Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở việt nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.65 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM TIẾN SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiềm tiền gửi và pháp luật về

7


bảo hiểm tiền gửi
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục tiêu và vai trò của BHTG

7

1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật BHTG

15

1.3. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật BHTG ở Việt

17

Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

20

2.1. Các quy định pháp luật về đối tượng được BHTG và đối tượng tham

20

gia BHTG
2.2. Các quy định pháp luật về phí BHTG và hạn mức BHTG

35

2.3. Các quy định pháp luật về chi trả BHTG, thu hồi nợ sau khi chi trả

39


BHTG
2.4. Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của tổ chức BHTG

44

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG ở

55

Việt Nam
3.1. Cơ sở và định hướng hoàn thiện pháp luật về BHTG

55

3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG

58

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHTG


Bảo hiểm tiền gửi

BHTGVN

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

NHNN

Ngân hàng nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng


1
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động của các ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế, thông qua hoạt động này nguồn vốn được huy động từ những chủ
thể dư thừa vốn để đáp ứng nhu cầu của những chủ thể thiếu vốn trong nền
kinh tế. Hoạt động này làm cho dòng vốn luôn luôn được lưu chuyển và sử
dụng có hiệu quả, thúc đẩy đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh và đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Tuy nhiên, với đặc điểm là nhận tiền
gửi rộng rãi từ công chúng và sử dụng số tiền này để cho vay, hoạt động
của các ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro về khả năng
thanh khoản, vì người gửi tiền có thể rút tiền gửi bất cứ lúc nào, trong khi
tiền ngân hàng cho vay chỉ thu hồi được khi đến hạn. Trong trường hợp vì
một lý do nào đó người gửi tiền ồ ạt rút tiền tại một ngân hàng thì ngân

hàng đó rất có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và đổ vỡ. Sự
sụp đổ của một ngân hàng có thể gây phản ứng dây chuyền đến các ngân
hàng khác, vì tâm lý lo sợ chung của người gửi tiền và vì các ngân hàng
thường có mối quan hệ tín dụng, thanh toán với nhau. Sự đổ vỡ ngân hàng
đối với bất cứ quốc gia nào cũng là một điều tồi tệ, vì nó ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, sau sự sụp đổ của ngân hàng,
việc khôi phục niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng sẽ gặp
nhiều khó khăn. Như vậy, sự đổ vỡ của ngân hàng thường để lại hậu quả
xấu, trong thời gian dài đối với nền kinh tế.
Vì lý do trên, việc bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống
ngân hàng, tạo lập và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân
hàng luôn có tầm quan trọng đặc biệt ở mọi quốc gia. Để bảo đảm an toàn
hệ thống ngân hàng, các quốc gia sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như:
quy định các điều kiện thành lập và hoạt động ngân hàng chặt chẽ; quy
định các giới hạn, các tỷ lệ an toàn mà các ngân hàng phải tuân thủ trong


2

quá trình hoạt động; thiết lập hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu
quả; thực hiện các biện pháp hỗ trợ khả năng thanh toán…. Thiết lập cơ chế
BHTG cũng góp phần nhất định vào việc bảo đảm an toàn hệ thống ngân
hàng.
BHTG được thành lập với mục tiêu trực tiếp là bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm, người gửi tiền sẽ cảm thấy yên
tâm và tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng, khả năng rút tiền ồ ạt tại
ngân hàng sẽ giảm thiểu. Từ đó, hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và
an toàn hơn.
BHTG được thiết lập ở Việt Nam từ năm 1999 trên cơ sở Nghị định
số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về BHTG và Quyết định

số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập BHTGVN. Trong quá trình hoạt động, BHTGVN đã từng bước
góp phần nâng cao niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, góp
phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và đã thực hiện bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền tại một số quỹ tín dụng nhân dân cơ sở bị giải
thể [3], [19].
Tuy nhiên, hoạt động BHTG ở nước ta trong thời gian vừa qua đã
phát sinh nhiều vướng mắc; nhiều vấn đề còn gây tranh luận và chưa đi đến
thống nhất; nhiều quy định pháp luật bất hợp lý hoặc mơ hồ; chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia
(FSN)1 trong đó có BHTG còn chồng chéo, làm ảnh hưởng đến hoạt động
BHTG nói riêng và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mạng lưới an
toàn tài chính quốc gia nói chung.
Thời gian vừa qua các cơ quan chức năng cũng đang xúc tiến xây
dựng dự thảo Luật BHTG để nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Trong
quá trình xây dựng dự thảo Luật còn có nhiều quan điểm trái ngược nhau
1

FSN (Financial Safety Net) về cơ bản bao gồm các cơ quan: Cơ quan thanh tra giám sát an toàn, Ngân
hàng trung ương và BHTG (sẽ được làm rõ hơn ở nội dung về địa vị pháp lý của tổ chức BHTG).


3

xung quanh những vấn đề cốt lõi của pháp luật BHTG. Ví dụ: tổ chức nào
phải tham gia BHTG; chủ thể nào được BHTG; những loại tiền gửi nào
được bảo hiểm; phí BHTG (phí đồng hạng hay phí theo mức độ rủi ro); hạn
mức BHTG; phạm vi chức năng của tổ chức BHTG đến đâu…
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng hơn vào nền
kinh tế thế giới, hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự phát triển bùng nổ cả

về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã giúp chúng ta nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của mạng lưới an
toàn tài chính quốc gia trong đó có BHTG. Thực tế này cho thấy những vấn
đề đặt ra đối với BHTG như đã nêu ở trên cần được nghiên cứu để tìm lời
giải đáp phù hợp.
Với lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về BHTG ở
Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài luận văn
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình khoa học, một số bài viết
nghiên cứu về BHTG. Ngoài một số bài báo khoa học nhỏ được đăng trên
các Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thông tin BHTGVN…, có thể kể đến một
số công trình nghiên cứu như: Đề tài cấp ngành “Giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động BHTG ở Việt Nam” năm 2003 của tập thể tác giả Viện
nghiên cứu khoa học ngân hàng; Luận án Tiến sĩ kinh tế “Các giải pháp
phát triển hoạt động BHTG ở Việt Nam” năm 2004 của tác giả Nguyễn Thị
Kim Oanh, Học viện Ngân hàng; Luận án Tiến sĩ kinh tế “Giải pháp hoàn
thiện chính sách BHTG ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế” năm 2006 của tác giả Đào Văn Tuấn, Học viện Ngân hàng; Luận văn
Thạc sĩ luật học “Pháp luật về BHTG ở Việt Nam” năm 2004 của tác giả
Nguyễn Thị Vân Hoài, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; một số luận văn
cử nhân luật học…


4

Các nghiên cứu của các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu khía
cạnh kinh tế của BHTG, chưa đi sâu nghiên cứu khía cạnh pháp lý về tổ
chức và hoạt động của BHTG. Công trình nghiên cứu “Pháp luật về BHTG
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Vân Hoài nghiên cứu về khía cạnh

pháp lý của BHTG, nhưng đối tượng nghiên cứu đã lỗi thời (khi mới chỉ có
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG, chưa có Nghị định số
109/2005/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và
dự thảo Luật BHTG chưa được xây dựng); hơn nữa nghiên cứu của tác giả
này cũng chưa đi sâu vào việc hoàn thiện pháp luật.
Đa số các công trình nghiên cứu của các tác giả thường chỉ tìm hiểu
về những khía cạnh tích cực của hoạt động BHTG mà chưa xem xét đến
những hạn chế của bản thân cơ chế BHTG để từ đó tìm ra giải pháp phù
hợp.
Mặt khác, các công trình nghiên cứu nêu trên đều được thực hiện
trong bối cảnh kinh tế cũ: hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có sự phát
triển bùng nổ như hiện nay; cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa xẩy
ra, chưa cho chúng ta điều kiện để nhìn nhận rõ hơn những yếu kém của hệ
thống ngân hàng cũng như vai trò của các cơ quan trong mạng lưới an toàn
tài chính quốc gia trong đó có BHTG.
Bản luận văn này đi sâu phân tích, đánh giá pháp luật về BHTG
trong bối cảnh kinh tế, pháp lý mới; xác định lại vai trò của BHTG; đi sâu
nghiên cứu những quan điểm trái ngược nhau xung quanh một số khía cạnh
quan trọng của BHTG, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
BHTG phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHTG và pháp luật
về BHTG; đánh giá thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam; so sánh
pháp luật BHTG Việt Nam với mảng pháp luật tương ứng của một số nước


5

và thông lệ quốc tế; trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về BHTG ở Việt Nam.

Bản luận văn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tổng thể pháp
luật về BHTG, mà còn đi sâu nghiên cứu, đánh giá mảng pháp luật này và
đưa ra quan điểm riêng của tác giả về một số vấn đề cốt lõi của pháp luật về
BHTG.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài là quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài gồm: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê
nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận
về BHTG và thực trạng các quy định pháp luật về BHTG, trên cơ sở tham
khảo kinh nghiệm nước ngoài, luận văn sẽ tìm ra hướng hoàn thiện pháp
luật về BHTG ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu có các nhiệm vụ sau
đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHTG và pháp luật về
BHTG.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện hành về BHTG, tìm ra những
ưu điểm và những hạn chế của mảng pháp luật này.
- Tìm hiểu pháp luật của một số nước trên thế giới và thông lệ quốc
tế về BHTG.
- Đưa ra các phương hướng để hoàn thiện pháp luật về BHTG ở
nước ta và chỉ ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn


6


Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn sẽ đóng góp một
số điểm mới như sau:
- Làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, vai
trò của BHTG và của pháp luật về BHTG.
- Hoạt động BHTG sẽ được nghiên cứu một cách toàn diện, cả mặt
tích cực và mặt hạn chế, từ đó, xác định lại vai trò của hoạt động này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam
cho đến thời điểm hiện tại; tập trung phân tích, bình luận và đưa ra quan
điểm riêng đối với những vấn đề về BHTG còn có nhiều quan điểm trái
ngược nhau.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước và thông lệ quốc tế về
BHTG. So sánh, đánh giá pháp luật hiện hành về BHTG ở Việt Nam trong
mối quan hệ với kinh nghiệm nước ngoài và thông lệ quốc tế về BHTG.
- Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG, đặc biệt
tập trung vào những kiến nghị có liên quan đến những vấn đề về BHTG
còn có nhiều quan điểm đối lập.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt,
Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương, được bố cục như
sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về BHTG và pháp luật về BHTG.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG
ở Việt Nam.
***


7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục tiêu và vai trò của BHTG
1.1.1. Khái niệm BHTG
Pháp luật về BHTG của Việt Nam và Luật về BHTG của một số
nước (Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Đài Loan) không đưa ra khái niệm về
BHTG. Tuy nhiên thông qua việc xác định mục tiêu, các nội dung hoạt
động BHTG, mô hình, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG…có thể
định nghĩa về BHTG như sau:
BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức
tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền
gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền tới một giới hạn nhất
định khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền.
Khi BHTG được thiết lập ở một nước thì có nghĩa là cơ chế bảo vệ
“ngầm” người gửi tiền trước đây đã được chuyển sang cơ chế bảo vệ công
khai người gửi tiền. Người gửi tiền được bảo vệ tiền gửi nhưng chỉ ở hạn
mức nhất định trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG (tổ chức nhận tiền
gửi) bị chấm dứt hoạt động mà không có khả năng thanh toán tiền gửi.
1.1.2. Đặc điểm của BHTG
BHTG giống như bất cứ loại hình bảo hiểm nào khác, mang bản chất
của một hoạt động bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm trong đó có BHTG luôn
dựa trên nguyên lý bù đắp rủi ro: lấy sự đóng góp của số đông bù cho sự rủi
ro của số ít. Chính nguyên lý này thể hiện tính ưu việt của hoạt động bảo
hiểm nói chung và BHTG nói riêng, làm cho người gặp rủi ro không bị tổn
thất quá lớn, vì đã được chia sẻ rủi ro cho rất nhiều người khác. Tuy nhiên,


8


BHTG có một số đặc điểm giúp ta phân biệt BHTG với một số loại hình
bảo hiểm khác:
- BHTG là loại hình bảo hiểm phi thương mại. Hoạt động của BHTG
không nhằm mục tiêu sinh lời mà nhằm thực hiện mục tiêu chính sách công
của Nhà nước là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì sự
ổn định của hệ thống ngân hàng. Với mục tiêu thực hiện chính sách công
của Nhà nước, mỗi quốc gia thường chỉ có duy nhất một tổ chức BHTG và
thông thường tổ chức này thuộc sở hữu Nhà nước, được Nhà nước hậu
thuẫn, hỗ trợ khi cần thiết trong quá trình hoạt động. Đây là điểm khác biệt
cơ bản giữa BHTG với các loại hình bảo hiểm thương mại, do các doanh
nghiệp thực hiện với mục tiêu: tìm kiếm lợi nhuận.
- BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Các TCTD và tổ chức khác
có nhận tiền gửi từ công chúng phải tham gia BHTG bất kể tình trạng hoạt
động và khả năng tài chính. Ở đặc điểm này BHTG cũng khác biệt với một
số loại hình bảo hiểm thương mại như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm nhân thọ.
Việc tham gia một số loại hình bảo hiểm thương mại này là tự nguyện, phụ
thuộc vào ý chí của người tham gia bảo hiểm.
- Trong quan hệ BHTG bao giờ cũng xuất hiện 3 loại chủ thể: tổ
chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền. Người phải đóng
phí BHTG không phải là người được bảo hiểm (người gửi tiền) mà là tổ
chức tham gia BHTG (tổ chức nhận tiền gửi), có nghĩa là người đóng phí
bảo hiểm và người được bảo hiểm là hai chủ thể khác nhau. Đối với một số
loại hình bảo hiểm thương mại như bảo hiểm tài sản, người mua bảo hiểm
(người đóng phí bảo hiểm) thông thường chính là người được bảo hiểm,
người thụ hưởng bảo hiểm.
- Quan hệ BHTG không hình thành trên cơ sở hợp đồng được thoả
thuận và ký kết giữa các bên. Trong quan hệ BHTG, các bên không có
quyền thoả thuận về các nội dung có liên quan như đối tượng bảo hiểm,



9

phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, mức phí bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm…. Tất cả các nội dung này đều được pháp luật quy
định. Đặc điểm này làm cho BHTG khác biệt đối với đa số các loại hình
bảo hiểm thương mại được hình thành trên cơ sở hợp đồng và các bên có
thể thoả thuận các nội dung của hợp đồng.
1.1.3. Mục tiêu và vai trò của BHTG
1.1.3.1. Mục tiêu của BHTG
Bất kể hệ thống BHTG nào trên thế giới được thành lập đều nhằm
mục tiêu đầu tiên là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng
và tại các tổ chức khác có nhận tiền gửi của công chúng. Tuy nhiên, mục
tiêu sâu xa của BHTG là nhằm duy trì sự ổn định và lành mạnh của hệ
thống ngân hàng, mạch máu của nền kinh tế.
Theo tài liệu “Hướng dẫn phát triển hệ thống BHTG hiệu quả” của
Diễn đàn ổn định tài chính (FSF)2 [12] thì mục tiêu bảo vệ người gửi tiền
của BHTG có sự khác nhau giữa các quốc gia. Nhưng nhìn chung BHTG
hướng tới bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, những người có hạn chế nhất
định trong việc tiếp cận thông tin, phân tích thông tin về điều hành và hoạt
động của tổ chức nhận tiền gửi, họ thực hiện giao dịch tài chính chủ yếu
trên cơ sở niềm tin, do đó họ là đối tượng cần thiết phải được bảo vệ.
1.1.3.2. Vai trò của BHTG
Với những mục tiêu cùng với cơ chế tổ chức và hoạt động được thiết
lập, BHTG đã có những vai trò tích cực nhất định đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nhiều nước.
- BHTG bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền, đặc biệt những
người gửi tiền nhỏ:

2


FSF (Financial Stability Forum) do nhóm G7 thành lập năm 1999 với mục tiêu thúc đẩy sự ổn định tài
chính, cải thiện hoạt động của thị trường và giảm rủi ro hệ thống. FSF bao gồm đại diện Ngân hàng trung
ương và Bộ tài chính của những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới và đại diện của Ngân hàng thế giới,
Quỹ tiền tệ quốc tế.


10

BHTG được thành lập đã tạo một cơ chế bảo vệ công khai đối với
người gửi tiền. Khoản tiền trong một giới hạn nhất định của người gửi tiền
tại các tổ chức nhận tiền gửi sẽ được tổ chức BHTG bảo đảm và sẽ thực
hiện chi trả cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất
khả năng thanh toán. Thông thường, số tiền chi trả chỉ trong hạn mức nhất
định, do đó, BHTG thể hiện vai trò quan trọng hơn trong việc bảo vệ những
người gửi tiền nhỏ, cũng thường là những người có thu nhập thấp trong xã
hội. Đối với những người gửi tiền lớn, số tiền được chi trả có thể không
đáng kể so với số tiền gửi của họ, nhưng những người này lại thường là
những người có điều kiện thu thập thông tin, đánh giá hoạt động của tổ
chức nhận tiền gửi để lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi an toàn hoặc có điều
kiện để đa dạng hoá hoạt động đầu tư ở các kênh đầu tư khác.
- BHTG góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống
ngân hàng, góp phần bảo đảm an toàn và giảm thiểu rủi ro hệ thống trong
hoạt động ngân hàng:
Người gửi tiền biết tiền gửi được bảo hiểm sẽ yên tâm và tin tưởng
hơn khi gửi tiền vào ngân hàng. Từ đó hiện tượng rút tiền hàng loạt tại
ngân hàng vì một lý do nào đó, có khi chỉ vì các tin đồn thất thiệt (như tại
Ngân hàng thương mại cổ phần ACB tháng 10/2003, Ngân hàng thương
mại cổ phần nông thôn Ninh Bình tháng 7/2005 [3]) ít có khả năng xẩy ra
hơn, nhất là đối với những người có các khoản tiền gửi nhỏ ở ngân hàng.
Giảm thiểu được hiện tượng rút tiền ồ ạt sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng

mất khả năng thanh toán của ngân hàng và làm cho hoạt động của hệ thống
ngân hàng an toàn hơn.
Mặt khác, trường hợp một ngân hàng đổ vỡ, nhờ hoạt động chi trả
BHTG không chỉ có tác dụng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại ngân
hàng đó mà còn có tác dụng củng cố niềm tin của người gửi tiền ở các ngân
hàng khác, từ đó hạn chế những ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các ngân


11

hàng này. Như vậy, BHTG góp phần giảm thiểu rủi ro hệ thống trong hoạt
động ngân hàng.
- BHTG thúc đẩy huy động tiền tiết kiệm, phục vụ cho sự phát triển
của nền kinh tế:
Nhờ có BHTG, niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng
được củng cố, người dân sẽ có xu hướng gửi tiền nhiều hơn tại hệ thống
ngân hàng. Người dân chuyển từ thói quen tự cất giữ các khoản tiền tiết
kiệm nhỏ sang xu hướng gửi tiền tại ngân hàng, vì tiền gửi có khả năng
sinh lời trong khi vẫn được bảo đảm an toàn ngay cả khi ngân hàng bị đổ
vỡ. Như vậy, nhờ BHTG, các ngân hàng huy động được nhiều tiền gửi tiết
kiệm hơn, từ đó có thêm nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển của nền
kinh tế.
- BHTG góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn trong
hoạt động ngân hàng:
Thông thường người gửi tiền có xu hướng lựa chọn các ngân hàng
lớn, được biết đến rộng rãi để gửi tiền, vì họ cho rằng các ngân hàng này
khó bị đổ vỡ hoặc nếu có đổ vỡ thì cũng sẽ được Nhà nước hỗ trợ. Hoạt
động BHTG làm cho người dân có thể yên tâm hơn khi gửi tiền ở các tổ
chức nhận tiền nhỏ hoặc các tổ chức nhận tiền gửi mới được thành lập chưa
tạo được thương hiệu, nhất là khi tại các tổ chức nhận tiền gửi này có dịch

vụ ngân hàng thuận tiện và có lãi suất tiền gửi hấp dẫn hơn. Người dân có
thể yên tâm hơn khi gửi tiền ở các tổ chức này vì nếu các tổ chức này có bị
đổ vỡ thì họ vẫn được chi trả tiền gửi từ BHTG. Như vậy, BHTG có khả
năng làm cho các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ hoặc các tổ chức nhận tiền gửi
mới thành lập cũng có thể huy động được nguồn vốn từ tiền gửi để kinh
doanh và tạo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng lớn có thương hiệu.
Điều đó giúp cho môi trường hoạt động ngân hàng lành mạnh hơn, các dịch


12

vụ ngân hàng được cải thiện hơn, phục vụ tốt hơn cho người gửi tiền, người
vay tiền và cho nền kinh tế.
Mặt khác, quy định BHTG có hạn mức nhất định cũng có thể tạo ra
xu hướng người có tiền nhàn rỗi gửi tiền ở nhiều tổ chức nhận tiền gửi khác
nhau trong phạm vi hạn mức bảo hiểm để khoản tiền gửi của người này
được bảo đảm toàn bộ. Việc làm này làm cho nguồn vốn tiết kiệm được
phân tán ra ở nhiều tổ chức nhận tiền gửi khác nhau, tạo cơ hội bình đẳng
cho các tổ chức nhận tiền gửi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ và cạnh
tranh.
- BHTG giúp giảm bớt gánh nặng chi tiêu từ quỹ ngân sách nhà
nước:
Tại các quốc gia không có hệ thống BHTG, chi phí bảo vệ người gửi
tiền trong những trường hợp cần thiết thường do ngân sách nhà nước gánh
chịu. Khi thiết lập hệ thống BHTG, nguồn vốn của BHTG được tích luỹ
qua thời gian từ việc thu phí BHTG của các tổ chức tham gia BHTG.
Nguồn vốn này sẽ được dùng để chi trả tiền gửi cho người gửi tiền trong
trường hợp tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh toán. Từ đó, có thể
giảm bớt gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước để xử lý đổ vỡ ngân
hàng, khoản tiền đáng lẽ ngân sách nhà nước phải chi sẽ được sử dụng vào

những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác.
1.1.3.3. Một số hạn chế của BHTG
Cơ chế BHTG có những hạn chế nhất định cần được nghiên cứu để
đánh giá đúng vai trò của BHTG, từ đó xây dựng các quy định pháp luật
phù hợp một mặt nhằm phát huy các vai trò tích cực của BHTG, mặt khác
nhằm ngăn ngừa các hệ quả tiêu cực của cơ chế BHTG.
- Vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard):
Rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG là loại rủi ro xuất phát từ
hành vi cư xử thiếu đạo đức của các chủ thể trong quan hệ BHTG, làm ảnh


13

hưởng xấu đến hoạt động BHTG và sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân
hàng. Loại rủi ro này có thể xuất phát từ hành vi cư xử thiếu đạo đức của
người gửi tiền hoặc của các tổ chức nhận tiền gửi.
+ Hành vi của người gửi tiền: Yên tâm rằng khoản tiền gửi của mình
được bảo đảm ngay cả khi tổ chức nhận tiền gửi bị sụp đổ, người gửi tiền ít
quan tâm đến hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, ít quan tâm đến việc thu
thập thông tin và đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi để
lựa chọn gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi hoạt động lành mạnh, an toàn.
Chính vì vậy họ có thể gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động
thiếu an toàn, có khả năng đổ vỡ cao. Điều đó có thể gây mất an toàn đối
với hệ thống ngân hàng và có thể tăng thêm gánh nặng cho BHTG do phải
tăng chi trả bảo hiểm khi tổ chức nhận tiền gửi yếu kém bị đổ vỡ.
+ Hành vi của tổ chức nhận tiền gửi: Các tổ chức nhận tiền gửi có xu
hướng ỷ lại vào hoạt động BHTG và sự tin tưởng của người gửi tiền, họ có
thể không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn như: không cần tăng
vốn tự có (vốn chủ sở hữu), giảm dự trữ tối đa để tận dụng cho vay…. Và
đặc biệt với khả năng thu hút nguồn vốn dễ dàng, các tổ chức nhận tiền gửi

sẽ có xu hướng cho vay dễ dàng hơn với những điều kiện và sự kiểm soát ít
chặt chẽ hơn hoặc chấp nhận cho vay ở các lĩnh vực có rủi ro cao… Đó là
những biểu hiện cư xử thiếu chuẩn mực đạo đức, trái với kỷ cương thị
trường và đe doạ đến sự an toàn của chính tổ chức nhận tiền gửi và sự an
toàn của hệ thống ngân hàng nói chung.
Rủi ro đạo đức luôn hiện hữu, tồn tại và gắn liền với việc hình thành
và hoạt động BHTG [12]. Phạm vi tiền gửi được bảo hiểm càng rộng, hạn
mức BHTG càng cao thì rủi ro đạo đức càng lớn. Rủi ro đạo đức xuất hiện
cao nhất trong hệ thống BHTG chi trả toàn bộ (không có hạn mức BHTG),
nhưng ngay cả trong hoạt động chi trả có hạn mức thấp vấn đề rủi ro đạo
đức vẫn tồn tại.


14

Thực tế ở một số nước cho thấy do không kiểm soát được rủi ro đạo
đức, nên mặc dù mục tiêu của việc thành lập BHTG là để tăng tính ổn định
của hệ thống ngân hàng nhưng đã không đạt được mục tiêu đó, trái lại còn
làm phát sinh tình trạng bất ổn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Có lẽ vì vấn đề rủi ro đạo đức mà cho đến nay, một số nước vẫn
chưa thiết lập cơ chế BHTG (tính đến nay trên thế giới có khoảng hơn 90
quốc gia đã sử dụng cơ chế BHTG [19]).
Tóm lại rủi ro đạo đức phát sinh cùng với hoạt động BHTG, phản
ánh mặt hạn chế của bản thân cơ chế này. Tuy nhiên, rủi ro đạo đức có thể
kiểm soát được và nhìn tổng thể lợi ích mà BHTG đem lại về cơ bản lớn
hơn những hạn chế của nó nên xu hướng chung trên thế giới là ngày càng
có nhiều nước áp dụng cơ chế BHTG.
Để hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG, các nước sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau như xây dựng các quy định pháp luật phù hợp
về phạm vi tiền gửi được bảo hiểm, chủ thể được BHTG, hạn mức BHTG,

phí BHTG; tăng cường hoạt động của cơ quan thanh tra, giám sát ngân
hàng…
- BHTG trong các cuộc khủng hoảng tài chính:
Trong các cuộc khủng hoảng tài chính, khi có nguy cơ đổ vỡ hàng
loạt các ngân hàng, có thể gồm nhiều ngân hàng lớn, BHTG thường không
đủ khả năng để chi trả cho người gửi tiền. Chính vì vậy, nếu chỉ trông chờ
vào nguồn vốn của BHTG thì không thể bảo vệ được quyền lợi của người
gửi tiền và củng cố được niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân
hàng, từ đó không thể hạn chế nguy cơ đổ vỡ mang tính dây truyền trong
hệ thống ngân hàng. Khi đó, Chính phủ hoặc Ngân hàng trung ương cần hỗ
trợ về tài chính để ổn định tình hình hoạt động ngân hàng và bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền.


15

Thực tế đã chứng minh trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
vừa qua, Chính phủ và Ngân hàng trung ương hầu hết các nước đã phải bỏ
ra các khoản tiền rất lớn để hỗ trợ khả năng thanh toán cho các ngân hàng
hoặc mua cổ phần để tiếp sức cho các ngân hàng, nhằm cứu vãn các ngân
hàng trước nguy cơ phá sản và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Đồng thời, để trấn an người gửi tiền, có nước đã phải tuyên bố bảo
hiểm toàn bộ khoản tiền gửi của người dân tại ngân hàng (như ở Đức),
nhiều nước đã nâng hạn mức BHTG (như Mỹ đã nâng hạn mức BHTG từ
100.000USD lên 250.000USD đến hết năm 2009, Anh đã nâng hạn mức
BHTG từ 35.000GBP lên 50.000GBP, Hy Lạp nâng hạn mức BHTG từ
20.000EUR lên 100.000EUR trong vòng 3 năm…) [13]. Biện pháp này chỉ
có thể áp dụng nếu có nguồn vốn hỗ trợ lớn từ ngân sách nhà nước hoặc từ
Ngân hàng trung ương.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật BHTG

Chính sách BHTG muốn đi vào cuộc sống phải được thể chế hoá
thành pháp luật của Nhà nước. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức
và hoạt động của BHTG, đồng thời chính thức công khai việc bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền.
Pháp luật BHTG là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
BHTG, bao gồm các quy định về đối tượng được BHTG, đối tượng tham
gia BHTG, phí BHTG, hạn mức BHTG, chi trả BHTG, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của tổ chức BHTG.
Trong quan hệ pháp luật BHTG tồn tại 3 loại chủ thể: tổ chức
BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền. Quan hệ pháp luật
BHTG không hình thành trên cơ sở hợp đồng được ký kết giữa các bên.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật BHTG đều do pháp
luật quy định, các bên không thể tự thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa


16

vụ của mình. Điều này cho thấy ý chí của Nhà nước trong các quan hệ pháp
luật BHTG rất cao. Điều đó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chính sách
công của hoạt động BHTG là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp
phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, huyết mạch của nền kinh
tế quốc gia.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật BHTG
có thể được tóm tắt như sau:
- Tổ chức BHTG: Là tổ chức nhận đóng góp tài chính từ các tổ chức
tham gia BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho
người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức này chấm dứt hoạt
động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
- Tổ chức tham gia BHTG: Là các TCTD và các tổ chức khác có

hoạt động nhận tiền gửi, các tổ chức này có trách nhiệm đóng góp tài chính
cho tổ chức BHTG để tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức này được
bảo hiểm.
- Người gửi tiền: Người gửi tiền không phải đóng góp tài chính cho
tổ chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả tiền bảo
hiểm cho mình trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG chấm dứt hoạt
động và không có khả năng thanh toán tiền gửi.
Mỗi chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật BHTG hướng tới những
lợi ích nhất định và điều này cần phải được quan tâm khi xây dựng các quy
định pháp luật nhằm dung hoà lợi ích của các bên. Người gửi tiền mong
muốn được bảo hiểm và được chi trả tối đa khoản tiền gửi và tiền lãi của
mình trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ. Nói cách khác, họ
mong muốn khoản tiền gửi nào cũng được bảo hiểm và hạn mức bảo hiểm
càng cao càng tốt. Tổ chức tham gia BHTG do phải đóng phí bảo hiểm nên
mong muốn mức phí phải đóng càng ít càng tốt. Nói cách khác, họ mong
muốn tỷ lệ phí BHTG càng thấp càng tốt và phạm vi tiền gửi được bảo


17

hiểm càng hẹp càng tốt. Riêng tổ chức BHTG, với tư cách của tổ chức thực
hiện chính sách công của Nhà nước, mong muốn hoạt động của các tổ chức
tham gia BHTG an toàn, lành mạnh, để quyền lợi của người gửi tiền được
bảo đảm và vì vậy ít phải thực hiện chi trả tiền bảo hiểm; họ cũng mong
muốn có sự cân đối giữa mức phí bảo hiểm được thu và hạn mức chi trả
BHTG để bảo đảm cân đối nguồn vốn.
Nội dung pháp luật BHTG cũng như pháp luật nói chung được quyết
định bởi những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia bao gồm:
sự phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn, sự phát triển của hệ
thống ngân hàng, mức độ cạnh tranh, minh bạch trong hoạt động ngân

hàng, văn hoá kinh doanh ngân hàng, sự hoạt động của các thiết chế quản
lý, giám sát có liên quan, mức độ hiểu biết, thói quen tiết kiệm của người
dân…. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật BHTG phải dựa trên
cơ sở điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, không thể sao chép máy
móc kinh nghiệm xây dựng pháp luật BHTG của các quốc gia khác.
1.3. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
BHTG ở Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở khu vực Châu Á vào năm 1997
tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng
cũng để lại cho Việt Nam nhiều bài học về sự cần thiết phải tăng cường
quản lý đối với hoạt động ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thời điểm đó đã đặt ra vấn đề cấp
thiết phải sửa đổi 2 Pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 12/12/1997, Quốc hội đã
thông qua 2 đạo luật về ngân hàng là Luật NHNN và Luật Các TCTD để
tạo khuôn khổ pháp lý mới cho hoạt động ngân hàng ở nước ta.
Khoản 1 Điều 17 Luật Các TCTD quy định "TCTD có trách nhiệm
tham gia tổ chức bảo toàn hoặc BHTG; mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do


18

Chính phủ quy định ". Quy định này là tiền đề pháp lý cho sự ra đời tổ chức
BHTG và hoạt động BHTG hiện nay ở nước ta.
Sau một thời gian nghiên cứu, cân nhắc về các vấn đề có liên quan,
tổ chức BHTG và cơ chế BHTG đã chính thức được hình thành ở nước ta
với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
về BHTG (Nghị định 89) và Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg ngày 9/11/1999 về việc thành lập BHTGVN.
Sau đó nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về BHTG đã ra
đời, tạo một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động BHTG ở

nước ta như: Thông tư số 03/2000/QĐ-NHNN5 ngày 16/03/2000 của
NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định 89; Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg
ngày 28/06/2000 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và
hoạt động của BHTGVN; Quyết định số 1077/2001/QĐ-NHNN ngày
27/8/2001 của Thống đốc NHNN và Thông tư số 12/2003/TT-NHNN ngày
23/12/2003 của NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 03/2000/QĐNHNN5….
Đến ngày 24/08/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
109/2005/NĐ-CP (Nghị định 109) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 89. Sau đó, NHNN đã có Thông tư số 03/2006/TT-NHNN (Thông tư
03) ngày 25/4/2006 về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định 89 và
Nghị định 109 (thay thế các Thông tư số 03/2000/QĐ-NHNN5, Quyết định
số 1077/2001/QĐ-NHNN và Thông tư số 12/2003/TT-NHNN).
Trong thời gian vừa qua các cơ quan chức năng (chủ trì là NHNN)
cũng đang xúc tiến xây dựng dự thảo Luật BHTG để nâng cao hiệu quả của
hoạt động BHTG. Tuy nhiên, vì còn chưa đồng thuận về nhiều nội dung
của dự thảo Luật nên chưa xác định được thời gian cụ thể sẽ trình Quốc hội
thông qua. Đến nay, dự thảo Luật BHTG mới chỉ được đưa vào chương


19

trình dự bị xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 theo Nghị quyết số
31/2009/NQ-QH12 ngày 17/6/2009 của Quốc hội.


20

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM

Pháp luật BHTG hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ các nội
dung có liên quan đến tổ chức và hoạt động của BHTG. Nhiều nội dung
của pháp luật BHTG phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam và tương thích với
pháp luật của các nước trên thế giới. Các quy định pháp luật này là cơ sở để
hoạt động BHTG đạt được những kết quả ban đầu đáng ghi nhận trong thời
gian vừa qua. Tuy nhiên, pháp luật BHTG hiện hành cũng đã nẩy sinh
nhiều bất cập, lạc hậu trong bối cảnh kinh tế mới, làm giảm hiệu quả của
hoạt động này.
2.1. Các quy định pháp luật về đối tượng được BHTG và đối
tượng tham gia BHTG
2.1.1. Khái niệm pháp lý về tiền gửi còn bất hợp lý, gây khó khăn
trong việc xác định đối tượng được BHTG
Tiền gửi là thuật ngữ đã được sử dụng từ rất lâu trong hoạt động
ngân hàng và việc nhận tiền gửi được coi là một trong những nghiệp vụ đầu
tiên của ngân hàng. Trước đây, thuật ngữ tiền gửi chỉ được hiểu một cách
đơn giản là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng không biết đầu tư vào
đâu nên đem gửi vào ngân hàng để hưởng lãi và được bảo đảm an toàn. Sau
này, khi các nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng được đa dạng hoá thì
trong nhiều trường hợp, thuật ngữ tiền gửi đã được sử dụng với nghĩa rộng
hơn bao gồm cả tiền mua các công cụ nợ do ngân hàng phát hành. Thuật
ngữ tiền gửi thông thường được định nghĩa trong các văn bản pháp luật về
ngân hàng của mỗi quốc gia và ở các quốc gia khác nhau có thể có cách
hiểu khác nhau về tiền gửi.
Tại Việt Nam, pháp luật cũng đã đưa ra định nghĩa về tiền gửi. Theo
Luật Các TCTD năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004)


21

thì “Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại TCTD hoặc các tổ chức

khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được
hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”
(khoản 9 Điều 20).
Tiền gửi không chỉ được định nghĩa trong Luật Các TCTD mà Nghị
định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 của Chính phủ (về việc giữ bí
mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của
khách hàng) cũng đưa ra định nghĩa về tiền gửi: "Tiền gửi của khách hàng
bao gồm tiền Đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ của các tổ chức và cá
nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn (kể cả tiền
gửi tiết kiệm) và các hình thức tiền gửi khác".
Các định nghĩa này mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các loại tiền gửi
và hình thức gửi tiền mà chưa làm rõ được bản chất của tiền gửi. Vì định
nghĩa mang tính chất liệt kê và lại không có bất cứ văn bản pháp luật nào
xác định rõ “hình thức khác”, “hình thức tiền gửi khác” là những hình thức
tiền gửi nào, điều này dẫn đến những cách hiểu khác nhau về tiền gửi trong
thực tiễn.
Một trong những hoạt động rất thường xuyên hiện nay của các
TCTD là phát hành giấy tờ có giá theo Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN
ngày 24/3/2008 của Thống đốc NHNN. Các loại giấy tờ có giá do TCTD
phát hành bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu….
Những khoản tiền của khách hàng mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành
có được coi là tiền gửi không? Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm
khác nhau. Có quan điểm cho rằng tiền mua giấy tờ có giá do TCTD phát
hành không phải là tiền gửi, mà nó là khoản tiền có tính chất đầu tư. Quan
điểm này cũng đưa ra cơ sở pháp lý là tại Luật Các TCTD có 2 điều khác
nhau là Điều 45 quy định về nhận tiền gửi và Điều 46 quy định về phát


22


hành giấy tờ có giá, NHNN cũng ban hành hai quy chế khác nhau là quy
chế tiền gửi tiết kiệm và quy chế phát hành giấy tờ có giá. Quan điểm khác
thì cho rằng các khoản tiền mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành cũng là
các khoản tiền gửi của khách hàng. Họ cho rằng việc nhận tiền gửi và phát
hành giấy tờ có giá đều là các nghiệp vụ huy động vốn của TCTD, đều dẫn
đến nghĩa vụ nợ của TCTD đối với khách hàng, nên về bản chất các khoản
tiền mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành cũng là các khoản tiền gửi của
khách hàng.
Khái niệm tiền gửi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định đối
tượng được BHTG, tính phí BHTG, cũng như trong việc công khai cho
người dân biết mình sẽ được bảo hiểm các khoản tiền nào tại ngân hàng.
Mặc dù còn có các cách hiểu chưa thống nhất về khái niệm tiền gửi, pháp
luật BHTG không đưa ra bất cứ một sự giải thích thêm nào về vấn đề này.
Tuy nhiên, trên thực tế BHTGVN đã tính và thu phí BHTG đối với cả các
khoản tiền mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành [60].
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá của các TCTD, song song với
nghiệp vụ nhận tiền gửi, là nghiệp vụ huy động vốn thường xuyên của các
TCTD. Thực tế số tiền mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành chiếm một
tỷ lệ không nhỏ trong tổng lượng tiền huy động của các TCTD (chiếm
khoảng 30-40% [4]). Mặt khác, trên thực tế người dân khi giao dịch với
ngân hàng thường không nhận thức được sự khác nhau giữa việc gửi tiền
tiết kiệm và việc mua giấy tờ có giá (kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi…) do
TCTD phát hành. Do đó, theo chúng tôi, xét ở góc độ BHTG để bảo vệ
quyền lợi của người dân, việc coi các khoản tiền mua giấy tờ có giá do
TCTD phát hành cũng là các khoản tiền gửi để được BHTG là hợp lý và
nội dung này cần được pháp luật quy định rõ.
Một vấn đề đặt ra khác là các khoản tiền tại tài khoản mở ở công ty
chứng khoán của người dân hay khoản tiền mua bảo hiểm nhân thọ của



×