Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.82 KB, 17 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Kinh nghiệm phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, đề cập và vận dụng từ rất sớm hiện có ý nghĩa thiết
thực trong bối cảnh cả nước đang tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành 3 nghị
quyết về kinh tế, trong đó có nghị quyết về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN". Đây là điều kiện thuận lợi
để thành phần kinh tế tư nhân phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, đóng góp nhiều hơn cho
phát triển kinh tế - xã hội.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm
năng của đất nước được xem là sự sáng tạo, là một trong những nhân tố mới trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, đề
cập trong các tác phẩm, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển đất nước.
Xác
định cơ
cấu các
thành
phần
kinh tế

tưởng
Hồ Chí
Minh về
cơ cấu
kinh tế
nhiều
thành
phần nói
chung,
từng
thành


phần
kinh tế
nói riêng
được thể

Bác Hồ thăm Nhà máy Thiếc Tĩnh Túc ở Cao Bằng năm 1958. Ảnh: TTXVN


hiện khá rõ trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, nhưng rõ nhất trong hai tác phẩm là “Thường
thức chính trị” (năm 1953) và “Báo cáo Dự thảo Hiến pháp năm 1959”. Theo đó, về cơ
cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chủ tịch cho
rằng, “có nước thì đi lên CNXH (cộng sản) như Liên Xô, có nước phải kinh qua chế độ
dân chủ mới rồi tiến lên CHXH” như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Có thể hiểu “chế độ dân chủ mới” theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó là
giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thời kỳ quá độ đi lên CNXH” của nước ta
hiện nay. Người lý giải, nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ mới vì "đặc điểm to
lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".
Từ đó, Người xác định, cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta và
chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại thành
một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan và có vai trò
nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế, thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát triển
chúng theo định hướng XHCN.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Người cho rằng, trong chế độ dân chủ mới, có 5
loại kinh tế khác nhau là: kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì là của chung nhân dân);
các hợp tác xã (là nửa CNXH và sẽ tiến đến CNXH); kinh tế của cá nhân, nông dân và
thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH); tư bản của tư nhân và
cuối cùng là tư bản của nhà nước.
Về thành phần kinh tế tư bản của tư nhân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là thành phần

kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị
tư bản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên, "về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế
độ tư bản là một tiến bộ to". Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, khoa học
kỹ thuật, vì vậy “Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo
của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”. Còn thành phần
kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do nhà nước và nhà tư bản cùng góp vốn để
kinh doanh, do nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ nghĩa. Tư bản của
nhà nước là XHCN.
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá độ. Do đó, cần
phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất của xã hội, mà không
sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các thành phần kinh tế phi
XHCN.


Nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần
Nói về vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:
1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh
tế dân chủ mới (…). Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và
thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho
nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế
quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ
bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời, vì
lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”.
Có thể khái quát chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là: “Công tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong ngoài” và
"Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta". Ở đây, Hồ Chí Minh
nêu quan điểm "công tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong thời kỳ quá độ và khi nhấn

mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, Người vẫn đồng thời khẳng định, thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể "là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế
nước nhà".
Chỉ bằng những câu ngắn gọn, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc, mục
tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh tế phải
tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối
của nền kinh tế quốc dân. Những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam sẽ góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, là vấn
đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta, một mặt chính là sự tiếp
tục logic khách quan của nền kinh tế, mặt khác còn là sự tiếp tục tư tưởng của Lê-nin và
Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên một nền tảng và trong một hoàn cảnh
khác, được phát triển lên một trình độ mới và hình thức mới.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện vẫn có ý nghĩa thời sự và
ý nghĩa phương pháp luận, cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để định hướng cho
sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước.
Hồ Chí Minh nhận rõ sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong cách
mạng XHCN Việt Nam.
Nhận rõ tính tất yếu của cách mạng XHCN ở Việt Nam và “nhiệm vụ quan trọng nhất”
của nó là xây dựng và phát triển nền kinh tế là những nhận thức khoa học sâu sắc và đặc
biệt quan trọng. Nhưng nhận rõ cơ sở thực tế về kinh tế bắt đầu thực hiện cách mạng
XHCN cũng không kém phần quan trọng. Ngay từ buổi đầu tìm ra con đường cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có tư duy đúng đắn về điểm xuất phát kinh tế của cách mạng
XHCN ở nước ta. Về sau, nhiều lần Người thể hiện quan điểm đúng đắn đó. Như ngày 12
– 7 – 1946, ở Pháp, Hồ Chí Minh trả lời câu hỏi của các nhà báo: “Có phải Chủ tịch cho
rằng nước Việt Nam chưa có thể cộng sản hóa được trước một thời hạn là 50 năm

không?”, Người nói: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ,
nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước
chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Hồ Chí
Minh lại chỉ ra đặc điểm to nhất, bao trùm nhất khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi
lên CNXH là “Từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Với nhận thức đúng đắn về thực
trạng kinh tế đất nước khi đi vào xây dựng CNXH như vậy, Hồ Chí Minh đã cho thấy
mâu thuẫn cơ bản ở thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là mâu thuẫn giữa xây dựng chế
độ XHCN có nền kinh tế sản xuất lớn, có khoa học và kỹ thuật tiên tiến, biến nước ta từ
“một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc”
với tình trạng lạc hậu cùng các thế lực cản trở nhân dân ta đi lên CNXH. Đồng thời, nhận
thức của Hồ Chí Minh cũng cho thấy điểm xuất phát đi lên CNXH của nước ta về kinh tế
là quá thấp kém, một nền tiểu sản xuất nông nghiệp là phổ biến, công nghiệp chỉ ở bước
đầu của thời kỳ tiền tư bản, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Như vậy, thực trạng kinh tế
thấp kém ở điểm xuất phát đi lên CNXH ở nước ta, theo Hồ Chí Minh cho thấy sự tồn tại
một nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ là tất yếu. Để có CNXH, trước hết,
Đảng Cộng sản Việt Nam phải có nhận thức đúng về thực trạng này và phải có đường lối,
chính sách và phương pháp đúng, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Lịch sử đã
chứng tỏ thành công hay thất bại trong xây dựng và phát triển kinh tế ở thời kỳ quá độ có
nguyên nhân trong nhận thức và giải quyết nhiệm vụ này có sát đúng với thực tế khách
quan hay không.
Mặt khác, tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam làm cách
mạng dân tộc dân chủ đi lên CNXH đó là sự nghiệp của toàn dân. Nhờ phát huy được sức
mạnh của khối đoàn kết toàn đân tộc mà cách mạng dân tộc dân chủ thành công. Đi vào
thực trạng cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh lại khẳng định: CNXH là sự nghiệp của toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải CNXH
nhà nước, nhà nước không thể làm thay nhân dân mà sự nghiệp xây dựng CNXH là do


nhân dân xây dựng. Mà ở thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam tồn tại khách quan nhiều

thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế lại gắn với giai tầng xã hội nhất định trong
cộng đồng dân tộc. Đi lên CNXH không thể chủ quan một sớm một chiều xóa bỏ thành
phần kinh tế này (gắn với giai tầng xã hội nhất định) hoặc giữ lại, phát triển thành phần
kinh tế kia. Theo Hồ Chí Minh, trong thực trạng cùng một lúc có nhiều thành phần kinh
tế khác nhau để đi tới CNXH trước hết phải được giải quyết bằng chính các quy luật kinh
tế kết hợp với các quy luật khác của cách mạng XHCN, trong cải tạo nền kinh tế cũ và
xây dựng nền kinh tế mới XHCN. Bởi vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ: làm cách mạng XHCN
thì “phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất
mới”, “phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp”… Tức là chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có
trong lịch sử dân tộc. Phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Nhưng ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế nhiều
thành phần thấp kém, thì đó “là một cuộc biến đổi khó khăn và sâu sắc nhất”.
Quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong cách mạng
XHCN ở Việt Nam được hình thành từ những năm 20 của thế kỷ trước. Năm 1925, Hồ
Chí Minh sáng lập ra Việt Nam thanh niên cách mệnh đồng chí hội (tại Quảng Châu –
Trung Quốc). Khi viết Điều lệ cho tổ chức này, Hồ Chí Minh xác định: Mục đích của Hội
là làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó
làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Khi
cách mệnh giành được chính quyền về tay công, nông, binh, thì sẽ “Áp dụng những
nguyên tắc tân kinh tế chính sách” cho giai đoạn cách mạng XHCN. Ai cũng biết “tân
kinh tế chính sách” mà hồ Chí Minh đề cập ở đây chính là “Chính sách kinh tế mới” của
Lênin. Đó chính là chích sách về nền kinh tế nhiều thành phần của nước Nga sau thời kỳ
nội chiến sau Cách mạng Tháng Mười. Hồ Chí Minh chủ trương ‘Áp dụng’ chính sách
kinh tế mới của Lênin vì chính sách này đã thành công ở nước Nga tiểu sản xuất lên
CNXH. Như Lênin viết: “Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu
sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức nào đó, chủ nghĩa tư bản là không
thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta

phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.
Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra
đời, ngày 23-9-1945 thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Cả nước đứng lên
thực hiện cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh. Trong đường lối kháng chiến, chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” – một chủ trương thể hiện
sinh động sự kết hợp hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến. Cuối
cuộc kháng chiến (1953) Hồ Chí Minh viết tác phẩm Thường thức chính trị, trong đó


Người chỉ ra 6 thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do): Một là, kinh tế địa chủphong
kiến bóc lột địa tô. Hai là, kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Ba là,
Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Các
hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã. Bốn là, kinh tế cá nhân của nông
dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một
thứ kinh tế lạc hậu. Năm là, kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng
thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. Sáu là, kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước
hùn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư
nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là CNXH.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa
ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư
đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ
mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với
những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là
những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là
lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ
phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi
ích của đại đa số nhân dân. Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột.
Nhưng chính phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền

của công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho thợ được số lợi
hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả
đôi bên. Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần
dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp
lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh
giữa công nông. Bốn là, lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các
nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ
lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
Khi miền Bắc được giải phóng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giai cấp địa
chủ phong kiến bị đánh đổ, đồng nghĩa với thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột
địa tô bị xóa bỏ. Vì vậy miền Bắc đi lên CNXH vẫn tồn tại năm thành phần kinh tế mà
Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ năm 1953. Hồ Chí Minh vẫn nhất quán với quan điểm xây
dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta. Người nêu rõ chính sách đối với các thành phần kinh tế lúc này là: Thứ
nhất, với kinh tế quốc doanh – hình thức sở hữu của toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc
dân, cần phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
CNXH và thúc đẩy việc cải tạo XHCN; Nhà nước phải tạo điều kiện cho nó phát triển.
Hai là, với kinh tế hợp tác xã – là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà
nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa
nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc. Cần phát triển
từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã. Ba là, với kinh tế cá thể của những người


làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu
sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp
tác xã theo nguyên tác tự nguyện. Bốn là, với kinh tế của những nhà tư sản công thương,
Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra
sức hướng dẫn họ nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh , phù hợp với kế hoạch kinh tế của
nhà nước. Năm là, với kinh tế tư bản nhà nước, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các

nhà tư bản đi theo CNXH bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức khác.
Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to
lớn của Đảng và dân tộc ta”. Trong đó, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ lên CNXH đã soi sáng đường lối xây
dựng và phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về ‘nhiệm vụ quan trọng nhất” ở thời kỳ quá độ “là
phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” và thực tế đất nước
thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: Trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội VI (1986) đã
xã định tư tưởng chỉ đạo cốt lõi là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác
mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Đến Hội nghị
TW 6 (khóa VI) Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách
nhất quán có ý nghĩa chiến lược lâu dài và các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp
luật.
Xuyên suốt 6 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI, VII, IX, X và XI) và cả
trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020” và “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung, phát
triển năm 2011, đều khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới là Phát
triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan
điểm này lại được cụ thể hóa, hoàn chỉnh ở mỗi thời kỳ hoạt động của Đảng, nhất là cụ
thể hóa về nội dung chính sách xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Đến Đại hội IX (2001), khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được hoàn
chỉnh khi Đảng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường , có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ; đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Có thể thấy năm thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên CNXH được Hồ Chí Minh chỉ

ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng thời kỳ đổi mới. Những thành phần
kinh tế này được Đảng nhận thức sâu sắc và đầy đủ và luôn được hoàn thiện trong thực
tiễn. Trên cơ sở nhận thức đó Đảng đã đề ra đường lối chính sách sát hợp với từng loại


hình kinh tế cũng như phương hướng, mục tiêu của nền kinh tế nhiều thành phần trong
đổi mới. Nhờ vậy, nền kinh tế của ta sau hơn 25 năm đổi mới đã có bước phát triển vượt
bậc, góp phần làm nên thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của thời kỳ đổi mới, đời sống
của nhân dân được nâng cao và cải thiện rõ rệt./.
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) gắn với
phát triển kinh tế tri thức, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì việc nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là hết sức cần thiết.
Về vấn đề hội nhập kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận: Hội nhập kinh tế quốc tế
(KTQT) là tất yếu. Vì sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ phụ thuộc vào con
người, tài nguyên, vị trí, truyền thống của quốc gia đó, mà một phần quan trọng tùy thuộc
vào các mối liên kết quốc tế mà trước hết là về mặt kinh tế.
Tư tưởng độc lập tự chủ trong hội nhập KTQT của Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất và
gắn liền với tư tưởng chủ động, tích cực, “tự lực cánh sinh”, “lấy sức ta mà giải phóng
cho ta”, không ỷ lại ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói,
một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập.
Phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nước cũng chính là để sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn
nguồn lực từ bên ngoài; đồng thời, có chính sách thu hút tốt các nguồn lực từ bên ngoài
sẽ phát huy tốt hơn, có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, thời gian qua, vượt qua những khó khăn, thách thức,
Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội (CNXH), hoạch định Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và giương cao Cương lĩnh ấy
trong hành động, đã xác định (CNH-HĐH) là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH.
CNH-HĐH tạo ra cơ cấu kinh tế mới, phân công lao động mới, xây dựng nền kinh tế độc

lập tự chủ trong khi chủ động hội nhập KTQT tạo ra năng suất lao động cao, cải thiện căn
bản đời sống vật chất và văn hóa toàn xã hội...
Tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế
Những thành tựu quan trọng về kinh tế đạt được trong công cuộc đổi mới đã chứng tỏ
nhận thức và tổ chức thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: Phát triển kinh tế cần đi trước một bước và xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Phát triển kinh tế là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển văn hoá nhằm xoá bỏ nghèo nàn và
lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.


Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế, ổn định. Theo
đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020, Đảng ta xác
định 5 quan điểm lớn như:
Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.
Từ các quan điểm trên, một số giải pháp để thực hiện phát triển kinh tế theo tư tưởng Hồ
Chủ tịch cũng được Đảng ta quan tâm chỉ đạo. Cụ thể như:
Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN phù hợp với điều kiện mới của
đất nước và tình hình thế giới; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn

liền với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và nền văn hóa XHCN tiên tiến đậm đà
bản sắc Việt Nam.
Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát triển
thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp. Trong đó, bảo đảm:
- Giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các thành phần
kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa chủ và
thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước,
lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế;
- Kinh tế nhà nước thực sự “giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành
pháp luật”;
- Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật;
trong đó, cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản xuất, phát triển


sản xuất nhằm mang lại no đủ, giàu có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho
đa số nhân dân lao động;
- Các tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ trợ nhà nước, khi cần thiết có thể đấu tranh
với các thế lực tự phát của thị trường để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân…
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận thức
lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi để đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận, trong đổi
mới tư duy về kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính sách, thể chế
kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động lực và là giải pháp chiến
lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế
ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế trong nước và quốc tế đã và đang

có nhiều biến đổi, việc nhận thức đầy đủ và tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác KTQT không chỉ là yêu cầu mà còn là điều kiện cần thiết để góp phần
xây dựng nền kinh tế quốc gia vững mạnh, đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong giai đoạn mới.
Thực tế đã cho thấy, chỉ trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng đúng đắn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, mới có thể huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước, từng bước đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên
con đường hội nhập.
Nước ta là một nước lạc hậu, qua nhiều năm chiến tranh lực lượng sản xuất chưa phát
triển, cần làm kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo đời sống nhân dân, cung cấp kịp thời
cho kháng chiến. Do đó tất yếu phải phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Năm 1953, Hồ Chí Minh đã nói: Nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế tại vùng tự
do. Đó là:
+ Kinh tế địa chủ, phong kiến bóc lột địa tô.
+ Kinh tế quốc doanh có tích chất XHCN
+ Kinh tế HTX tiêu thụ, HTX cung cấp, các tổ đổi công ở nông thôn có tính chất nửa
XHCN


+ Kinh tế cá nhân của nhân dân và thợ thủ công mỹ nghệ
+ Kinh tế tư bản tư nhân
+ Kinh tế tư bản quốc gia (tư bản nhà nước)
Do vậy, mục tiêu ban đầu của 6 thành phần kinh tế đó là làm sao cho dân có ăn, có mặc,
có chỗ ở, làm cho dân được học hành.
Để duy trì 6 thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra 4 chính sách mấu chốt:
+ Công tư đều lợi.
+ Chủ thợ đều lợi.
+ Công nông đều lợi.
+ Lưu thông trong ngoài.
Khi chế độ dân chủ mới ở nước ta ngày càng phát triển, thành phần kinh tế phong kiến

địa chủ bị tiêu diệt .Vì vậy trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN chỉ còn 5 thành phần
kinh tế xếp theo thứ tự sau:
A.Kinh tế quốc doanh
B.Các hợp tác xã
C.Kinh tế cá nhân, nông dân, thợ thủ công
D.Tư bản tư nhân
E.Tư bản nhà nước công tư hợp danh
Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại suốt thời kì quá độ là vì 2 lý do
sau:
- Các thành phần kinh tế cũng là sự biểu hiện của các quan hệ sản xuất khác nhau.
- Khi chế độ xã hội đang trong quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ


nghĩa. Nó đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất
còn manh mún. Những mảnh vụn ấy của xã hội cũ sẽ được cải tạo chuyển dần lên
CNXH.
* Nếu hỏi vận dụng trình bày thêm
Tiếp tục tư tưởng HCM, ĐH IX của Đảng khẳng định: Đảng và nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Ngoài 5 thành phần kinh tế trên, ĐH IX khẳng định thêm 1 thành phần kinh tế mới là
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nó sẽ giúp ta kêu gọi và sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng nhiều. Đến ĐH X, Đảng đã ghép kinh tế tư bản vào với kinh tế tư nhân
cho nên chỉ còn 5 thành phần kinh tế.
Tư tưởng phát triển nhiều thành phần kinh tế của HCM ko chỉ đáp ứng kịp thời cho cuộc
kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc mà còn là tư tưởng chiến lược về xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần của
HCM vẫn là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước

Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của đất nước được coi như
một sự sáng tạo, một nhân tố mới trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Thực ra, vấn
đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, đề cập và vận dụng từ rất sớm. Nó
thực sự là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của một chỉnh thể thống nhất
những tư tưởng kinh tế của Người.


Ảnh chỉ mang tính chất minh họa
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể khác với Liên Xô. Người viết: “Có nước
thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế
độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam ta…”(1). Theo cách hiểu của chúng tôi, “chế độ dân chủ mới“ có thể là
giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thơi kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” mà ta
đang dùng hiện nay. Đáng tiếc là, trong khi còn chưa hội đủ những điều kiện cần thiết,
nhất là về phương diện sức sản xuất của xã hội, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt
Nam… đã nôn nóng, vội vã kết thúc sớm thời kỳ “dân chủ mới“ để nhanh chóng trở
thành những nước xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và phát triển.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cần phải trải qua giai đoạn dân chủ mới, bởi vì
“… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” (2). Chính điểm xuất phát thấp này đã qui định tính chất phức tạp của kết cấu kinh
tế – xã hội và sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế khác nhau. Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố
kết lại thành một chỉnh thể kinh tế – xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi
sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan và có
vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát
triển chúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ

mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).


C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức
là nửa chủ nghĩa xã hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của nhà nước (…).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho nên kinh tế ta
sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(3).
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá độ. Do đó,
chúng ta cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất của xã
hội, mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần có những ưu tiên đúng mức đối với
thành phần kinh tế quốc doanh để nó phát triển và trở thành thành phần kinh tế chủ đạo,
đủ sức hướng dẫn các thành phần kinh tế khác vận động và phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh cũng nằm trong quá trình vận động theo các tầng nấc
từ thấp đến cao, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và qui mô xã
hội hóa của nền sản xuất xã hội.
Trong rất nhiều bài viết, bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc
thành lập các tổ chức hợp tác xã từ trình độ thấp đến trình độ cao. Người coi đây là cách
thức tổ chức thích hợp với điềâu kiện một nước mà lực lượng lao động xã hội phần lớn là
nông dân và hoạt động kinh tế chủ yếâu là sản xuất nông nghiệp như nước ta. Người đã
nhấn mạnh rằng: Tất cả đường lối, phương châm chính sách của Đảng đều nhằm nâng
cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích đó thì
nhất định phải củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải không ngừng nâng cao
thu nhập của xã viên.
Nói về vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:

1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh
tế dân chủ mới(…).
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó
cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần
giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ
bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời, vì
lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” (4).


Từ sau năm 1945, đặc biệt là trong thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc, những tư tưởng
đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng vào thực tiễn một cách nhuần
nhuyễn và sáng tạo. Có thể nói, trong suốt giai đoạn từ năm 1955 đến 1960, miền Bắc
thực sự bước vào “thời kỳ vàng son“ của quá trình khôi phục và phát triển kinh tế. Những
thành tựu kinh tế thu được trong thời kỳ đó là toàn diện và vững chắc; chất lượng, tốc độ
và năng suất lao động đều vượt xa so với trước chiến tranh (năm 1939) và mấy thập kỷ
sau đó. Đó chính là thắng lợi của đường lối phát huy sức mạnh của các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nó trở thành nguồn động lực to lớn thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân,
tạo cơ sở vật chất làm nền tảng cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau thời kỳ khôi phục và cải tạo xã hội chủ nghĩa, cuối tháng 12-1959, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Điều cần lưu
ý là, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh
khách quan đặc biệt: đất nước còn đang có chiến tranh, ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo
điều khá mạnh khi hâu hết các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa đều áp dụng nguyên
bản mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô… Trong điều kiện phức tạp như
vậy, để bảo đảm xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã chủ động và sáng suốt vạch ra một đường lối phát triển kinh tế độc đáo, sáng tạo và
phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Người chỉ rõ: “Trong nước ta hiện nay có
những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh
tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể “(5).
Đối với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu, giữa các thành
phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, “Chúng ta phải phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải
trải qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần
thiết(…).


- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộä quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu
sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác” (6).
Ở đây, Hồ Chí Minh đã thấy rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan và vẫn có
tác dụng quan trọng đối với sản xuất. Song, cũng do hoàn cảnh khách quan quy định, việc

cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đưa người lao động vào con đường
làm ăn tập thể nhằm xóa bỏ lối sản xuất manh mún, ít hiệu quả và xóa bỏ mọi hình thức
bóc lột đối với người lao động... cần phải được tiến hành từng bước. Theo quan điểm của
Người, việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó không thể tiến hành một cách nóng vội,
mà phải tuân thủ các nguyên tắc: từng bước, vững chắc và hoàn toàn tự nguyện; phải
quán triệt phương châm cải tạo để sử dụng và sử dụng để cải tạo. Bất cứ một hình thức tổ
chức sản xuất nào cũng phải hướng đến mục tiêu cao nhất là phát triển sản xuất, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm lợi ích của các thành phần
kinh tế cũng như của người lao động. Đặc biệt, các thành phần kinh tế quốc doanh, tập
thể cần phải chứng tỏ bằng thực tế sự ưu việt, tính hơn hẳn của mình so với nền kinh tế
cá thể. Sự chỉ đạo có tính nguyên tắc đó đã thể hiện tư duy kinh tế sắc bén của Người.
Đáng tiếc là, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có những lúc việc cụ thể hóa
đường lối phát triển kinh tế nói chung và sử dụng các thành phần kinh tế nói riêng vẫn
còn được tiến hành một cách máy móc, rập khuôn theo kinh nghiệm của nước ngoài. Vì
thế, những tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong
thời kỳ quá độ chưa được nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Đặc biệt,
từ sau năm 1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất và cùng
đi lên chủ nghĩa xã hội, những tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, muốn
nhanh chóng hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất… biểu hiện rất rõ qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các thành phần kinh tế. Ở miền Nam, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản công
thương nghiệp, nông nghiệp được triển khai ồ ạt và hoàn thành trong một thời gian ngắn;
ở miền Bắc, hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc cao được mở rộng về quy mô và số
lượng, công nghiệp nặng được ưu tiên tập trung đầu tư… Tuy nhiên, trên thực tế, những
“nỗ lực” đó đã không mang lại kết quả như mong muốn. Có thể khằng định rằng, hậu
quả do tư duy kinh tế lỗi thời đó đem lại thật nặng nề: Trong thời kỳ từ 1976 – 1980, thu
nhập quốc dân của cả nước chỉ tăng 0,4%, mức tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,2%/năm; chế
độ tập trung quan liêu bao cấp đã làm xơ cứng nền kinh tế, thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể gần như không còn động lực thúc đẩy, kinh tế tư bản và cá thể sớm bị
xóa bỏ hoặc suy thoái. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng gay gắt và do

vậy, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng trở nên hết sức khó khăn.


Đứng trước tình hình đó, tháng 12-1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, tạo nên bước ngoặt mới trong tiến trình vận động, phát
triển của nền kinh tế. Trong đó, về phương diện kinh tế, Đảng đã khẳng định chiến lược
“thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng
lực sản xuất, đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định, hiện nay, nền kinh tế
nước ta bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, trong quá trình tìm tòi
và thử nghiệm, Đảng ta đã ngày càng nhận thức rõ hơn và vận dụng tốt hơn những tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh tế, đặc biệt là vấn đề sử dụng các thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã tạo ra một động lực vô
cùng to lớn giúp chúng ta gặt hái được nhiều thành công trong gần 2 thập kỷ đổi mới.
Ngày nay, nhìn lại những thành tựu to lớn, toàn diện mà Đảng và nhân dân ta đã giành
được, chúng ta càng nhớ đến công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và càng tin tưởng
sâu sắc vào thắng lợi của con đường cách mạng mà Người đã vạch ra cho dân tộc. Người
không chỉ là nhà yêu nước vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc, một nhà hiền triết,
một danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà kinh tế học xuất sắc.



×