12. Đoán ngục

12. Bộ vong



18

13. Đoán ngục
Như vậy, hầu hết các chương trong Quốc triều hình luật đều giống
trong luật nhà Đường. Tuy nhiên, có 4 chương trong Quốc triều hình luật
(chương 3, 4, 6, 7) không giống với luật nhà Đường. Đặc biệt các chương quy
định về vấn đề ruộng đất cũng như các nhóm tội tình dục được quy định riêng
biệt và cụ thể hơn luật nhà Đường. Chính sự có mặt của 4 chương có riêng
trong Quốc triều hình luật đã nói lên sự độc lập tương đối của các nhà làm luật
triều Lê trong quá trình xây dựng bộ luật.
Về nội dung, Quốc triều hình luật có những điều luật tham khảo, mô
phỏng luật nhà Đường và một phần luật nhà Minh. Ví dụ, trong lĩnh vực hình
sự nhiều chế định được vay mượn từ luật nhà Đường như: chế định ngũ hình,
bát nghị, thập ác tội…Các nguyên tắc như: chuộc tội bằng tiền, nguyên tắc
chiếu cố, nguyên tắc tha miễn trách nhiệm hình sự khi phạm tội tự thú,
nguyên tắc thân thuộc được che giấu tội cho nhau…đều được vay mượn từ
nhà Đường, nhà Minh. Ngoài ra, trong tất cả các lĩnh vực khác, Quốc triều
hình luật cũng ít nhiều vay vượn từ luật nhà Đường, nhà Minh. Sau đây là
bản kết quả tổng hợp kết quả so sánh đối chiếu của nhà Việt Nam học người
Hàn Quốc Insun Yu có tham khảo kết quả so sánh của R.Deloustal và Nguyễn
Ngọc Huy [13; tr. 73] :
Các
chương

Tổng số
điều khoản

Số điều khoản vay mượn
Luật nhà Đường


Luật nhà Minh
Luật khác

1

49

27 [27] (27)

- [-] (-)

-

2

47

16 [13] (22)

1 [-] (3)

-

3

144 (143)

32 [32] (36)


3 [1] (4)

-

4

43

11 [9] (13)

6 [2] (1)

-

5

58

16 [16] (17)

7 [5] (6)

-

6

32

7 [7] (5)


1 [1] (-)

-

7

14

1 [1] (-)

1 [-] (-)

(1)


19

8

13

- [-] (-)

- [-] (-)

-

9

10


3 [3] (4)

3 [1] (1)

-

10

54

24 [23] (28)

8 [6] (1)

-

11

50

36 [37] (34)

2 [1] (3)

-

12

38


20 [21] (22)

6 [4] (5)

-

13

92

38 [37] (39)

9 [5] (8)

-

14

13

11 [10] (11)

- [1] (-)

1

15

65


19 [19] (20)

6 [3] (9)

-

Tổng:

722 (271)

261 [255] (277)

53 [30] (41)

1 [-] (3)

(Trong bảng thống kê trên: số liệu không đặt trong dấu là của Insun Yu,
đặt trong dấu […] là của Nguyễn Ngọc Huy, trong dấu (…) là của
R.Deloustal)
Kết quả so sánh có ít nhiều khác biệt giữa các tác giả, nhưng cho thấy
Quốc triều hình luật tham khảo và mô phỏng luật Đường nhiều nhất
(261/255/277 điều), rồi đến luật nhà Minh (53/30/41). Nhưng nhà Lê không
hoàn toàn sao chép luật Đường, Minh mà ngay cả những điều luật mô phỏng
này cũng có vận dụng phù hợp với truyền thống Việt Nam. Ví dụ, theo luật
Đường, trong chế độ đại gia đình của Trung Quốc, việc con cái tách ra ở riêng
hay đòi chia tài sản khi cha mẹ còn sống sẽ bị xếp vào tội “bất hiếu” thuộc
loại “thập ác”, nhưng luật nhà Lê cho phép con cái được ra ở riêng khi cha mẹ
đang còn sống, phản ánh kết cấu gia đình nhỏ phổ biến ở Việt Nam. Hoặc,
cũng quy định các trường hợp buộc chồng phải bỏ vợ dựa trên các lý do “thất

xuất” xong nhà lập pháp triều Lê “đã giản dị hoá pháp luật Trung Hoa bằng
cách đồng hoá các trường hợp thất xuất cổ điển với các trường hợp nghĩa
tuyệt. Quy định như vậy đã thu hẹp lại nhiều những trường hợp bỏ vợ có tính
cách bắt buộc và đó cũng là một biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho người vợ”
[25, tr. 139]. Đặc biệt, Quốc triều hình luật có nhiều điều luật hoàn toàn không
tìm thấy trong luật Đường hay Minh của Trung Quốc. Bảng thống kê của
Insun Yu chứng minh rõ đặc điểm này [13, tr. 80] :


20

Chương

Tổng số

Số điều khoản độc nhất

điều khoản

Insun Yu

Deloustal

Nguyễn Ngọc Huy

1

49

22


22

22

2

47

30

22

22

3

144 (143)

109

110

105

4

43

26


32

29

5

58

35

37

35

6

32

24

24

27

7

14

12


12

14

8

13

13

13

13

9

10

4

6

5

10

54

22


25

25

11

50

12

12

13

12

38

12

13

11

13

92

44


50

45

14

13

2

2

2

15

65

40

42

36

Cộng

722 (721)

407


434

404

Tuy có sự khác biệt nhất định, nhưng có 407/434/404 tức quá nửa số
điều luật trong luật nhà Lê không có trong luật Trung Quốc (Insun Yu:
56,37%; R.Deloustal: 60,19%; Nguyễn Ngọc Huy: 55,95%). Đặc điểm này
cho thấy sự sáng tạo, độc lập tương đối của pháp luật nhà Lê trong việc tiếp
thu những thành tựu lập pháp của pháp luật Trung Quốc, phù hợp với điều
kiện thực tế của đất nước, phản ánh được nhiều đặc điểm của xã hội và thuyền
thống văn hóa Việt Nam.
Như vậy, Quốc triều hình luật là một thành tựu lập pháp đặc biệt, khẳng
định được giá trị và vị thế riêng có trong lịch sử lập pháp thời kỳ phong kiến
không chỉ của Việt Nam mà còn có giá trị toàn nhân loại [13, tr. 254]. Đây là
bộ luật chứa đựng nhiều giá trị, thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong


×