Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo pháp luật cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.54 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SOULIVANH PHOMMACHIT

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUỐC TẾ ..................................................................................................... 6
1.1. Khái quát về mua bán hàng hoá quốc tế và hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế............................................................................................................ 6
1.2. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ..... 17
1.3. Pháp luật của CHDCND Lào về mua bán hàng hoá quốc tế .................. 20


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC CHDCND LÀO VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ............................................. 23
2.1. Các quy định về hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế . 23
2.2. Các quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .............. 30
2.3. Các quy định về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ............ 34
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỦA
CHDCND LÀO VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HANG HOÁ QUỐC TẾ . 48
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật của CHDCND Lào về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế ............................................................................ 48
3.2 Những phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế của CHDCND Lào. ................................................................... 49
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật của CHDCND Lào về hợp
đồng mua bán hàng hóa. ............................................................................... 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1986, đại hội lần thứ IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã
đề ra những quyết sách có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của đất
nước, trong đó trọng tâm là vấn đề đổi mới kinh tế. Nội dung cơ bản của
chính sách đổi mới kinh tế là việc chuyển nền kinh tế Lào từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách đó đã tác động tích cực

đến mọi mặt của đời sống xã hội, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong nền
kinh tế quốc dân, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế đất nước với khu vực
và thế giới.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế có vai trò vô cùng to lớn, là động lực thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa kinh tế của Lào với nền kinh tế thế
giới. Việc mua bán hàng hoá với nước ngoài đã trở nên cấp thiết và quan
trọng hơn bao giờ hết, bởi lẽ nó không những thúc đẩy sự lưu thông hàng
hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, mà còn tạo động lực phát triển
nền sản xuất trong nước, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế được thể hiện dưới hình thức
pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Do vậy, Nhà nước
CHDCND Lào luôn xác định việc xây dựng và hoàn thiện chế độ pháp lý
về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là vấn đề rất quan trọng trong tiến
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế. Yêu cầu đặt ra là phải xây
dựng hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đồng bộ,
chặt chẽ và hợp lý để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế, đồng thời phải thông thoáng, phù hợp với thông lệ
quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ khi thực


hiện đường lối đổi mới, hệ thống pháp luật CHDCND Lào nói chung và
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng đã có nhiều
bước tiến tích cực. Năm 1990 Lào đã ban hành Luật hợp đồng và năm 2008
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật hợp đồng. Tuy nhiên,
những quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, đặc biệt trong
bối cảnh nước CHDCND Lào đang hướng tới mục tiêu gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO. Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này

vẫn còn nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ, tính nhất quán; nhiều vấn đề
hoàn toàn chưa được pháp luật đề cập tới hoặc đề cập khá sơ sài, vì thế
chưa tạo ra được khuôn khổ pháp lý chặt chẽ cho các nhà kinh doanh trong
hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Điều đó dẫn đến hậu quả là việc ký
kết và thực hiện loại hợp đồng này trong thực tiễn còn gặp rất nhiều vướng
mắc, bất cập. Mặt khác, sự hiểu biết còn hạn chế của các chủ thể kinh
doanh về pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật mua bán hàng hoá quốc
tế nói riêng cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của
việc áp dụng pháp luật đối với các quan hệ phát sinh từ lĩnh vực này.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
theo pháp luật nước CHDCND Lào” mang tính cấp thiết cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn, không những nhằm nâng cao hiểu biết của các nhà kinh
doanh về pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, mà
còn góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế phát
triển mạnh mẽ, mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế quốc dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mua bán hàng hoá quốc tế là một hoạt động khá sôi động đối với
nhiều quốc gia, nhất là những nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ
chế kinh tế thị trường như Việt Nam và Lào. Vì vậy, trong thời gian qua tại
Việt Nam đã có khá nhiều nhà khoa học nghiên cứu về hoạt động mua bán


hàng hoá quốc tế, chủ yếu trên phương diện kinh tế học. Dưới góc độ luật
học, có một số nghiên cứu ở các cấp độ về hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua
bán hàng hoá trong nước hay quốc tế, nhưng trên cơ sở nghiên cứu pháp
luật Việt Nam. Ví dụ, Đề tài khoa học cấp trường của Ths. Nông Quốc
Bình “Pháp luật về mua bán hàng hoá quốc tế của Việt Nam - Sự phát triển
và hoàn thiện trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế (năm 2002), bài viết của
Phan Thị Thanh Hồng (Trường Đại Học Kinh tế Đà Nẵng) “Một số vấn đề

cần lưu ý nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế”, luận văn tốt nghiệp đại học của Lương Thị Yến (Trường Đại Học
Luật Hà Nội) “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế” (năm 2007)…
Tại nước CHDCND Lào, vấn đề hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
chưa được tập trung nghiên cứu một cách thỏa đáng. Hầu như chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và khoa học những vấn đề
pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Chính vì thế đề tài của
luận văn có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu làm rõ những khía cạnh pháp lý
của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, đánh giá thực trạng áp dụng các
quy định pháp luật về loại hợp đồng này, từ đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật nước CHDCND Lào về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế.
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
- Làm rõ bản chất pháp lý của mua bán hàng hoá quốc tế và vai trò
của nó đối với nền kinh tế quốc dân; Nêu rõ các hình thức mua bán hàng
hoá quốc tế như xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái
nhập…;


- Phân tích bản chất và các đặc trưng pháp lý của hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế; từ đó phân biệt với hợp đồng mua bán hàng hoá trong
nước;
- Chỉ rõ nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế;
- Làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, cụ thể là những quy định về giao kết hợp đồng; hiệu lực
của hợp đồng, thực hiện hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua

bán hàng hoá quốc tế và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế;
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật
Lào về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và những tư liệu thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật về vấn đề này tại nước CHDCND Lào. Tuy
nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở những vấn đề lý
luận chung, mang tính cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chứ
không đi sâu vào từng loại hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chuyên
biệt.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi triển khai đề tài nghiên cứu, tác giả luận văn vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước CHDCND Lào trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn sử dụng rộng rãi các phương
pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và đặc biệt là phương pháp so sánh,
đối chiếu pháp luật nước CHDCND Lào với pháp luật Việt Nam, để từ đó học
tập những kinh nghiệm bổ ích của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật
của Lào.


6. Những điểm mới của luận văn
Dự kiến Luận văn đạt được những kết quả mới sau đây:
- Làm rõ bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
theo pháp luật nước CHDCND Lào, phân tích ảnh hưởng của pháp luật
nước ngoài, đặc biệt là pháp luật Việt Nam đối với chế định này trong pháp
luật Lào;
- Chỉ ra những khiếm khuyết, bất cập trong các quy định pháp luật về

loại hợp đồng này, những vướng mắc mà các nhà kinh doanh Lào thường
gặp phải khi áp dụng các quy định của pháp luật trong giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế;
- Trên cơ sở học tập những kinh nghiệm của Việt Nam, đề xuất
những kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật Lào về hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế, phục vụ quá trình xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật tư của nước CHDCND Lào trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Chương 2: Thực trạng của nước CHDCND Lào về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật của
CHDCND Lào về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUỐC TẾ
1.1. Khái quát về mua bán hàng hoá quốc tế và hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của mua bán hàng hoá quốc tế
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mua bán là phương thức chủ yếu để
dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Một số
lượng lớn các giao dịch dân sự diễn ra trong đời sống kinh tế hàng ngày là

giao dịch mua bán tài sản - những giao dịch, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho bên mua và nhận tiền, còn bên
mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận tài sản và quyền sở hữu tài sản
theo sự thỏa thuận của các bên. Mua bán hàng hoá là một dạng của mua bán
tài sản khi đối tượng mua bán là hàng hoá.
Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được ra đời từ rất sớm. Hoạt
động thương mại này góp phần quan trọng cho việc phát triển kinh tế đối
ngoại của mỗi quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Trong xu thế toàn cầu
hoá, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Chính vì vậy, mỗi quốc gia đều đề ra các chính sách và ban hành các quy định
pháp luật để điều chỉnh hoạt động này.
Mua bán hàng hóa quốc tế là một dạng đặc thù của mua bán hàng hoá
nên hành vi mua bán hàng hóa quốc tế cũng mang những đặc điểm của hành
vi mua bán hàng hóa nói chung, cụ thể: (i) bản chất của mua bán hàng hoá là
việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá lấy một khoản tiền; (ii) chủ thể chủ yếu
của hành vi mua bán hàng hoá là thương nhân; (iii) đối tượng mua bán là
hàng hóa và (iv) mua bán hàng hoá được thực hiện thông qua hình thức pháp


7

lý là hợp đồng. Tuy nhiên, mua bán hàng hóa quốc tế cũng có những điểm
khác biệt so với mua bán hàng hoá thông thường, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân có trụ
sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Thực tiễn ngoại thương thường coi
hoạt động mua bán mà các bên có quốc tịch khác nhau là hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế. Nhưng chính xác hơn, các thương nhân - chủ thể phải có trụ
sở kinh doanh chính (hay trụ sở kinh doanh có liên quan đến việc mua bán
hàng hoá đó) nằm ở các quốc gia khác nhau (Điều 1 Công ước Viên).
Thứ hai, hàng hoá trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được dịch

chuyển qua biên giới. Ví dụ: Một công ty của Lào ký hợp đồng mua 100 tấn
gạo của công ty Việt Nam, hàng hóa này được dịch chuyển từ lãnh thổ Việt
Nam sang lãnh thổ Lào. Hàng hóa này phải làm thủ tục hải quan để được
xuất khẩu khỏi Việt Nam và nhập khẩu vào Lào. Đây là hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế. Nhưng nếu công ty Lào yêu cầu giao hàng cho chi nhánh
của mình ở Việt Nam để chế biến và tiêu thụ ở Việt Nam, tức là thực hiện hợp
đồng hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam, không có sự dịch chuyển hàng hoá
qua biên giới thì đây có phải là mua bán hàng hoá quốc tế hay không? Theo Công
ước của Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 (Công ước Viên),
tiêu chí duy nhất để xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
là chủ thể hợp đồng có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau. Như vậy,
theo Công ước Viên, việc hàng hoá có được dịch chuyển qua biên giới hay
không không ảnh hưởng tới tính chất quốc tế của hoạt động mua bán hàng
hoá. Pháp luật nhiều nước trên thế giới cũng theo quan điểm này.
Thứ ba, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế có thể chịu sự điều chỉnh
của pháp luật quốc gia, pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế
hoặc điều ước quốc tế. Bởi vì, khi có tranh chấp xảy ra, luật áp dụng để giải
quyết tranh chấp là pháp luật quốc gia, pháp luật nước ngoài, Điều ước quốc


8

tế hoặc tập quán thương mại quốc tế theo sự thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng. Khi Điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia không có quy định gì về
vấn đề thương mại có liên quan hoặc vấn đề không được các bên thỏa thuận
trong hợp đồng thì tập quán thương mại quốc tế cũng sẽ được áp dụng.
1.1.2. Vai trò của mua bán hàng hoá quốc tế đối với sự phát triển kinh tế của
Lào
Từ khi nước CHDCND Lào ban hành quyết sách đổi mới nền kinh tế,
chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị

trường, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế trở nên rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế của Lào. Đẩy mạnh mở cửa thông thương trong lĩnh vực
thương mại quốc tế cần được tiến hành một cách toàn diện theo hướng vừa
phát triển kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo
độc lập dân tộc của nước CHDCND Lào.
Nhà nước CHDCND Lào đặt ra mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi danh
sách các nước kém phát triển vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu đó, một
trong những nhiệm vụ được đặt ra là phải đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm cơ
hội mua bán hàng hoá quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá để từng bước
tiếp cận và trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế thế giới.
Hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và mua bán hàng hoá quốc tế nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, thông
qua hoạt động mua bán hàng hóa trên thị trường. Trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, việc mua bán hàng hoá quốc tế thông qua hoạt động
xuất nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất trong nước để có thể tồn tại
trong sự cạnh tranh khốc liệt ở các thị trường nội địa và nước ngoài.
Trong thế kỷ XXI này, nền kinh tế thế giới sẽ phát triển theo hướng
tăng cường hội nhập. Nước CHDCND Lào đã trở thành thành viên ASEAN
vào năm 1997 và hiện đang là quan sát viên (observer) của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) và đang xin gia nhập WTO. Ngoài ra, Lào có hợp tác


9

thương mại với hơn 50 quốc gia trên thế giới và đã ký Hiệp định thương mại
với 19 nước1. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi để thương mại quốc tế nói
chung và mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng phát triển. Hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế càng phát triển thì Lào càng có nhiều cơ hội tăng trưởng nền
kinh tế của đất nước, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân.
1.1.3. Các hình thức mua bán hàng hoá quốc tế

Các hình thức của mua bán hàng quốc tế bao gồm xuất khẩu hàng hoá,
nhập khẩu hàng hóa, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập hàng hóa và chuyển
khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ của một
nước nào đó. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào từ nước
khác qua biên giới vào lãnh thổ của bên nhập khẩu. Việc trao đổi hàng hóa
giữa trong nước và nước ngoài qua biên giới được coi là quan hệ xuất khẩu,
nhập khẩu. Điều 28 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 (LTM VN) quy
định: “Xuất khẩu hàng hoá là việc được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa
được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật”. Như vậy pháp luật Việt Nam coi việc đưa hàng hoá ra/vào các khu
vực đặc biệt như khu chế xuất cũng là xuất/nhập khẩu hàng hoá. Pháp luật
Lào không quy định như vậy khi Điều 9, 10 Nghị định số 205/CP ngày 11
tháng 10 năm 2001 về quản lý xuất nhập khẩu ghi rõ: xuất khẩu là đưa hàng
hóa đi ra những quốc gia nào đó từ nước CHDCND Lào, nhập khẩu là nhập
hàng hóa vào nước CHDCND Lào từ những quốc gia nào đó.
Tạm nhập tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa đưa từ nước ngoài hoặc từ
các khu vực nằm trên lãnh thổ của bên mua và có làm thủ tục nhập khẩu, sau
1

Chiến lược phát triển thương mại của Lào đến năm 2020. Lào, NXB Thanh niên, 2000, trang 3.


10

đó làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra nước ngoài. Tạm xuất tái nhập
hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài, có làm thủ tục xuất khẩu

rồi lại nhập khẩu chính hàng hoá đó vào nước xuất khẩu. Tuy nhiên cần lưu ý
rằng tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập hàng hóa không phải trong mọi
trường hợp đều là mua bán hàng hoá quốc tế. Nếu tạm nhập tái xuất hoặc tạm
xuất tái nhập mà không có quan hệ mua bán hàng hoá (tức là có việc chuyển
quyền sở hữu hàng hoá lấy một khoản tiền) thì không hình thành quan hệ mua
bán hàng hoá quốc tế. Ví dụ: một doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu một số
lượng lớn các mặt hàng gốm sứ sang Pháp để tham gia hội chợ, triển lãm.
Một số hàng đã bán cho một doanh nghiệp của Pháp. Đây là quan hệ mua
bán hàng hoá được hình thành giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp
Pháp. Số hàng còn lại, sau khi hết thời gian triển lãm, doanh nghiệp Việt
Nam đã tái nhập vào Việt Nam. Đây là việc tạm xuất tái nhập hàng hoá đơn
thuần.
Chuyển khẩu theo pháp luật Việt Nam là việc mua hàng từ một nước,
vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam
mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam, và không làm thủ tục xuất
khẩu ra khỏi Việt Nam. (khoản 1 Điều 30 LTM VN). Như vậy chuyển khẩu
khác với các hình thức mua bán hàng hoá quốc tế khác ở chỗ hàng hoá không
được làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi hoặc nhập khẩu vào quốc gia thứ ba, mặc
dù có thể có trường hợp có hành vi dịch chuyển hàng hoá qua biên giới quốc
gia đó. Ví dụ. chuyển khẩu hàng hóa được thực hiện thông qua hai hợp đồng
riêng biệt: Hợp đồng thứ nhất là hợp đồng mua hàng do thương nhân Lào ký
với thương nhân nước xuất khẩu; Hợp đồng thứ hai là hợp đồng bán hàng do
thương nhân Lào ký với thương nhân nước thứ 3. Bên xuất khẩu hàng hoá có
thể chuyển hàng trực tiếp cho bên nhập khẩu (bên mua hàng ở nước thứ 3) mà
không cần qua cửa khẩu Lào. Cũng có thể hàng hoá đó được vận chuyển qua
lãnh thổ Lào. Trong trường hợp này, hàng hoá có qua cửa khẩu của Lào


11


nhưng không phải làm thủ tục nhập, xuất khẩu.
Tuy nhiên, pháp luật Lào chỉ quy định hình thức mua bán hàng hoá
quốc tế là xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá. Hoàn toàn không có quy định về
các hình thức tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập hàng hóa và chuyển khẩu
hàng hóa. Đây là một khiếm khuyết mà pháp luật Lào cần hoàn thiện.
1.1.4. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện dưới hình thức pháp
lý là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Về bản chất, hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế cũng chính là hợp đồng mua bán hàng hoá nhưng đặc biệt
hơn mà thôi. Sự đặc biệt thể hiện ở tính “quốc tế” của loại hợp đồng này.
Chính vì thế, khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cần được xây
dựng dựa trên khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá. Ở mức độ chung nhất,
hợp đồng mua bán hàng hoá được hiểu là là sự thỏa thuận giữa bên bán và
bên mua, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua, còn bên mua
có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán giá trị hàng hóa cho bên bán theo thỏa
thuận.
Theo Luật hợp đồng của nước CHDCND Lào, “Hợp đồng mua bán là
sự thỏa thuận giữa các bên của hợp đồng, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao
hàng hóa cho bên mua; bên mua nhận hàng hóa và có nghĩa vụ thanh toán tiền
theo giá đã thỏa thuận với nhau” (Điều 39). Như vậy, có thể thấy khái niệm
hợp đồng mua bán hàng hoá của Lào hoàn toàn phù hợp với khái niệm hợp
đồng mua bán hàng hoá theo pháp luật Việt Nam (Điều 388 Bộ luật dân sự
2005 và Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005). Cũng giống như pháp luật
Việt Nam, pháp luật Lào không đưa ra khái niệm chính thức về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Vì thế, để đưa ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, chúng ta cần hiểu được tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng
hoá được xác định như thế nào.
Theo Công ước La Haye 1964 về mua bán hàng hóa quốc tế, hoạt động



12

mua bán hàng hóa quốc tế là những tất cả các hoạt động, trong đó các bên ký
kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển từ
nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các
bên ký kết được lập ở những nước khác nhau (Điều 1).
Như vậy, tính chất quốc tế theo Công ước này gồm: chủ thể ký kết là
các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; hàng hóa phải được
chuyển hoặc sẽ được chuyển từ nước này sang nước khác; chào hàng và chấp
nhận chào hàng có thể được lập ở những nước khác nhau, nếu bên ký kết
không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú của họ. Như vậy, vấn đề
quốc tịch của các bên không được nhắc tới trong việc xác định yếu tố nước
ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế lại chỉ đưa ra một tiêu chí để khẳng định tính chất quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở
thương mại đặt ở nước khác nhau. Điều 1 Công ước quy định: Công ước sẽ
được áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở
thương mại tại các quốc gia khác nhau. Cũng giống như Công ước La Haye
1964, Công ước Viên 1980 cũng không đề cập tới vấn đề quốc tịch các bên
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được
bởi vì thông thường quốc tịch của thương nhân được xác định theo quốc gia
nơi thương nhân đó có trụ sở chính.
Ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến trong
nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như hợp đồng mua bán ngoại thương
(được ghi nhận trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/07/1991 về
hướng dẫn viêc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương của Bộ Thương
nghiệp), hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài (ghi nhận
trong Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 – sau đây gọi là LTMVN 1997),
hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa (LTMVN năm 2005). Theo Quy chế tạm



13

thời số 4794/TN-XNK thì hợp đồng mua bán ngoại thương có chủ thể là
những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
được dịch chuyển từ nước này sang nước khác; đồng tiền thanh toán trong
hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng. Tiếp
đến, theo LTMVN năm 1997, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là
thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài (Điều 80).
Như vậy, tiêu chí để xác định yếu tố nước ngoài cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo LTMVN 1997 chỉ là yếu tố quốc tịch của các bên chủ thể
hợp đồng. Hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong
LTMVN 2005 và Nghị định 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/01/2006
quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với
nước ngoài. Theo Khoản 1 Điều 27 Luật này, mua bán hàng hóa quốc tế được
thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Như vậy, LTM Việt Nam 2005 không đưa ra
khái niệm về mua bán hàng hoá quốc tế. Chiếu theo điều luật này thì tiêu chí
để xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ là việc hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
phải được giao qua biên giới.
Như đã trình bày ở trên, pháp luật Lào chưa quy định rõ ràng về khái
niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Trong Luật hợp đồng chỉ quy định
chung về mua bán hàng hóa, không phân biệt mua bán hàng hoá trong nước
hay quốc tế. Nghị định số 205/CP của Chính phủ Lào ngày 11 tháng 10 năm
2001 về quản lý xuất nhập khẩu cũng chỉ nói đến về quyền của bên xuất khâu
hoặc bên nhập khẩu và vấn đề quản lý xuất nhập khẩu chứ không quy định về

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì thế, chúng ta phải căn cứ vào Luật
hợp đồng (Điều 1) và Nghị định 205/CP (Điều 9 và 10) để nghiên cứu và đưa


14

ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các
bên có trụ sở kinh doanh chính đặt ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên
có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho một bên khác và
nhận thanh toán; Bên kia có nghĩa vụ thanh toán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận. Khái niệm này dựa trên định nghĩa về hợp đồng
mua bán hàng hoá nói chung. Bên cạnh đó, chúng tôi thấy rằng có thể đưa ra
khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo cách tiếp cận khác: “Hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết
giữa các bên có trụ sở kinh doanh chính ở các nước khác nhau, theo đó hàng
hoá mua bán được dịch chuyển qua biên giới”.
1.1.5. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Từ khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, chúng ta có thể thấy
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có các đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng song vụ và
có tính chất đền bù. Đây là hợp đồng song vụ vì mỗi bên ký kết hợp đồng đều
có nghĩa vụ đối với nhau. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua, còn
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán. Hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là hợp đồng có tính chất đền bù vì mỗi bên đều có quyền và có nghĩa
vụ tương xứng. Ví dụ, bên mua được quyền nhận hàng và đổi lại phải có
nghĩa vụ trả tiền tương xứng với giá trị hàng hoá.
Thứ hai, chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
các thương nhân có trụ sở kinh doanh chính ở các nước khác nhau. Theo pháp
luật của một số nước trên thế giới và theo quy định của các công ước quốc tế

về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như Công ước La Haye 1964, Công
ước Viên 1980 thì chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các
thương nhân có trụ sở ở các quốc gia khác nhau. Nhưng chủ thể hợp đồng có
thể là các cá nhân. Nếu các bên là cá nhân, không có trụ sở kinh doanh thì sẽ


15

dựa vào nơi cư trú của họ. Còn quốc tịch của người đại diện cho các bên
không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng. Hai người
trực tiếp ký vào hợp đồng có thể đều mang quốc tịch Lào, nhưng họ đại diện
cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau (ví dụ ở Lào
và Việt nam) thì hợp đồng ký kết giữa các bên này vẫn là hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế.
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa di chuyển qua biên giới
hải quan của một nước. Ở đây cần phân biệt biên giới quốc gia và biên giới
hải quan. Biên giới quốc gia là ranh giới phân chia lãnh thổ các quốc gia,
trong phạm vi ranh giới đó, chủ quyền của mỗi quốc gia được xác lập. Biên
giới hải quan được hiểu là tập hợp các cửa khẩu, các văn phòng hải quan nơi
mà hàng hóa phải được tiến hành các thủ tục hải quan (xuất/nhập khẩu) theo
các quy chế quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu của chính phủ các nước. Hàng
hoá trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được di chuyển qua biên
giới hải quan chứ không phải biên giới quốc gia. Điều này xuất phát từ thực
tiễn là nhiều trường hợp hàng hoá được di chuyển ra/vào các khu chế xuất đều
được coi là hàng hoá xuất nhập khẩu, mặc dù các khu chế xuất đó đều nằm
trong lãnh thổ một quốc gia. Tương tự như vậy được áp dụng cho các kho
ngoại quan. Đây là quy chế hải quan đặc biệt dành cho hoạt động mua bán
hàng hoá của các khu vực này.
Tuy nhiên, ở CHDCND Lào không có sự phân biệt biên giới hải quan
và biên giới quốc gia. Điều 2 Nghị định số 205/CP quy định: Xuất khẩu là

vận chuyển hàng hóa, đồ đạc sang các quốc gia nào đó từ nước CHDCND
Lào; nhập khẩu là nhập khẩu hàng hóa, đồ đạc từ các quốc gia khác vào trong
nước CHDCND Lào. Quy định này chưa hợp lý ở chỗ là chưa đưa ra khái
niệm thế nào là nhập khẩu, đồng thời chưa quy định trường hợp xuất nhập
khẩu vào các khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Lào như khu chế xuất… Vì thế,


16

chúng tôi cho rằng quy định của pháp luật Việt Nam là hợp lý hơn khi chỉ rõ:
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hóa là việc
hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc
biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật” (Điều 28 LTM VN).
Liên quan đến đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hàng
hoá phải là những mặt hàng được phép mua bán theo pháp luật của nước bên
mua và nước bên bán, đồng thời không phải là những mặt hàng bị cấm xuất
khẩu, nhập khẩu theo pháp luật các nước có liên quan.
Thứ tư, về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chủ yếu
được giao kết bằng văn bản. Do tính chất phức tạp của hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, tính đến yếu tố quốc tế của hợp đồng nên đa số các nước
quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải lập bằng văn bản để làm
cơ sở cho việc thực hiện hợp đồng, đồng thời để hạn chế tối đa tranh chấp có
thể phát sinh. Ở Việt Nam, LTM quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế phải được ký dưới hình thức bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương (điện báo, fax, thông điệp dữ liệu). (khoản 2 Điều 27
LTMVN). Pháp luật của Lào không quy định cụ thể về hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nhưng theo Điều 8 Luật hợp đồng, “hợp

đồng giữa cơ quan nhà nước hoặc tập thể với nhau, giữa cơ quan tổ chức với
cá nhân phải được lập thành văn bản”. Trong khi đó, Điều 9 và 10 Nghị định
205 lại quy định chỉ có tổ chức, cá nhân kinh doanh mới được quyền xuất,
nhập khẩu. Như vậy, theo pháp luật Lào, nếu hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế được ký giữa các thương nhân là cá nhân thì có thể được lập bằng
bằng lời nói hoặc các hình thức khác không phải là văn bản.


17

1.2. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.2.1. Pháp luật quốc gia
Về nguyên tắc, luật quốc gia được áp dụng khi không có điều ước quốc
tế có liên quan mà quốc gia đó là thành viên hoặc có những điều ước quốc tế
nhưng không đề cập hoặc đề cập không đầy đủ những vấn đề liên quan. Luật
quốc gia được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi các bên
thỏa thuận trong hợp đồng hoặc khi điều ước quốc tế quy định áp dụng pháp
luật quốc gia.
Pháp luật quốc gia ở đây có thể hiểu là pháp luật quốc gia bên bán hoặc
pháp luật quốc gia bên mua. Tuỳ vào thoả thuận của các bên trong hợp đồng
mà có thể áp dụng luật của nước bên bán hay luật nước bên mua.
Hầu hết các quốc gia đều ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua bán hàng hoá nói chung và mua bán hàng hoá quốc tế nói
riêng vì đây là hoạt động thương mại phổ biến nhất. So với Việt Nam và các
nước khác trên thế giới, pháp luật của nước CHDCND Lào về hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế ra đời muộn hơn và chưa quy định rõ ràng. Luật hợp
đồng của CHDCND Lào ban hành năm 1990, được sửa đổi, bổ sung ngày
8/12/2008, Nghị định số 205/CP của Chính phủ ngày 11/10/2001 về quản lý
xuất, nhập khẩu là những văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động
mua bán hàng hoá quốc tế ở Lào.

Ngoài ra những văn bản đã nêu trên, còn có Nghị định số 25/CP ngày
5/8/2002 về khu vực thương mại Bản Đen Sa Vẳn (Tỉnh Sa Vẳn Na KhệtLào). Trong Nghị định này cũng nói về việc xuất nhập khẩu hàng hóa trong
khu vực biên giới Lào và Việt Nam và vận chuyển hàng hóa sang nước thứ
ba. Bên cạnh đó còn có Thông tư số 1691/ Văn phòng Chính Phủ ngày
7/10/2004 về quá trình làm thủ tục và lưu chuyển hàng hóa.
Các bên cần phải thỏa thuân rõ trong hợp đồng về luật áp dụng để
thuận tiện cho quá trình ký kết, thực hiện và giải quyết khi có tranh chấp xảy


18

ra. Thực tế ở Lào có vụ kiện như sau: công ty X của Thái Lan đứng tên
nguyên đơn kiện công ty Y của Lào liên quan đến tranh chấp hợp đồng mua
bán phế liệu số 01 và số 02. Cơ quan hòa giải kinh tế của Lào đã xét xử vào
ngày 10/5/2005. Trong hợp đồng này, các bên không quy định luật điều
chỉnh. Nhưng khi có tranh chấp phát sinh thì nguyên đơn đã dẫn chiếu đến
Điều 34 và 36 của Luật hợp đồng năm 1990 của nước CHDCND Lào. Điều
đó thể hiện nguyên đơn muốn áp dụng pháp luật của Lào để giải quyết tranh
chấp, còn bị đơn không có ý kiến cụ thể gì về luật áp dụng. Vì vậy, Cơ quan
hòa giải kinh tế quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là Luật hợp
đồng năm 1990 của CHDCND Lào.
1.2.2. Pháp luật của nước ngoài
Bên cạnh việc áp dụng pháp luật nước bên bán hoặc nước bên mua, các
bên hoàn toàn có thể thoả thuận về việc áp dụng pháp luật của nước thứ ba
hoặc luật của nước bất kỳ nào khác có liên quan tới hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, chẳng hạn như luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện nghĩa
vụ. Đây là điểm đặc thù chỉ áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, chứ không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Ví dụ,
nếu hai bên trong hợp đồng đều là thương nhân Lào, mua bán hàng hoá trên
lãnh thổ Lào thì không được thoả thuận áp dụng pháp luật Việt Nam để điều

chỉnh quan hệ hợp đồng này.
1.2.3. Pháp luật quốc tế
Pháp luật quốc tế cũng là nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Cụ thể đó là Công ước La Haye năm 1964 và Công ước
của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (gọi tắt là Công
ước Viên 1980). Các công ước này được áp dụng nếu (i) quốc gia của bên
mua và bên bán là thành viên của công ước; (ii) theo các quy tắc tư pháp quốc
tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước; (iii) nếu các


19

bên thoả thuận trong hợp đồng về áp dụng công ước quốc tế để điều chỉnh
quan hệ hợp đồng.
1.2.4. Tập quán thương mại
Tập quán thương mại quốc tế cũng là nguồn luật áp dụng với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế là những quy tắc xử
sự đã hình thành và áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thương mại quốc tế, được
các chủ thể luật quốc tế công nhận nên có tính chất bắt buộc về mặt pháp lý.
Nói một cách khác, tập quán thương mại là những thói quen thương mại được
sử dụng một cách rộng rãi, có nội dung rõ ràng, cụ thể, được nhiều nước công
nhận và áp dụng thống nhất.
Những thói quen thương mại được công nhận là tập quán thương mại
quốc tế khi thỏa mãn ba yêu cầu sau: Thứ nhất, là thói quen phổ biến được
nhiều nước áp dụng và áp dụng thường xuyên. Thứ hai, về từng vấn đề ở từng
địa phương, đó là thói quen độc nhất. Thứ ba, thói quen có nội dung rõ ràng
mà người ta dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Cũng như Điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế là nguồn cơ
bản của luật thương mại quốc tế. Khác với điều ước quốc tế, tập quán thương
mại quốc tế không phải là văn kiện pháp lý mà là hành vi thực tế được lặp đi

lặp lại thời gian dài trong hoạt động thương mại ở tất cả các nước hay một số
nước. Các tập quán thương mại quốc tế được chia thành ba nhóm: Tập quán
thương mại có tính chất nguyên tắc, tập quán thương mại quốc tế chung (tức
là được tất cả các nước thừa nhận), tập quán thương mại khu vực (mang tính
chất cục bộ ở khu vực nhất định, chỉ các nước trong khu vực thừa nhận).
Trong các quan hệ quốc tế hiện nay, có sự tác động qua lại của các điều ước
quốc tế và luật tập quán. Vì thế, một số quy phạm của tập quán pháp biến
thành các quy phạm của luật điều ước thông qua việc ghi nhận chúng trong
điều ước quốc tế.


20

Tập quán thương mại quốc tế được áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế khi điều ước quốc tế liên quan quy định, pháp luật quốc gia
quy định hoặc do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Đặc biệt, khi Điều ước
quốc tế, pháp luật quốc gia không có quy định gì về vấn đề thương mại liên
quan hoặc vấn đề không được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì tập quán
thương mại quốc tế cũng sẽ được áp dụng.
1.3. Pháp luật của CHDCND Lào về mua bán hàng hoá quốc tế
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật CHDCND Lào về
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Sau cuộc đấu tranh cách mạng hơn 30 năm, năm 1975 nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào đã ra đời do Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo.
Lúc đó nền kinh tế trong nước dựa trên cơ chế kế hoạch tập trung. Vào thời
gian này, chưa có văn bản pháp luật nào của nhà nước ban hành điều chỉnh
các quan hệ dân sự hoặc thương mại. Đặc biệt đối với các hợp đồng mua bán
hàng hóa, khi có tranh chấp xảy ra thì theo chính sách của Đảng và nhà nước
giải quyết chứ chưa căn cứ theo các văn bản pháp luật được.
Năm 1986, Đại hội lần thứ IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề

ra những quyết sách quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, trong đó
trọng tâm là vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: chuyển từ cơ chế kế hoạch
tập trung sang cơ chế kinh tế thị truòng có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nhĩa. Chính sách đó tác động tích cực đến mọi mặt của đời
sống xã hội, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế quốc dân, thúc
đẩy quá trình hội nhập kinh tế đất nước với khu vực và thế giới. Tuy nhiên,
đến năm 1990 Luật hợp đồng đầu tiên của nước CHDCND Lào mới ra đời.
Luật gồm 10 chương, 65 điều. Đạo luật này chỉ quy định chung về hợp đồng
trong nước chứ không đề cập tới hợp đồng với nước ngoài. Thế nhưng nếu có
tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì vẫn áp dụng văn bản pháp luật


21

này. Dù còn sơ sài nhưng Luật hợp đồng năm 1990 vẫn là niềm tự hào của đất
nước Lào, góp phần tạo cơ sở pháp lý để tăng cường phát triển kinh tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Không dừng lại đó, ngày 11 tháng 10 năm 2001 Nghị định số 205/CP
của Chính phủ Lào được ban hành quy định về quản lý xuất nhập khẩu. Nghị
định này cũng nói về quyền của người xuất nhập khẩu hàng hoá và về quản lý
hàng hóa xuất nhập khẩu. Đến năm 2008, Quốc hội Lào đã thông qua Luật
hợp đồng sửa đổi, trong đó, một số điều khoản đã được sửa đổi, bổ sung để
cho phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Lào. Ở Luật sửa đổi có một số điểm
mới so với Luật hợp đồng 1990, ví dụ: chính sách của nhà nước khuyến khích
quan hệ quốc tế, bổ sung những quy định đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của
các bên trong hợp đồng, bổ sung thêm hai loại hợp đồng là hợp đồng cho thuê và
hợp đồng tặng tài sản…. Tuy nhiên, Luật chưa đề cập cụ thể về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
1.3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật CHDCND Lào về mua bán
hàng hoá quốc tế

Pháp luật nước CHDCND Lào quy định những nội dung cơ bản về mua
bán hàng hoá quốc tế như sau:
Thứ nhất, những quy định chung về hợp đồng bao gồm điều kiện có
hiệu lực và nội dung của hợp đồng; các trường hợp hợp đồng vô hiệu; thực
hiện hợp đồng; các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; thay đổi, hủy bỏ và
chấm dứt hợp đồng; giải quyết tranh chấp hợp đồng. Những quy định này về hợp
đồng nói chung nhưng đều có thể áp dụng cho mua bán hàng hoá quốc tế.
Thứ hai, quy định chuyên biệt cho hợp đồng mua bán hàng hoá.
Chương 1 Phần II Luật hợp đồng quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá,
trong đó có đề cập tới khái niệm hợp đồng, nghĩa vụ của bên bán và bên mua,
chất lượng hàng hoá, vận chuyển hàng hoá mua bán. Đặc biệt có quy định về


22

bán hàng hoá tín dụng; việc mua tài sản bất hợp pháp và hậu quả của nó.
Thứ ba, các quy định riêng về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá được
ghi nhận trong Nghị định 205 và các văn bản dưới luật khác. Mặc dù chưa
đầy đủ, chưa nhiều nhưng đây cũng là những văn bản pháp luật đầu tiên quy
định về mua bán hàng hoá quốc tế, là cơ sở để thực hiện các hoạt động này.


23

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC CHDCND LÀO
VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ

2.1. Các quy định về hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
2.1.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Theo Điều 10 Luật hợp đồng CHDCND Lào, hợp đồng có hiệu lực khi
thỏa mãn những điều kiện sau:
- Có sự tự nguyện của các bên;
- Các bên có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích của hợp đồng phải chính xác, có thật, đúng pháp luật;
- Lý do của hợp đồng phải có thật và đúng pháp luật;
- Hình thức của hợp đồng phải đúng theo quy định của pháp luật.
* Sự tự nguyện của các bên:
Hợp đồng là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các bên. Trong
trường hợp một bên ký kết hợp đồng do bị lừa dối, ép buộc thì không được coi
hợp đồng có sự tự nguyện. Nếu một bên này dùng thủ đoạn nào đó làm cho bên
kia tin tưởng và đồng ý ký kết hợp đồng thì hợp đồng đó được coi là xác lập do
bị lừa dối.
Nếu một bên ký kết thỏa thuận hợp đồng do sức ép nào đó gây nên sự
sợ hãi và hành vi đe dọa đó có thể gây nguy hiểm đến tính mạng và tài sản
của bản thân, gia đình hoặc họ hàng của mình thì đó là hợp đồng được xác lập
do bị bắt buộc hoặc dùng bạo lực (Điều 11 Luật Hợp đồng Lào).
* Năng lực hành vi của các bên:
Việc xác định năng lực hành vi của các bên trong hợp đồng cũng rất
quan trọng. Trong pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế nói riêng, “năng lực hành vi là khả năng của các bên làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Người có năng lực hành vi là người từ đủ


×