Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.75 KB, 76 trang )

Bộ giáo dục và đàO TạO

Bộ TƯ PHáP

Trường đại học luật hà nội
Nguyễn thị thúy hòa

CHUẩN Bị XéT Xử
PHúC THẩM Vụ áN DÂN Sự
Chuyên ngành: luật dân sự
Mã số : 603830

luận văn thạc sỹ luật học

Người hướng dẫn:
tiến sỹ nguyễn công bình

Hà nội 2010


Lời Cam Đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung được trình bày trong bản luận văn là trung thực. Những kết luận trong
bản luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 26 tháng 1 năm 2010
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thúy Hòa


Mục LụC


Trang
Lời nói đầu

1

Chương I: KháI quát về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ dân sự

5

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự

5

1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự từ năm
945 đến nay

13

Chương II: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm
vụ án dân Sự

20

2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm

20


2.2. Thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự

22

2.3. Những việc tiến hành sau khi thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự

32

2.4. Những việc tiến hành sau khi có quyết định đưa vụ án ra

47

xét xử phúc thẩm
Chương III: Thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật tố Tụng dân sự Việt Nam hiện hành về Chuẩn bị
xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và kiến nghị

51

3.1.Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

51

3.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chuẩn bị xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự

63

KếT LUậN


68

Danh mục tài liệu tham khảo

70


Danh mục các chữ viết tắt
BLTTDS
BPKCTT
CBXXPTVADS
HĐTPTANDTC
KC
KN
LTCTAND
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ
Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP

Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP

Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP

Nghị quyết số
05/2006/NQ-HĐTP


TA
TACST
TACPT
TANDTC
VKS
VKSND
VKSNDTC
BADSST
BADSPT

: Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
: Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
: Kháng cáo
: Kháng nghị
: Luật tổ chức Tòa án nhân dân
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động
: Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
nhất Những quy định chung của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004
: Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27- 4 -2005
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương
VIII Các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật
tố tụng dân sự
: Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
của Hội đồng thẩm phán TA nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai
Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm
của Bộ luật tố tụng dân sự
: Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04 - 8 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần
thứ ba Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
phúc thẩm của Bộ luật tố tụng dân sự
: Tòa án
: Tòa án cấp sơ thẩm
: Tòa án cấp phúc thẩm
: Tòa án nhân dân tối cao
: Viện kiểm sát
: Viện kiểm sát nhân dân
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
: Bản án dân sự sơ thẩm
: Bản án dân sự phúc thẩm


1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trước năm 2004, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về
thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự năm 1989 (PLTTGQCVADS); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

năm 1994 (PLTTGQCVAKT); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
năm 1996 (PLTTGQCTCL)Các văn bản pháp luật này tuy có giá trị pháp lý rất
lớn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
giải quyết các vụ việc dân sự trong điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi ở
những năm đầu Thế kỷ XXI của Việt Nam. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
giải quyết các vụ việc dân sự, tại kỳ họp thứ V ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) đầu tiên của nước ta đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam.
Phúc thẩm vụ án dân sự là thủ tục cơ bản của tố tụng dân sự. Trong đó, chuẩn bị
xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (CBXXPTVADS) là một nội dung quan trọng của
thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự. Vì vậy, trong BLTTDS có hẳn một chương Chương XVI quy định về CBXXPTVADS. Tuy nhiên, việc thực hiện chúng tại các
Tòa án (TA) trong những năm qua cho thấy vẫn còn có những bất cập nhất định. Do
đó, tác giả chọn Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được
công bố đề cập đến vấn đề phúc thẩm vụ án dân sự như: công trình nghiên cứu cấp
Bộ Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng
dân sự do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; Những quan


2

điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam do Viện Nhà nước và Pháp luật
thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia thực hiện năm 2001; hội
thảo Khoa học cấp trường với đề tài Về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự của
Trường Đại học Luật Hà Nội xây dựng năm 2005; luận án tiến sĩ luật học Xây
dựng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2001 của tác giả Phan Hữu Thư; bài viết Vấn

đề hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự của tác giả Ngô Vĩnh Bạch đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 8 năm 2001; Về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của
Tòa án cấp phúc thẩm (TACPT) của tác giả Lê Thu Hà đăng trên Tạp chí Luật học
số 5/1996; Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự của tác giả Nguyễn Việt Cường
đăng trên Tạp chí Đặc San nghề luật số 10 tháng 1/2005; Một số vấn đề rút ra từ
công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của tác giả Khuất Văn Nga đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 17 tháng 9/2008Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách tập trung, đầy đủ về CBXXPTVADS theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về CBXXPTVADS, các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về CBXXPTVADS tại TA và thực
tiễn thi hành các quy định đó tại TA Việt Nam trong những năm gần đây. Ngoài ra,
việc nghiên cứu cũng được tiến hành với các quy định tương ứng của pháp luật tố
tụng dân sự một số nước để tham khảo, đối chiếu.
CBXXPTVADS là một vấn đề lớn có nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học việc nghiên cứu của tác giả chỉ tập
trung làm rõ những nội dung cơ bản của đề tài như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa
của CBXXPTVADS; các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
về CBXXPTVADS tại TA và việc thực hiện chúng tại các TA Việt Nam từ năm
2005 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài


3

Việc nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
CBXXPTVADS; nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về CBXXPTVADS và thực tiễn thi hành chúng tại TA Việt Nam và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện, thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về CBXXPTVADS góp

phần nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm.
Để thực hiện mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ làm rõ khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của CBXXPTVADS; sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về CBXXPTVADS; phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về CBXXPTVADS và tìm hiểu việc thực hiện
chúng tại các TA từ đó nhận diện được những hạn chế của chúng và đề xuất phương
hướng, biện pháp khắc phục.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, quá trình nghiên cứu cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn
logic
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến CBXXPTVADS nên có những điểm mới khoa học sau:
- Xây dựng khái niệm CBXXPTVADS, chỉ ra đặc điểm và ý nghĩa của
CBXXPTVADS.
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về CBXXPTVADS.
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về CBXXPTVADS và thực tiễn thực hiện tại các TA.


4

- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về CBXXPTVADS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba phần: Mở đầu, nội
dung và kết luận.

Phần nội dung của luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và kiến nghị.


5

Chương I
KháI quát về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự

1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là cấp xét xử thứ hai trong quá trình giải quyết
một vụ án dân sự. Chuẩn bị xét xử là bước đầu tiên của giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án dân sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học Nhà xuất bản Giáo dục, năm
1994 thì các thuật ngữ chuẩn bị, xét xử, phúc thẩm và dân sự được định nghĩa như
sau:
Chuẩn bị là làm cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì [ 31, tr175]. Xét xử
là xem xét và xử các vụ án [ 31, tr.1108].Phúc thẩm là (TA cấp trên) xét xử lại
một vụ án do TA cấp dưới đã xử sơ thẩm mà chống án [31, tr.763].Dân sự là
việc thuộc về quan hệ tài sản hoặc hôn nhân, gia đình.v.v do TA xét xử (nói khái
quát) [31, tr.239]. Một số tác giả đưa ra khái niệm về chuẩn bị xét xử là chuẩn
bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
[15. tr.136].
Về khái niệm vụ án dân sự, trước đây pháp luật quy định việc hình và việc hộ để

phân biệt giữa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự và các việc nảy sinh trong
lĩnh vực dân sự của đời sống nhân dân. Trong Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng 01
năm 1946 về tổ chức TA và các ngạch thẩm phán đã chỉ rõ các loại việc hộ bao gồm
các việc về dân sự và thương sự (Điều 3, Điều 17). Tại Điều 9 Sắc lệnh số 85-SL
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định TA hòa giải tất
cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả các việc ly dị, trừ những vụ kiện mà
theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình. Theo quy định này, thuật ngữ
việc kiện dân sự cũng có thể được gọi là vụ kiện dân sự, để chỉ những tranh
chấp dân sự có yêu cầu được TA giải quyết. Từ việc và vụ trong trường hợp


6

này là tương đồng, có thể dùng là việc kiện hoặc vụ kiện mà không dùng vụ
việc kiện [6, tr.154].
Trên cơ sở Điều 97 Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức nhân dân năm 1960 quy
định: Tòa án nhân dân (TAND) xét xử những vụ án hình sự và dân sự. Lần đầu tiên,
thuật ngữ vụ án được quy định. Bên cạnh đó, tại Thông tư số 39-NCPL ngày
21/1/1972 của TANDTC về việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về
hôn nhân và tranh chấp về dân sự, thuật ngữ vụ kiện dân sự vẫn được sử dụng để
chỉ những loại việc về hôn nhân và gia đình và những tranh chấp dân sự. Khi
PLTTQCVADS, PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTCLĐ ra đời thì các loại việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của TA đều được gọi chung là vụ án, tương ứng với từng thủ
tục giải quyết là các vụ án dân sự, hay kinh tế, riêng lĩnh vực lao động thì gọi là
tranh chấp lao động.
Tuy nhiên, từ ngày BLTTDS ra đời, khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế khái
niệm vụ án dân sự. Theo đó, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Theo Điều 1 BLTTDS về phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
thì Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự;
trình tự thủ tục khởi kiện để TA giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)
và trình tự, thủ tục yêu cầu TA giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình
tự giải quyết các vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại
TA.
Khi BLTTDS ra đời, lần đầu tiên khái niệm vụ án dân sự đã được khái quát hóa là
các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
(Điều 1 BLTTDS). Theo BLTTDS, vụ án dân sự là những việc có tranh chấp, bắt
đầu từ sự mâu thuẫn giữa các bên đương sự, trong đó có một bên yêu cầu TA buộc
bên kia phải thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật
nêu trên. Theo quy định tại các điều 25, 27, 29, 31 của BLTTDS thì vụ án dân sự
bao gồm các tranh chấp sau đây:


7

- Những tranh chấp về dân sự, bao gồm: Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về
quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về hợp đồng dân
sự; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này; tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp liên quan đến
hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật; các tranh chấp khác về dân sự mà
pháp luật có quy định.
- Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bao gồm: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn; tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ; tranh
chấp về cấp dưỡng; các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có
quy định.

- Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, bao gồm: Tranh chấp phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Những tranh chấp về lao động, bao gồm: Tranh chấp lao động cá nhân giữa
người lao động với người sử dụng lao động; tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể
lao động với người sử dụng lao động; các tranh chấp lao động khác mà pháp luật có
quy định.
Lần đầu tiên, khái niệm việc dân sự cũng được xây dựng là các việc yêu cầu dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (Điều 1 BLTTDS).
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu
TA công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh


8

quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại của mình hoặc
của cá nhân, tổ chức khác, yêu cầu TA công nhận cho mình quyền dân sự hôn nhân
và gia đình, kinh doanh thương mại. Đặc trưng của việc dân sự là do không có yếu
tố kiện, tức là không có tranh chấp trực tiếp về quyền và lợi ích giữa các bên đương
sự mà chỉ có một bên (cá nhân, cơ quan, tổ chức) có yêu cầu TA công nhận hay
không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó mà sự kiện pháp lý này phải là những
căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự; hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động, hoặc công nhận một quyền về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động. BLTTDS quy định các việc dân sự trong
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại các điều
26, 28, 29 và 30.

Như vậy, có thể coi có việc tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền và lợi
ích hợp pháp là tiêu chí để phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Tuy nhiên, sự
phân biệt này cũng chỉ mang tính chất tương đối, ví dụ đối với yêu cầu hủy hôn
nhân trái pháp luật, dù chỉ có một bên yêu cầu, bên kia không muốn ly hôn, nghĩa là
có tranh chấp giữa hai bên về việc có yêu cầu hủy hôn nhân hay không thì yêu cầu
hủy hôn nhân trái pháp luật vẫn được coi là việc dân sự [6, tr.69]. Tuy nhiên, vụ
án dân sự và việc dân sự có mối liên hệ mật thiết với nhau, tổng hợp các vụ án dân
sự và việc dân sự tạo thành vụ việc dân sự.
Xét xử phúc thẩm là một hoạt động cơ bản của quá trình giải quyết vụ án dân sự
của TA. Theo các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố thì Xét xử phúc
thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị [8, tr.393].
Đối tượng của xét xử phúc thẩm là các bản án, quyết định chưa hiệu lực của Tòa
án cấp sơ thẩm (TACST), nhưng không phải tất cả các bản án, quyết định sơ thẩm
mà chỉ có những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo (KC), kháng nghị (KN)
mới được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Phạm vi xét xử phúc thẩm là những phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có KC,
KN hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung KC, KN.


9

Như vậy, qua các vấn đề đã nêu ở trên, thì CBXXPTVADS là việc chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để xét xử lại tranh chấp thuộc về quan hệ tài sản, hôn
nhân, gia đình hoặc lao động do TA cấp dưới đã xử sơ thẩm mà bị chống án. Trong
khoa học pháp lý, có nhiều ý kiến khác nhau về CBXXPTVADS. Có tác giả cho
rằng nếu hiểu CBXXPTVADS với tính chất là một quá trình thì CBXXPTVADS là
một giai đoạn tố tụng độc lập trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại TA [8,
tr.327]. Có tác giả lại cho rằng nếu hiểu CBXXPTVADS với tính chất là hoạt động
tố tụng thì chuẩn bị xét xử vụ án dân sự gồm những công việc cụ thể do những

người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tiến hành trên cơ sở quy định của pháp
luật, phù hợp với địa vị tố tụng của họ để bảo đảm cho việc xét xử vụ án theo trình tự
phúc thẩm [8, tr.328].
Trong phạm vi bản luận văn này, chúng tôi phân tích CBXXPTVADS với tính
chất là hoạt động tố tụng dân sự của TA trong thủ tục xét xử phúc thẩm. Theo đó,
Tòa án cấp phúc thẩm (TACPT) phải tiến hành những hoạt động tố tụng cần thiết
như thụ lý vụ án, nghiên cứu hồ sơ, chuyển hồ sơ cho VKS nghiên cứu, hướng dẫn
hoặc yêu cầu đương sự tham gia những hoạt động tố tụng cần thiết như cung cấp, bổ
sung chứng cứ, ký nhận giấy triệu tập để hết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
do pháp luật quy định, phải ra một trong các quyết định như tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự; quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, TACPT còn có
thể ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu có căn
cứ pháp luật. Đồng thời, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, TA phải tiến
hành các công việc để bảo đảm vụ án dân sự được đưa ra xét xử theo trình tự phúc
thẩm, như tống đạt các giấy triệu tập, giấy báo, giấy mời tham gia phiên tòa phúc
thẩm, làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự; cho phép đương sự và người bảo vệ đương sự được sao chụp các tài
liệu trong hồ sơ vụ án để chuẩn bị lý lẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
tại phiên tòa phúc thẩm.


10

Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về CBXXPTVADS tại TA như
sau:
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án cấp
phúc thẩm tiến hành nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc xét xử
lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị.

1.1.2. Đặc điểm của chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
CBXXPTVADS là hoạt động không thể thiếu được của quá trình giải quyết lại vụ
án theo thủ tục phúc thẩm. Xuất phát từ tính chất yêu cầu của xét xử phúc thẩm,
CBXXPTVADS có những đặc điểm cơ bản sau:
- Là hoạt động tố tụng bao gồm những công việc cụ thể do Tòa án tiến hành
trên cơ sở các quy định của pháp luật, phù hợp với địa vị tố tụng của họ.
Trong quá trình CBXXPTVADS, việc đầu tiên là TA tiến hành thụ lý vụ án dân
sự. Do tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là TA cấp trên xét xử các vụ án
dân sự do TA cấp dưới đã xét xử sơ thẩm và bị KC, KN nên khi tiến hành thụ lý vụ
án dân sự, TACPT phải kiểm tra kỹ các thủ tục KC, KN thông qua các hoạt động tố
tụng sau: xem xét đối tượng để đương sự KC, VKS KN; kiểm tra tính hợp lệ của đơn
KC, của quyết định KN; giải quyết các trường hợp KC quá hạn; vào sổ thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự; thông báo thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự; thành lập Hội đồng xét
xử phúc thẩm (HĐXXPT), thư ký TA; giải quyết các trường hợp từ chối tiến hành tố
tụng và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; các thành viên của HĐXXPT
nghiên cứu hồ sơ vụ án; chuyển hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu đối với những vụ
án pháp luật quy định VKS phải có tham gia phiên tòa phúc thẩm; giải quyết các
trường hợp thay đổi hay bổ sung, rút KC, KN trước khi tiến hành xét xử phúc thẩm.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc quyết
định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sựNếu TA ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử thì TA tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo để
bảo đảm cho phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự được tiến hành.


11

- Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tập trung vào việc giải quyết yêu
cầu của kháng cáo, kháng nghị.
Mục đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm là phục vụ xét xử sơ thẩm nên trong quá
trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thì TA phải tiến hành các hoạt động tố

tụng cần thiết để xây dựng lên hồ sơ vụ án, nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ
án. Trong gian đoạn này, TACST phải tiến hành các hoạt động như lấy lời khai, xem
xét thẩm định tại chỗ, định giá, yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ, cho các đương
sự đối chấtXét xử sơ thẩm theo yêu cầu của đương sự, TACST phải xem xét giải
quyết tất cả các vấn đề mà người khởi kiện nêu trong đơn khởi kiện, người bị kiện
nêu trong đơn phản tố hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nêu trong đơn yêu
cầu độc lập nên phạm vi xây dựng và nghiên cứu hồ sơ trong quá trình chuẩn bị xét
xử của TACST phải bao gồm tất cả các nội dung liên quan đến vụ án.
Với tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án và trong phạm vi KC,
KN nên TACPT không xây dựng lại hồ sơ vụ án để xét xử mà căn cứ hồ sơ TACST
đã xây dựng sẵn. Trong quá trình CBXXPTVADS, TACPT chỉ tiến hành lấy lời
khai của đương sự và tiến hành các hoạt động tố tụng thu thập chứng cứ khác như
xem xét thẩm định tại chỗkhi thấy cần thiết và phạm vi nghiên cứu của TACPT
trong quá trình chuẩn bị xét xử là chỉ tập trung vào các phần của bản án, quyết định
sơ thẩm có KC, KN hoặc có liên quan đến việc KC, KN.
- Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Tòa án không hòa
giải các vụ án dân sự.
Theo quy định của Điều 180 BLTTDS thì hòa giải là một nguyên tắc bắt buộc
trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, TA tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trừ những vụ án không được hòa
giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Trong khi đó, BLTTDS không quy định
hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong thời hạn CBXXPTVADS nên trên thực tế hiện
nay, TACPT chỉ tiến hành hòa giải khi các đương sự có yêu cầu.
Sở dĩ, pháp luật quy định không hòa giải trong quá trình CBCBXX là do tính chất
của xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là khác nhau. Xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là xét


12

xử lần đầu đối với vụ án dân sự còn xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án. Mặt khác,

hai hoạt động tố tụng này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có mối liên quan mật thiết với các
hoạt động tố tụng khác.
Tại Điều 17 BLTTDS quy định: Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, do đó,
CBXXPTVADS có mối liên hệ pháp lý với các hoạt động tố tụng của TACST. Một
trong những hoạt động đầu tiên và khá quan trọng của CBXXPTVADS là thụ lý
phúc thẩm vụ án dân sự, hoạt động này có liên quan mật thiết đến việc lập hồ sơ và
gửi hồ sơ có KC, KN của TACST. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm,
TACPT nghiên cứu vụ án trên cơ sở hồ sơ đã được TACST xây dựng sẵn. Việc
chuẩn bị xét xử phúc thẩm có liên quan mật thiết đến phiên tòa phúc thẩm, nếu việc
chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà tốt thì mới bảo đảm phiên tòa phúc thẩm được đưa ra
xét xử, hạn chế việc hoãn phiên tòa do yếu tố chủ quan như nghiên cứu hồ sơ vụ án
chưa đầy đủ, triệu tập thiếu đương sự
1.1.3. ý nghĩa của chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Với mục đích chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xét xử phúc thẩm, vì vậy
CBXXPTVADS có ý nghĩa sau đây:
- Giúp Tòa án cấp phúc thẩm có đủ các chứng cứ, tài liệu và nhận thức đúng
các tình tiết của vụ án từ đó quyết định giải quyết đúng đắn vụ án.
Trong quá trình CBXXPTVADS, thông thường TACPT tiến hành đánh giá lại
các chứng cứ, tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án. Trong trường hợp thiếu chứng cứ, tài
liệu để giải quyết vụ án thì TACPT sẽ yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ
hoặc tiến hành thu thập chứng cứ bổ sung theo yêu cầu của đương sự để trên cơ sở
đó xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự, tư cách đương sự và
làm rõ những nội dung KC, KNTừ đó, TACPT sẽ áp dụng pháp luật để giải quyết
vụ án lại vụ án được đúng đắn.
- Giúp Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết để mở phiên tòa phúc
thẩm.


13


Một trong những yếu tố giúp cho phiên tòa phúc thẩm được mở thành công là
phải bảo đảm sự có mặt của những người tiến hành tố tụng như Hội đồng xét xử,
VKS, và những người tham gia phiên tòa phúc thẩm. Công tác chuẩn bị hội trường
xét xử tuy là nhỏ nhưng cũng hết sức quan trọngChuẩn bị xét xử phúc thẩm nhằm
giúp TA mở được phiên tòa phúc thẩm thông qua các hoạt động tố tụng như phân
công Hội đồng xét xử, gửi hồ sơ cho VKS nghiên cứu, triệu tập đương sự, gửi giấy
báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham
gia phiên tòa được TA thông báo lịch xét xử trong thời hạn luật định để họ có thể bố
trí lịch làm việc để tham gia phiên tòa.
Khi xét xử phúc thẩm, phải chuẩn bị trước hội trường để xét xử. Đối với TA cấp
tỉnh thì việc bố trí hội trường xét xử không mấy khó khăn. Tuy vậy, đối với các Tòa
phúc thẩm của TANDTC do đặc thù là phải về địa phương để xét xử phúc thẩm các
vụ án dân sự nên để tránh cho các đương sự phải đến trụ sở của các Tòa phúc thẩm
của TANDTC ở các thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh gây tốn kém và
khó khăn cho họ, đồng thời tránh việc phải hoãn phiên tòa nên các Tòa phúc thẩm
của TANDTC phải mượn hội trường của các TA địa phương để xét xử nên vấn đề
phối hợp với TA địa phương trong việc bố trí hội trường xét xử các vụ án dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của các Tòa phúc thẩm là hết sức có ý nghĩa.
- Giúp đương sự bổ sung chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho kháng cáo của
mình là có căn cứ và hợp pháp.
Khi kháng cáo, các đương sự có thể chưa có đủ chứng cứ, tài liệu để cung cấp
ngay cho Tòa án. Việc pháp luật quy định thời gian CBXXPTVADS tạo cho các
đương sự có điều kiện thu thập chứng cứ, tài liệu bổ sung để chứng minh cho yêu
cầu của họ.
1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự từ năm
1945 đến nay

Từ năm 1945 đến nay, hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trải qua nhiều

giai đoạn phát triển. Căn cứ vào sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự ở các thời


14

kỳ có thể chia sự phát triển các quy định về CBXXPTVADS thành các giai đoạn
sau:
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Sau khi tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày mùng 2
tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Nhà nước và nhân dân Việt
Nam bắt tay ngay vào việc xây dựng một xã hội mới. Trong giai đoạn này, Nhà
nước ta đã khẩn trương xây dựng một bộ máy Cách Mạng, trong đó có cơ quan tư
pháp. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập các TA quân
sự - Cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Để kịp thời điều chỉnh các quan hệ pháp luật nảy sinh trong xã hội, đồng thời do
hoàn cảnh lịch sử lúc đó chưa có điều kiện để soạn thảo văn bản pháp luật nói chung
và văn bản tố tụng dân sự nói riêng nên ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ban hành Sắc lệnh số 47/SL cho tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Việt Nam cho đến
khi ban hành những Bộ luật mới áp dụng trên toàn cõi Việt Nam.
Đến ngày 19/11/1946, Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua
bản Hiến pháp đầu tiên của nước TA, đánh dấu một sự hình thành trong lịch sử lập
hiến của đất nước. Từ năm 1946 cho đến năm 1960, Nhà nước TA đã ban hành một
loạt các văn bản mới trong đó có nhiều văn bản quy định về các hoạt động tố tụng
liên quan đến CBXXPTVADS. Về người có quyền KC được quy định tại Sắc lệnh
số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 (Điều 24); Thông tư số 52/P4 ngày 18/6/1950
của Bộ Tư Pháp (mục D); Thông tư số 22/HCTP ngày 18/2/1957 của Bộ Tư Pháp.
Việc thực hiện quyền KC được quy định ở các văn bản sau: Sắc lệnh số 112/SL
ngày 28/6/1946 bổ sung Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 tại Điều 1
quy định; Thông tư số 03 của TANDTC quy định về việc việc chống án sơ thẩm
vắng mặt về ly hôn. Tại Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 quy định về phạm vi xét

xử phúc thẩm. Ngoài ra, pháp luật thời kỳ này còn có nhiều văn bản quy định về
việc KC quá hạn, nội dung đơn KC, bổ sung thay đổi và rút KC, thẩm quyền KN
bản án phúc thẩm, nội dung quyết định KN của VKS, những hậu quả của việc rút
KC, KN, thủ tục nộp đơn KC, thông báo KC, KNThông tư số 1828/VHC ngày 18


15

tháng 10 năm 1955 của Bộ Tư Pháp về quyền chống án và thời hạn chống án quy
định: đối với án khuyết tịch (xử vắng mặt), thì bị can (về hình), bị cáo (về hộ) đều
có quyền kháng án khuyết tịch trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt án khuyết
tịch, để TA đã xét xử sơ thẩm xét xử lại cho.
Trong giai đoạn này, do cả nước khẩn trương thực hiện cuộc kháng chiến chống
Pháp nên các TA chỉ tập trung xét xử các vụ án hình sự mà ít giải quyết các vụ án
dân sự. Theo Thông tư số 12 - NV - CT ngày 19/12/1946 của Bộ Tư pháp về tổ chức
tư pháp trong tình hình đặc biệt thì các việc hộ hoặc thương mại sẽ bị đình chỉ, trừ
những việc cấp tốc sẽ do hội thẩm chuyên môn của TA quân sự xét xử bằng mệnh
lệnh nên pháp luật tố tụng dân sự nói chung, pháp luật về CBXXPTVADS nói riêng
còn sơ sài.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND)
năm 1960 ra đời đánh dấu một bước chuyển biến to lớn trong nền tư pháp nước ta
nói chung và luật tố tụng dân sự cũng như CBXXPTVADS nói riêng. Sau đó, Nhà
nước ta đã ban hành khá nhiều các văn bản liên quan đến CBXXPTVADS như
Công văn số 507-TC ngày 2/4/1963 của TANDTC quy định về loại việc dân sự mà
TA cần phải báo cho VKS biết khi có sự chống án. Công văn số 905-NCPL ngày
22/7/1965 của TANDTC quy định trong trường hợp cần thiết TACPT có thể tiến
hành việc điều tra bổ sung trước khi xét xử phúc thẩm. Công văn số 03/NCPL ngày
03/3/1966, của TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn có hướng dẫn: nếu qua
thẩm tra hồ sơ, xét có điểm chưa sáng tỏ về một vấn đề nào đó thì TACPT phải đề ra

biện pháp bổ sung trước khi xử kể cả việc giao TA điều tra bổ sung nếu xét thấy cần
thiết. Ngoài ra, CBXXPTVADS còn được hướng dẫn tại các báo cáo tổng kết ngành
Tòa án của TANDTC. Tại Báo cáo tổng kết ngành TA năm 1971 của TANDTC
hướng dẫn trước khi xét xử phúc thẩm nếu các bên đương sự tỏ ý muốn thỏa thuận
với nhau để chấm dứt sự tranh chấp bằng hòa giải nếu xét thấy sự thỏa thuận của
đương sự phù hợp với luật pháp chính sách thì Tòa phúc thẩm sẽ ra bản án phúc
thẩm chấp nhận việc thỏa thuận đó và chấm dứt việc kiện tụng chứ không dùng hình


16

thức biên bản hòa giải thành. Tại Công văn số 125/NCPL ngày 12/7/1979 của
TANDTC và theo Bản hướng dẫn gửi kèm công văn số 442/NCPL ngày 04/6/1979
của TANDTC thì: trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa xét xử phúc thẩm nếu
có việc rút KC hoặc rút KN thì đều do một hội đồng gồm ba thẩm phán xét có thể
chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu bản án sơ thẩm có sai lầm thì sẽ bác rút KC
của đương sự, hoặc rút KN của VKS để xét xử phúc thẩm ngay với bản án sơ thẩm
đó. Theo LTCTAND năm 1981 thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm
đối với các bản án của TAND cấp huyện nên đối với trường hợp đương sự rút KC
hoặc VKS rút KN trước khi mở phiên tòa thì do một Thẩm phán, tại phiên tòa thì do
Hội đồng xét xử ra quyết định chấp nhận. Trường hợp xét thấy bản án sơ thẩm có
sai lầm thì ngay sau khi ra quyết định chấp nhận rút KC, KN, TACPT phải thông
báo ngay cho TA có thẩm quyền giám đốc thẩm đối với bản án đó. Theo chúng tôi,
quy định tại Bản hướng dẫn gửi kèm Công văn số 442/NCPL tiến bộ hơn quy định
tại Công văn số 125/NCPL vì khi đương sự tự nguyện rút KC, VKS rút KN thì trong
phạm vi quyền hạn của mình, TACPT chỉ chấp nhận việc rút KC, KN đó, chứ
không vì xét thấy bản án cấp sơ thẩm có sai lầm mà TACPT lại bác việc rút KC, KN
đó của đương sự và VKS vì làm như vậy là vi phạm nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự. Bên cạnh đó, nếu xét thấy bản án sơ thẩm của TACST có
sai lầm, TACPT có quyền KN theo trình tự giám đốc thẩm để bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự đồng thời vẫn bảo đảm được pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nói chung các quy định về CBXXPTVADS trong tố tụng dân sự giai đoạn từ
năm 1960 đến năm 1989 tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng chủ yếu vẫn là các văn bản
do TANDTC ban hành, chưa được quy định trong một văn bản pháp luật tố tụng
dân sự có hiệu lực cao nên hiệu quả thực hiện còn hạn chế.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Cùng với sự chuyển mình về kinh tế, xã hội của đất nước, trên tinh thần của Nghị
quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI là tăng cường sự quản lý Nhà nước
bằng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Hội đồng Nhà nước
đã thông qua PLTTGQCVADS (năm 1990). PLTTGQCVAKT (năm 1994);


17

PLTTGQCTCLĐ (năm 1996) cũng được ban hành. Theo ba pháp lệnh này,
CBXXPTVADS được tập hợp một cách tập trung hơn bao gồm các quy định về các
điều kiện KC, KN; thời hạn xét xử phúc thẩm; quyền của TACPT trong việc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, hòa giải
Ngoài ra, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành các Pháp
lệnh này, như Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 01/10/1990 của TANDTC,
VKSNDTC và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của
PLTTGQCVADS; Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTPTANDTC
hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS; Công văn số 310/NCPL ngày 24/12/1990
của TANDTC giải thích một số vấn đề về tố tụng dân sự đã đánh dấu bước phát
triển mới của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định về pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và CBXXPTVADS nói riêng vẫn còn tản mạn như
các giai đoạn trước. Đặc biệt, với sự ra đời của PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTTLĐ
đã dẫn đến các quy định về tố tụng dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung, chồng chéo và
mâu thuẫn. [32, tr.25].
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở thế kỷ XXI, các tranh chấp
trong lĩnh vực dân sự cũng ngày càng phát sinh, đòi hỏi sự giải quyết thỏa đáng,
minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và Nhà nước, phù hợp
với thông lệ thế giới. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các tranh
chấp trong lĩnh vực dân sự, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (BLTDS) đầu tiên của nước ta tại kỳ
họp thứ 5. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005. Lần đầu
tiên trong lịch sử lập pháp CBXXPTVADS được quy định thành một chương riêng
(Chương XVI) bao gồm các điều từ Điều 257 đến 262 và một số các điều luật khác
có liên quan. Lần đầu tiên khái niệm vụ việc dân sự được xây dựng và khái niệm vụ
án dân sự cũng được cụ thể hóa hơn. CBXXPTVADS cũng được BLTTDS quy định
với hàng loạt các điểm mới như cấp, thông báo văn bản tố tụng, thời hạn KC, cung
cấp chứng cứ, bổ sung áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thờiTiếp đó,


18

CBXXPTVADS còn được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành
BLTTDS như: Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc
thi hành BLTTDS; Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP ngày 31/3/2005 của
HĐTPTANDTC hướng dẫn một số quy định trong phần thứ nhất Những quy định
chung của BLTTDS; Nghị quyết số 02/2005/NQ - HĐTP ngày 27/4/2005 của
HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời của BLTTDS; Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
17/9/2005 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS
về chứng minh, chứng cứ; Nghị quyết số 05/2006/NQ- HĐTP ngày 04 tháng 8 năm
2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba
Thủ tục giải quyết vụ án tại TACPT của BLTTDS và Pháp lệnh số
10/2009/UBTVQH12 về án phí, lệ phí TA.
Trong việc xây dựng pháp luật, nếu trước đây chúng ta quan tâm nhiều đến

việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật vật chất (luật
nội dung) hoặc có thời kỳ theo hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, chúng ta hầu như
chỉ tập trung xây dựng các quy định pháp luật điều chỉnh các vi phạm trong lĩnh vực
hình sự, thì nay, Đảng và Nhà nước ta đã pháp điển hóa các quy định của tố tụng
dân sự nói chung và chuẩn bị xét xử vụ án dân sự nói riêng trong BLTTDS và các
văn bản hướng dẫn nêu trên. BLTTDS ra đời khắc phục được tình trạng tản mạn,
mâu thuẫn, khiếm khuyết của các quy định tố tụng dân sự trước đây [32, tr.26], và
vấn đề CBXXPTVADS cũng được quy định khá đầy đủ giúp giải quyết vụ án dân
sự theo trình tự phúc thẩm được hiệu quả hơn.
Kết luận chương I

Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự có thể rút ta một số kết luận như sau:
1. Theo Điều 17 BLTTDS quy định nguyên tắc Toà án thực hiện chế độ hai cấp
xét xử. Vì vậy, xét xử phúc thẩm là một hoạt động cơ bản của quá trình giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án. Để bảo đảm việc xét xử phúc thẩm vụ án dân sự được


19

đúng đắn, trước khi xét xử phúc thẩm phải tiến hành việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm
vụ án dân sự. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa
án cấp phúc thẩm tiến hành nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc xét
xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động không thể thiếu của quá
trình giải quyết lại vụ án dân sự theo thủ tục phục thẩm, có các đặc điểm như Tòa án
là chủ thể chính tiến hành các hoạt động tố tụng bao gồm những công việc cụ thể
trên cơ sở các quy định của pháp luật, đối tượng của chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ
án dân sự là giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị và chuẩn bị xét xử phúc thẩm

vụ án dân sự có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác.
3. Với mục đích chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự, chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có ý nghĩa to lớn trong việc giúp
cho Tòa án cấp phúc thẩm có đủ chứng cứ tài liệu và nhận thức đúng các tình tiết
khách quan của vụ án để quyết định giải quyết vụ án được đúng đắn, qua công tác
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự các thủ tục tố tụng cần thiết để mở phiên tòa
phúc thẩm cũng được tiến hành, bảo đảm cho đương sự thực hiện tốt hơn quyền bảo
vệ của mình thông qua việc quy định đương sự có thể bổ sung chứng cứ tài liệu kèm
theo đơn kháng cáo hoặc cung cấp chứng cứ tài liệu bổ sung trong khi chuẩn bị xét
xử phúc thẩm vụ án dân sự.
4. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự được quy định ngay từ các văn bản
pháp luật ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Các quy định về chuẩn
bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự từ sau năm 1945 đến năm 2004 mặc dù vẫn được
áp dụng và cải tiến, đã góp phần giải quyết vụ án dân sự qua các thời kỳ, tuy nhiên,
do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và do trình độ lập pháp nên có những hạn chế
nhất định chỉ cho đến khi Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, chuẩn bị xét xử phúc thẩm
vụ án dân sự mới được pháp điển hóa trong văn bản có hiệu lực pháp luật cao do
Quốc Hội ban hành, bảo đảm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự.


20

CHƯƠNG II
Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân Sự
2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm

Theo Điều 258 BLTTDS, trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy
từng trường hợp, TACPT ra một trong các quyết định sau đây:
- Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;

- Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
- Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì khi thời hạn
chuẩn bị xét xử còn lại không quá 5 ngày, Chánh án TACPT có quyền ra quyết định
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm nhưng không được quá một tháng.
Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, TA phải mở
phiên tòa phúc thẩm, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai
tháng.
Theo quy định tại tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II của Nghị quyết số 02/2006/NQHĐTP ngày 12/5/2006 của HHĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành các quy định
trong Phần thứ hai Thủ tục giải quyết vụ án tại TACST của BLTTDS (Nghị quyết
số 02/2006/NQ-HĐTP) thì những vụ án có tính chất phức tạp hoặc trở ngại
khách quan được hướng dẫn như sau:
Những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều đương sự, có liên
quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với
nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ
thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài
hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước
ngoài cần phải có thời gian ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao Việt
Nam ở nước ngoài, cho TA nước ngoàiTuy nhiên, đối với trường hợp cần phải


21

chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ ý kết quả giám định kỹ thuật
phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả ủy thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét
xử (kể cả thời hạn gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của
BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự [ 22, tr.12].
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động
như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấulàm cho TA không

thể giải quyết vụ án trong thời hạn luật định [22, tr.12].
Trước khi BLTTDS ra đời, các văn bản tố tụng không quy định trong thời hạn
CBXXPT TACPT có quyền ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án,
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, mặc dù trên thực tế khi gặp các căn cứ
để tạm đình chỉ TACPT vẫn tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án nhưng không
quyết định tạm đình chỉ hoặc có căn cứ để đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, TACPT
vẫn đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Vô hình chung do sự không điều chỉnh kịp
thời của pháp luật đã dẫn tới sự vi phạm pháp luật của TACPT. BLTTDS ra đời đã
quy định rất rõ nhiệm vụ của TACPT tại Điều 258 là trong thời hạn hai tháng, sau
khi tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết như nghiên cứu hồ sơ, lấy lời khai đương
sự, yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung chứng cứ, thu thập chứng cứ khi đương sự
không thể thu thập được và có yêu cầu... căn cứ vào quy định tại các điều 259, 260,
189, 190, 195 TACPT phải ra một trong ba quyết định, đó là quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Quy định này đã tạo hành lang pháp lý cho TACPT
trong việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, khắc phục thiếu sót
của các văn bản tố tụng trước đây. BLTTDS cũng quy định TACPT có quyền gia
hạn thời hạn CBXXPT đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại
khách quan. Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP cũng đã quy định rất rõ thế nào là
tính chất phức tạp hoặc trở ngại khách quan. Quy định của BLTTDS về gia hạn
thời hạn CBXXPT và các quy định về lý do được gia hạn thời hạn CBXXPT của
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP rất có ý nghĩa cho TACPT trong việc chuẩn bị
xét xử phúc thẩm, tránh được trường hợp vi phạm pháp luật về thời hạn chuẩn bị xét


×