Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Nhận thức của phụ huynh trường mầm non tuổi thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận về giáo dục sớm (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Trần Linh Trang

NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH
TRƢỜNG MẦM NON TUỔI THƠ, THÀNH PHỐ
PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
VỀ GIÁO DỤC SỚM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Trần Linh Trang

NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH
TRƢỜNG MẦM NON TUỔI THƠ, THÀNH PHỐ
PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
VỀ GIÁO DỤC SỚM
Chuyên ngành : Giáo dục học (giáo dục mầm non)
Mã số

: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Học viên

Nguyễn Trần Linh Trang


LỜI CẢM ƠN
"Thành công là hành trình chứ không phải điểm đến". Hôm nay, nhìn lại chặng
đường học tập trong thời gian qua, tôi thật sự biết ơn gia đình, thầy cô, nhà trường, bạn
bè, đồng nghiệp, các bậc phụ huynh. Vì vậy, tôi trân trọng gửi lời cảm ơn đến:
- Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Bình – giảng viên hướng dẫn trực tiếp, đã tận tình
chỉ dẫn, định hướng cho tôi và trên hết là sự quan tâm tinh tế của cô đã giúp tôi có một
tâm lí thoải mái, hứng khởi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn;
- Quý thầy cô trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, Đại học Sài Gòn, Cao đẳng
Trung ương Tp. HCM đã tận tình giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức hữu ích
trong suốt thời gian học tập chương trình thạc sĩ tại trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh;
- Quý thầy cô P. Sau đại học, K. Giáo dục Mầm non trường ĐHSP Tp. HCM đã
tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu;
- Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Phòng Tổ chức, Khoa Sư phạm trường Cao
đẳng Cộng đồng Bình Thuận đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được chuyên tâm học tập
nghiên cứu trong hai năm qua; những giảng viên trong Trường đã nhiệt tình hỗ trợ tôi

rất nhiều trong quá trình thực hiện luận văn: Thạc sĩ Toán học Trương Văn Chính, thạc
sĩ Đo lường và Đánh giá trong giáo dục Nguyễn Thị Kim Hồng, Thạc sĩ Tâm lí học
Bùi Thị Hồng Thắm, giảng viên Xã hội học Ngô Thị Thu Nga, đặc biệt là thạc sĩ Giáo
dục học Trần Thị Loan Phương đã nhiệt tình hỗ trợ cũng như chia sẻ cho tôi những
kinh nghiệm quý báu trong học tập nghiên cứu;
- Cán bộ Phòng Giáo dục mầm non - Sở Giáo dục & Đào tạo Bình Thuận, Ban
Giám hiệu, giáo viên, phụ huynh trường Mầm non Tuổi Thơ, Tp. Phan Thiết, T. Bình
Thuận đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện, hoàn thiện luận văn;
- Gia đình, đặc biệt là chồng tôi - anh Trần Huy Hoàng như một người bạn đồng
hành, tiếp sức cũng như gợi cho tôi nhiều ý tưởng trong học tập nghiên cứu.
Tôi xin gởi lời chúc sức khỏe và hạnh phúc đến tất cả những người mà tôi đã
được hân hạnh biết đến - với lòng biết ơn chân thành.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 9 năm 2017
Học viên
Nguyễn Trần Linh Trang


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................................ 5
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về giáo dục sớm và nhận thức của
phụ huynh về giáo dục sớm ..................................................................................5
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài ......................................................5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước ....................................................12

1.2. Các khái niệm công cụ ........................................................................................15
1.2.1. Phụ huynh ...................................................................................................15
1.2.2. Nhận thức ....................................................................................................16
1.2.3. Giáo dục ......................................................................................................17
1.2.4. Giáo dục sớm .............................................................................................. 19
1.2.5. Nhận thức của phụ huynh về vai trò của giáo dục sớm. ............................. 53
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................56
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH TRƢỜNG
MẦM NON TUỔI THƠ THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH
THUẬN VỀ GIÁO DỤC SỚM ...................................................................................57
2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng .....................................................57
2.1.1. Mục tiêu ......................................................................................................57
2.1.2. Nhiệm vụ .....................................................................................................57
2.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng ...................................................................57
2.2.1. Các phương pháp thu thập số liệu............................................................... 57
2.2.2. Phương pháp xử lí số liệu ...........................................................................60
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng ............................................................................60


2.3.1. Một số thông tin về phụ huynh trên địa bàn điều tra .................................60
2.3.2. Thực trạng nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh Trường Mầm
non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận ............................. 61
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng nhận thức về giáo dục sớm của
phụ huynh...................................................................................................90
2.4. Một số giải pháp nhằm tác động tích cực đến nhận thức của phụ huynh về
giáo dục sớm. ......................................................................................................95
2.4.1. Cơ sở đề xuất giải pháp..............................................................................95
2.4.2. Những đề xuất giải pháp nhằm tác động tích cực đến nhận thức của
phụ huynh về giáo dục sớm .......................................................................98
2.4.3. Tính hợp lí và khả thi của các giải pháp cải thiện thực trạng nhận

thức của phụ huynh về giáo dục sớm nhằm nâng cao công tác phối
hợp giữa trường mầm non và phụ huynh trong chăm sóc & giáo dục
trẻ nói chung và giáo dục sớm nói riêng ..................................................102
Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................................114
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................115
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................118
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Bảng quy đổi điểm cho những câu hỏi nhiều lựa chọn ............................. 58

Bảng 2.2.

Bảng quy đổi điểm cho những câu hỏi dạng thang Likert .........................58

Bảng 2.3.

Bảng phân chia các mức độ biểu hiện nhận thức về giáo dục sớm quy
theo điểm trung bình với số điểm tối đa là 5 .............................................59

Bảng 2.4.

Thông tin của phụ huynh được khảo sát ....................................................60

Bảng 2.5.

Nguồn tham khảo thông tin về giáo dục sớm của phụ huynh ...................61


Bảng 2.6.

Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh ....................62

Bảng 2.7.

Độ tuổi tốt nhất để bắt đầu giáo dục cho trẻ ..............................................65

Bảng 2.8.

Điểm nhận thức của phụ huynh về năm vai trò của giáo dục sớm ............71

Bảng 2.9.

Điểm trung bình mức độ biểu hiện nhận thức về những nội dung của
giáo dục sớm .............................................................................................. 77

Bảng 2.10. Tỉ lệ lựa chọn mức độ biết về các nội dung của giáo dục sớm (%) ...........80
Bảng 2.11. Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
trình độ .......................................................................................................83
Bảng 2.12. Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
nghề nghiệp ................................................................................................ 85
Bảng 2.13. Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
thu nhập ......................................................................................................87
Bảng 2.14. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến nhận thức của
phụ huynh...................................................................................................92
Bảng 2.15. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến nhận thức của
phụ huynh...................................................................................................94
Bảng 2.16. Đánh giá của phụ huynh về những giải pháp nâng cao nhận thức của

phụ huynh về giáo dục sớm. ....................................................................102
Bảng 2.17. Đánh giá của cán bộ quản lí giáo dục mầm non, thạc sĩ tâm lí, giáo
dục học về những giải pháp nâng cao nhận thức của phụ huynh về
giáo dục sớm. ...........................................................................................103


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.

Tỉ lệ chọn khái niệm giáo dục sớm (%) ................................................63

Biểu đồ 2.2.

Tỉ lệ chọn mức độ quan trọng của giáo dục sớm đối với sự phát
triển của trẻ (%) .....................................................................................69

Biểu đồ 2.3.

Tỉ lệ mức độ đồng ý về vai trò của giáo dục sớm (%) .......................... 72

Biểu đồ 2.4.

Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
trình độ...................................................................................................84

Biểu đồ 2.5.

Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
nghề nghiệp ........................................................................................... 86


Biểu đồ 2.6.

Điểm trung bình nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh theo
thu nhập .................................................................................................89

Biểu đồ 2.7.

Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 1 (%) ....................104

Biểu đồ 2.8.

Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 2 (%) ....................105

Biểu đồ 2.9.

Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 3 (%) ....................106

Biểu đồ 2.10. Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 4 (%) ....................107
Biểu đồ 2.11. Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 5 (%) ....................108
Biểu đồ 2.12. Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 6 (%) ....................110
Biểu đồ 2.13. Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 7 (%) ....................111
Biểu đồ 2.14. Tỉ lệ đánh giá tính hợp lí và khả thi của giải pháp 8 (%) ....................112


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Chúng ta đang nói đến giáo dục nhà trường. Giáo dục nhà trường dành được sự quan

tâm của nhà nước và cả xã hội từng ngày. Vì một lí do nào đó, xã hội xem giáo dục gia
đình là chuyện của mỗi nhà và bởi vậy chất lượng của giáo dục gia đình phụ thuộc chủ
yếu vào sự nỗ lực của bản thân những người làm cha làm mẹ, ít khi nhận được sự trợ
giúp một cách chính thức từ phía nhà nước và các cơ quan chức năng. Dường như
chúng ta đang hành động như thể nguồn lực con người, chất lượng giống nòi phụ
thuộc chủ yếu vào giáo dục nhà trường.
Trong cuốn sách có nhan đề "Kính gửi các bậc cha mẹ", giáo sư Hồ Ngọc Đại
viết: "Văn hóa gia đình có ý nghĩa quyết định đối với công đoạn giáo dục từ 0 đến 6
tuổi và để lại hiệu quả ấy cho cả đời người. Sang công đoạn tiếp theo, vai trò quyết
định thuộc về giáo dục xã hội dưới hình thức giáo dục nhà trường" [12, tr.130].
Vấn đề giáo dục sớm đã được quan tâm từ lâu trên thế giới. Ngay ở Việt Nam,
ông cha ta đã nhìn thấy được tầm quan trọng của giáo dục sớm qua lời răn “dạy con từ
tuổi còn thơ”. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây, làn sóng giáo dục sớm mới bắt đầu
lan tỏa. Hiện nay, chỉ một phép thử với cụm từ “giáo dục sớm” trên trang tìm kiếm
google đã cho ra gần bảy trăm nghìn kết quả. Hàng loạt các bài viết bộc lộ quan điểm
về giáo dục sớm. Dư luận xã hội Việt Nam hiện đang tồn tại những ý kiến trái chiều về
vấn đề này. Các bậc phụ huynh cũng bị hút theo những luồng thông tin khác nhau về
giáo dục sớm, có những phụ huynh thì thận trọng, khách quan, có những phụ huynh thì
ủng hộ một cách tuyệt đối, có những phụ huynh thì phản đối giáo dục sớm… Vì sao?
Phải chăng nhận thức của các bậc phụ huynh về giáo dục sớm chưa đạt đến
mức độ biết rõ dẫn đến những ngộ nhận về giáo dục sớm? Và phải chăng, quan niệm
giáo dục sớm vẫn chưa được nhiều phụ huynh hiểu đúng mà thường bị đánh đồng
thành dạy trẻ biết đọc sớm hay làm toán sớm?
Những yếu tố trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế (thu nhập) có
làm nên sự khác biệt trong nhận thức của các bậc phụ huynh về giáo dục sớm hay
không?


2
Với những lí do trên, tác giả chọn và thực hiện đề tài “Nhận thức của phụ

huynh trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận về giáo dục
sớm” với mong muốn góp phần mang lại giá trị nhất định cho việc nâng cao hiệu quả
giáo dục và phát triển tiềm năng con người ở địa phương, qua đó góp một tiếng nói
nhỏ vào bức tranh giáo dục còn nhiều trăn trở của đất nước nói chung và giáo dục trẻ
trong giai đoạn từ 0 – 6 tuổi nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức của phụ huynh trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan
Thiết, tỉnh Bình Thuận về giáo dục sớm nhằm có một cơ sở thực tiễn cho việc định
hướng cải thiện thực trạng, góp phần nâng cao công tác phối hợp giữa trường mầm
non và phụ huynh trong giáo dục nói chung và giáo dục sớm nói riêng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
3.2. Khảo sát thực trạng nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm.
3.3. Trên cơ sở phân tích thực trạng nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm,
đề xuất một số giải pháp cải thiện nhận thức của phụ huynh nhằm góp phần nâng cao
công tác phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh trong chăm sóc và giáo dục trẻ nói
chung và giáo dục sớm nói riêng.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
* Khách thể: Quá trình giáo dục sớm
* Đối tượng: Nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Phần lớn phụ huynh chưa biết rõ về giáo dục sớm và hiểu nhầm giáo dục sớm
là dạy trẻ học đọc, học viết sớm (trước khi vào lớp một).
- Những yếu tố: trình độ, nghề nghiệp, thu nhập có ảnh hưởng đáng kể đến nhận
thức của phụ huynh về giáo dục sớm.
6. Giới hạn đề tài
- Đối tượng khảo sát: Phụ huynh
- Địa bàn khảo sát: Trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh
Bình Thuận.



3
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Tìm hiểu, thu thập, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những tài liệu có liên
quan nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài, cho việc lí giải thực trạng.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra bằng bản hỏi: Được thực hiện bằng cách phát bản hỏi
cho một số phụ huynh trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình
Thuận nhằm điều tra nhận thức của họ về giáo dục sớm.
Điều tra bằng bản hỏi được thực hiện theo qui trình sau:
- Thiết kế
- Gửi bản hỏi nhờ một số chuyên gia góp ý
- Điều chỉnh bản hỏi
- Khảo sát thí điểm 3 lần (mỗi lần khoảng từ 7- 10 phụ huynh)
- Khảo sát chính thức tại trường mầm non (khoảng 15 ngày)
Bản hỏi gồm hai phần:
- Phần I: Những thông tin cá nhân của phụ huynh, trong đó có nghề nghiệp,
trình độ, thu nhập nhằm chứng minh giả thuyết thứ 2 (những yếu tố: trình độ, nghề
nghiệp, thu nhập có ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức của phụ huynh về giáo dục
sớm)
- Phần II: Những câu hỏi khảo sát nhận thức của phụ huynh về khái niệm, vai
trò, biện pháp và nguyên tắc giáo dục sớm nhằm chứng minh giả thuyết thứ 2 (phần
lớn phụ huynh chưa biết rõ về giáo dục sớm và hiểu nhầm giáo dục sớm là dạy trẻ học
đọc, học viết sớm - trước khi vào lớp một).
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
- Phỏng vấn ngẫu nhiên 10 phụ huynh (chưa tham gia trả lời phiếu khảo sát)
nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn một số ý kiến của họ về độ tuổi tốt nhất để bắt đầu
giáo dục, vai trò của giáo dục sớm và tình hình phổ biến, tuyên truyền giáo dục sớm
đến phụ huynh của những tổ chức: địa phương, trường học, những tổ chức khác.

- Phỏng vấn 20 phụ huynh (đã tham gia trả lời phiếu khảo sát), chủ yếu là
những phụ huynh được giáo viên trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết,


4
tỉnh Bình thuận giới thiệu nhằm trưng cầu ý kiến của họ về những giải pháp nâng cao
nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm.
- Phỏng vấn 02 giáo viên mầm non, 02 cán bộ quản lí trường mầm non, 01 cán
bộ quản lí phòng Giáo dục mầm non – Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Bình Thuận, 02
giảng viên sư phạm trường Cao đẳng Cộng đồng Bình Thuận nhằm thu thập ý kiến của
họ về vai trò của giáo dục sớm, việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục sớm đến cộng
đồng và trưng cầu những giải pháp nâng cao nhận thức của phụ huynh về giáo dục
sớm.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng phần mềm excel 2013 để xử lí số liệu thu thập được từ phiếu hỏi, từ đó
phân tích kết quả số liệu và góp phần đánh giá thực trạng nhận thức của phụ huynh về
giáo dục sớm.
8. Đóng góp của đề tài
8.1. Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lí luận về giáo dục sớm.
8.2. Đề tài đã chỉ ra được thực trạng nhận thức của phụ huynh tại một trường mầm
non trọng điểm trên địa bàn thành phố Phan Thiết, có thể làm tiền đề cho những hướng
nghiên cứu tiếp theo về giáo dục sớm nhằm góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
8.3. Trên cơ sở phác thảo một bức tranh nhận thức về giáo dục sớm của phụ huynh
trường Mầm non Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, bước đầu đề tài đã
chỉ ra cơ sở định hướng cải thiện nhận thức của các bậc phụ huynh về giáo dục sớm
nhằm nâng cao công tác phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh. Từ đó, mang lại hiệu
quả trong giáo dục nói chung, giáo dục sớm nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non mà ở đó trẻ trong giai đoạn từ 0 tuổi (thai nhi) đến 6 tuổi được
hưởng nền giáo dục với tinh thần nhân văn và khai phóng.

9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng nhận thức của phụ huynh Trường Mầm non Tuổi Thơ,
thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận về giáo dục sớm.


5

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về giáo dục sớm và nhận thức của phụ
huynh về giáo dục sớm
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Giáo dục sớm đã được quan tâm từ lâu ở các nước: Hoa Kì, Nhật Bản, Anh,
Pháp, Đức, Ý… và đã có nhiều tài liệu quan trọng được công bố rộng rãi. Công trình
đầu tiên về giáo dục sớm cần kể đến là “The Education of Karl Witte” ra mắt công
chúng vào năm 1814, tác giả là một mục sư người Đức tên Karl Witte - cuốn sách
được coi là “nhật kí đầu tiên trên thế giới viết về việc tự dạy học cho con”. Hạt nhân
về lí luận giáo dục trong cuốn sách là con trẻ cần được tiếp thu giáo dục ngay từ khi trí
tuệ bừng sáng.
Với cách thức giáo dục vừa độc đáo vừa gần gũi: Hầu như không mua đồ chơi
cho con, vợ chồng ông thường khuyến khích, tạo điều kiện cho con tiếp xúc, chơi với
những nguyên vật liệu mở có sẵn: cát, đá, hòn sỏi, thanh gỗ…; rất hạn chế việc cho
con kết bạn vì cho rằng trẻ con khi chơi với nhau sẽ dễ nhiễm những tính cách và thói
xấu của nhau nếu không có sự theo dõi, quan tâm của người lớn; thường xuyên trò
chuyện, tản bộ, tham quan, du lịch cùng con. Nhưng, trên hết, điều làm cho tác giả tâm
đắc nhất ở phương pháp giáo dục của Karl Witte là tình yêu bao la của một người cha
với sự kiên trì không mệt mỏi, luôn tìm mọi cách tốt nhất để giáo dục con phát triển
một cách toàn diện, bất chấp ý kiến và dư luận xung quanh [43].
Nói về lịch sử nghiên cứu giáo dục sớm không thể không kể đến Maria

Montessori, một bác sĩ người Ý và cũng là một nhà giáo dục. Với quan điểm “Sự cao
quí của nhân cách con người bắt đầu ngay từ lúc lọt lòng”, bà đã dành nhiều tâm
huyết, dày công nghiên cứu cũng như viết nhiều sách về giáo dục trẻ thơ. Qua tác
phẩm “Trẻ thơ trong gia đình”, bà đã cho chúng ta thấy “giáo dục thời thơ ấu là vấn đề
quan trọng nhất của loài người”. Maria Montessori còn cho rằng, trẻ không chỉ đơn
thuần là một động vật bé nhỏ cần cho ăn uống, mà ngay từ lúc sinh ra đã là một tạo vật
có tâm hồn, chúng ta phải mở đường cho sự phát triển tâm linh của trẻ [25].
Tác phẩm "Phương pháp giáo dục Montessori, Sức thẩm thấu của tâm hồn"
Maria Montessori viết lại dựa trên kết quả quan sát tỉ mỉ và đánh giá chuyên sâu những


6
hiện tượng giáo dục có ý nghĩa quyết định xuất hiện trong cuộc sống của trẻ từ 0 - 6
tuổi. Trong đó bà khẳng định: Trẻ có khả năng tự học hay nói cách khác “tâm hồn” trẻ
có khả năng “tự thẩm thấu” kiến thức. Do đó, trẻ hoàn toàn có thể “tự dạy chính
mình”. Ngoài ra, bà tiếp tục khẳng định, con người không đợi đến khi học đại học mới
lĩnh hội tri thức, mà quá trình học hỏi đó đã bắt đầu ngay từ khi được sinh ra và lượng
tri thức được tích lũy nhiều nhất và tập trung nhất là ba năm đầu đời [23].
Qua tác phẩm “Phương pháp giáo dục Montessori, thời kì nhạy cảm của trẻ”, bà
đã giúp các bậc phụ huynh có thể nắm bắt được các thời kì nhạy cảm của trẻ trong giai
đoạn từ 0 - 6 tuổi, giai đoạn vàng của sự phát triển trong cuộc đời mỗi người để từ đó
có sự lựa chọn cách thức giáo dục phù hợp nhằm khai mở tiềm năng của trẻ một cách
nhẹ nhàng và hiệu quả. Bà khẳng định: “Thay vì ép trẻ khó nhọc học hành, chi bằng
cha mẹ cứ kiên nhẫn chờ đợi thời kì nhạy cảm của trẻ đến, để trẻ tự động, tự chủ, tự
phát học tập theo sự hướng dẫn của nhu cầu nội tại…Bởi học như thế không chỉ nhẹ
nhàng, vui vẻ mà còn hiệu quả hơn gấp bội” [21, tr.1].
Trong tác phẩm “Phương pháp giáo dục Montessori, Phát hiện mới về trẻ thơ”,
Maria Montessori giúp người đọc thấy rằng, trẻ em từ 0 - 6 tuổi luôn khao khát được
khám phá thế giới xung quanh, được tự mình cảm nhận và học hỏi. Bởi vậy, còn gì tốt
hơn là tạo môi trường an toàn để trẻ tự do khám phá thay vì giữ trẻ thụ động trong nôi,

cũi và lo lắng trẻ sẽ tự làm đau mình. Cuốn sách này sẽ hướng dẫn người lớn mang lại
những gì tốt nhất cho trẻ, để trẻ được tự do phát triển, được học hỏi qua thế giới xung
quanh mình [22].
Xuyên suốt các công trình nghiên cứu của mình, Maria Montessori đề cao sức
sống nội tại của trẻ, trẻ đã có sẵn một tâm hồn có khả năng tự thẩm thấu qua các thời
kì nhạy cảm. Người lớn chỉ cần hiểu được kế “hoạch của tự nhiên” và có sự hợp tác
cần thiết để trẻ phát triển, qua đó tác giả thấy phương pháp giáo dục của bà đặt trên
nền tảng sự thấu hiểu sức sống bên trong của trẻ và giáo dục được hiểu như là “sự hỗ
trợ cuộc sống”.
Một tác phẩm khác, “Sự thật về ba năm đầu đời của trẻ” của bác sĩ chuyên khoa
Tâm thần học, giáo sư người Ý giảng dạy về Tâm lí Sư phạm trẻ sơ sinh - Silvana
Quattrocchi Montanaro đã đề cập đến những khám phá khoa học gần đây về não bộ trẻ


7
thơ, kết quả quan sát về các bậc cha mẹ và trẻ em của cá nhân tác giả trong nhiều năm
qua. Từ đó, giúp người đọc hiểu hơn về trẻ thơ, từ sự sống trong bào thai cho tới tuổi
lên ba. Cuốn sách đã làm nổi bật tầm quan trọng của sự thấu hiểu về con người trong
giai đoạn từ thai nhi đến 3 tuổi để từ đó có sự chăm sóc, giáo dục phù hợp nhằm phát
triển tiềm năng của con người [19].
Tại Hoa Kì, vào năm 1955, Viện Nghiên cứu phát triển tiềm năng con người gọi tắt là IAHP được thành lập bởi bác sĩ Glenn Doman cùng một số cộng sự, viện chủ
yếu tập trung nghiên cứu, chữa trị cho những trẻ bị tổn thương não và áp dụng những
phương pháp giáo dục sớm cho cả những trẻ em bình thường. Bác sĩ Glenn Doman
cho rằng mỗi trẻ nhỏ đều có thể thông minh ngay từ khi lọt lòng và nhiệm vụ của bố
mẹ phải làm sao để giúp trẻ phát huy được năng lực tiềm ẩn của con mình. Ông có
những công trình nghiên cứu khác nhau về giáo dục sớm.
Tác phẩm "Dạy trẻ thông minh sớm" của ông giúp các bậc phụ huynh đánh giá
mức độ phát triển các giác quan và khả năng vận động của trẻ thông qua các chương
trình được thiết kế một cách tỉ mỉ. Đây là cuốn cẩm nang hữu ích giúp trẻ phát triển
não bộ trong 12 tháng đầu đời sau khi sinh. Qua đó, bố mẹ sẽ hiểu cách nhìn nhận của

trẻ sơ sinh cũng như những khó khăn và cảm xúc bộc phát mà trẻ phải đối diện. Nhờ
đó, bố mẹ sẽ hiểu con mình hơn để mối dây liên kết với con sẽ càng thêm lâu bền [9].
“Dạy trẻ về thế giới xung quanh” là cuốn sách mà thông qua đó, Glenn Doman
hướng dẫn các bậc phụ huynh những phương pháp kích thích thị giác nhằm phát hiện
và khai thác tiềm năng tự nhiên của trẻ để chúng học bất kì bộ môn nào trẻ muốn.
Thông qua tập sách, trẻ sẽ thể hiện được niềm yêu thích đối với từng lĩnh vực nhất
định như nghệ thuật hay khoa học tự nhiên. Nội dung tập sách rất đa dạng và phong
phú từ các kiến thức về sâu bọ trong vườn cho đến các quốc gia trên thế giới và nhiều
điều thú vị khác [8].
Với tác phẩm “Dạy trẻ biết đọc sớm”, Glenn Doman hướng dẫn các bậc phụ
huynh biết cách bắt đầu và mở rộng chương trình tập đọc để giúp trẻ phát triển kĩ năng
đọc. Sau khi học đọc theo phương pháp của ông, trẻ sẽ thích thú với chuyện phát âm,
kết hợp từ vựng và sớm thành thạo ngôn ngữ [5].


8
“Dạy trẻ học toán” là cuốn sách mà thông qua đó, ông hướng dẫn các bậc phụ
huynh những phương pháp đơn giản, thú vị khi cho trẻ tiếp cận với các con số và cách
thành lập các phép tính cơ bản. Ngoài ra, cuốn sách còn chỉ rõ cách bắt đầu và phát
triển chương trình toán cho trẻ nhỏ, cách tạo và sắp xếp các dụng cụ học tập cũng như
cách phát triển tư duy toán học của trẻ [7].
"Tăng cường trí thông minh cho trẻ" là cuốn sách hướng dẫn một chương trình
nuôi dạy con chuyên sâu. Trong đó, có các kiến thức giúp trẻ đọc chữ, làm toán và học
hỏi về mọi thứ. Ngoài ra, tác giả Glenn Doman còn cho chúng ta thấy, việc dạy trẻ
thông minh thật dễ dàng và thú vị, từ đó bản thân thêm tự tin khi giáo dục con [6].
Tại Hoa Kì vào năm 1977, một trường đại học đặc biệt - trường dành riêng cho
thai nhi được thành lập. Giáo trình của trường đại học này bao gồm những bài
tập ngôn ngữ, âm nhạc, vận động với phương thức học tập là trò chuyện với
thai nhi, cho thai nhi nghe nhạc, vỗ và xoa ở các vị trí nhất định trên bụng thai
phụ.

Ngoài ra, còn có thể biết đến phương pháp “Giáo dục thai nhi” do Van de Carr
(người Mĩ) nghiên cứu từ năm 1979. Hoạt động chính của phương pháp này là
kích thích các giác quan, giúp thai nhi đáp ứng với môi trường bên ngoài nhằm
hỗ trợ phát triển trí não của bé trước và sau khi ra đời. Bên cạnh đó, các nước
Nhật Bản, Anh, Pháp…cũng đã có những công trình thí nghiệm để chứng minh
thai nhi có thể nghe được âm thanh và thấy được ánh sáng từ bên ngoài, đặc
biệt là trẻ dù đang trong giai đoạn thai nhi nhưng đã có trí nhớ, sau khi ra đời
vẫn nhớ lại được những âm thanh quen thuộc mà đã được nghe khi còn trong
bụng mẹ [33, tr.49-53].

Đặc biệt, tại Nhật Bản, Viện Giáo dục Shichida được thành lập vào năm 1978
bởi một giáo sư người Nhật Makoto Shichida. Đến nay, hơn 450 trung tâm Shichida đã
được thành lập trên khắp nước Nhật và một số nước khác như: Đài Loan, Singapore,
Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Mỹ, Úc, Trung Quốc, Canada và Hong Kong, Việt
Nam… Phương pháp Shichida là một trong những phương pháp giảng dạy và học tập
tiên tiến trên thế giới hiện nay và được áp dụng rộng rãi cho trẻ em từ 6 tháng đến 6
tuổi. Phương pháp giáo dục Shichida là sự kết hợp giữa giáo dục não phải và giáo dục
não trái.


9
GS. Makoto Shichida tiến hành nghiên cứu và đi sâu vào trường phái giáo dục
não phải. Vì vậy, có thể coi đây là phương pháp khác biệt so với những phương pháp
giáo dục sớm khác. Trong suốt quá trình nghiên cứu, GS. Makoto Shichida đã cho ra
đời hơn 100 cuốn sách về giáo dục não phải được xuất bản bằng cả tiếng Nhật và tiếng
Anh. Trong đó có năm cuốn đã được dịch sang Tiếng Việt. Một là, “Ba chìa khóa vàng
nuôi dạy con theo phương pháp Shichida yêu thương - khen ngợi - nhìn nhận". Cuốn
sách bao gồm những nguyên tắc dành cho ba mẹ trong quá trình nuôi dạy con dựa trên
3 chìa khóa vàng: Yêu thương, sự nghiêm khắc và sự tin tưởng [30].
Hai là, “Bí ẩn của não phải” - công trình qua hơn 50 năm nghiên cứu và 30

năm thực nghiệm của GS. Makoto Shichida đã chỉ ra sáu khả năng đặc biệt của não
phải: Khả năng về trực giác, khả năng ghi nhớ, khả năng tiếp thu nhiều ngôn ngữ, khả
năng tính toán tốc độ nhanh, khả năng cảm thụ âm nhạc, khả năng tự chữa lành, giúp
các bậc cha mẹ sẽ có cái nhìn toàn diện về những tiềm năng ẩn dấu của con và có
những cách kích hoạt đúng đắn những tiềm năng đó [29].
Sau khi có những kiến thức khoa học rõ ràng và cái nhìn toàn diện về những
tiềm năng bí ẩn của não phải, các bậc cha mẹ sẽ được GS. Makoto Shichida hướng dẫn
chi tiết việc làm thế nào để khơi dậy tiềm năng của trẻ thành công trong cuốn sách
"Giáo dục não phải". Cha mẹ sẽ biết cách dạy con đúng đắn với một tinh thần thoải
mái và sẵn sàng trong công cuộc nuôi dạy con thành tài [32].
"Phát triển trí thông minh và tài năng của trẻ" là cuốn sách mà GS. Makoto
Shichida nói về những kiến thức và giải thích rõ ràng sự phát triển về mặt thể chất
cũng như sự biến đổi về mặt tâm sinh lí của trẻ từ 0 - 6 tuổi. Ở mỗi giai đoạn của độ
tuổi, ông đưa ra những kiến thức về sự tác động của cả 5 giác quan lên trẻ, đồng thời
nêu chi tiết những lời khuyên dành cho cha mẹ có con trong độ tuổi tương ứng. Bên
cạnh đó, tác giả cũng đưa ra những bài tập để cha mẹ luyện tập và phát triển cho con
về mặt thể chất, ngôn ngữ và những kĩ năng cơ bản như kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ
năng xử lí những tình huống đơn giản trong từng giai đoạn. Ngoài ra, ông còn hướng
dẫn những trò chơi mà cha mẹ có thể áp dụng để giúp bé nâng cao khả năng tư duy
lôgic, khả năng tự lập cũng như làm quen và mở rộng kiến thức về thế giới xung
quanh. Hơn nữa, ông còn giúp các bậc cha mẹ hiểu về tâm lí của con theo từng độ tuổi


10
và từ đó biết cách xử lí những tình huống khó khăn thường gặp trong quá trình nuôi
dạy trẻ. Và một điều không kém phần quan trọng, thông qua cuốn sách này, cha mẹ
ngoài việc hiểu và biết cách nuôi dạy con, họ cũng sẽ biết cách tự thay đổi bản thân để
trở thành những bậc cha mẹ yêu thương và luôn biết nhìn nhận con mình [31].
Ngoài ra, cuốn sách “33 bài thực hành theo phương pháp của Shichida” của tác
giả Ko Shichida đã giới thiệu 33 bài học phát triển não phải mà các bậc cha mẹ có thể

hướng dẫn bé tại nhà một cách dễ dàng. Các bài tập này được đúc kết từ những thực
nghiệm dựa trên lí thuyết “giáo dục não phải” [28].
Có thể nói, những thành quả nghiên cứu của GS. Makoto Shichida đã làm thay
đổi ít nhiều các quan niệm trước đây về sự phát triển não bộ của trẻ. Đồng thời, tạo
nên một phong cách giáo dục trẻ rất khác biệt.
Tác phẩm “Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn” của tác giả Ibuka Masaru tập trung
đề cập tới khả năng và nhân cách của con người không phải vốn dĩ có sẵn từ lúc mới
sinh ra, mà phụ thuộc vào cách nuôi dạy trong ba năm đầu đời. Tác giả cũng đã đưa ra
nhiều ví dụ thực tế cho thấy giáo dục trong giai đoạn ba năm đầu đời sẽ phát huy tốt
nhất tiềm năng vô hạn mà trẻ sơ sinh có [18].
Một tác phẩm khác, “Thiên tài và sự giáo dục từ sớm” của tác giả người Nhật
Kimura Kyuichi đã viện dẫn ra nhiều thiên tài, những người đã được thụ hưởng sự
giáo dục từ sớm của gia đình cũng như giới thiệu một số quan điểm, phương pháp về
giáo dục sớm trên thế giới. Từ đó, ông muốn cho chúng ta thấy lập luận giáo dục từ
sớm sẽ tạo ra thiên tài không phải là vô căn cứ [16].
Một trong những nước có bề dày lịch sử về nghiên cứu giáo dục sớm phải kể
đến là Trung Quốc, một đất nước mà ở đó, thai giáo đã được quan tâm tới từ
hơn một ngàn năm trước. Rất nhiều cuốn sách cổ ở Trung Quốc có ghi lại học
thuyết giáo dục thai nhi như: Trục nguyệt dưỡng thai pháp của Từ Chí Tài đời
Bắc Tề, Chư bệnh nguyên hậu luận đời Tùy, Thiên kim yếu phương của Tôn
Tư Mạc, Cổ kim đồ thư tập thanh - Nhất bộ toàn lục đời Thanh …Nội dung
chính trong các cuốn sách đó chủ yếu đề cập đến vấn đề chăm sóc thai nhi, thai
phụ, những điều nên và không nên làm đối với mẹ, con trong giai đoạn thai kì.
Ngoài ra, trong y học cổ, một số phương pháp giáo dục thai nhi cũng được
nghiên cứu và đề cập như: nuôi dưỡng tính tình: sách Diệp thị trúc lâm nữ


11
khoa); Tấm lòng ngay thẳng, ngồi ngay ngắn: sách Chư bệnh nguyên
hầu luận); Gần điều tốt, xa cái xấu: sách Luận về nguồn gốc các bệnh…


[33, tr.47-49].
Trung Quốc đã tìm ra giải pháp cho gánh nặng dân số khổng lồ của mình bằng
việc giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ những năm 1980, GS.
Phùng Đức Toàn đã phát triển “Phương án 0 tuổi”, chương trình giáo dục ưu việt và
phương án thực thi cho trẻ từ 0 - 6 tuổi. Với phương án giáo dục này, ông cho rằng
nhân loại cần nhận thức lại tiềm năng của thai nhi, trẻ sơ sinh, trẻ mẫu giáo.
Nếu như ở cuốn “Chiếc nôi ươm hạt giống tài năng”, GS. Phùng Đức Toàn đưa
ra một hệ thống lí luận cơ bản về phương pháp để khai mở tiềm năng của thai nhi, trẻ
sơ sinh và trẻ nhỏ, thì ở tác phẩm “Phát triển ngôn ngữ từ trong nôi” ông đã đưa ra
những lí luận mới về ngôn ngữ thị giác và sự phổ cập rộng rãi của nó trong thực tiễn
không những giúp xã hội xóa nạn mù chữ, bán mù chữ, mà còn kết thúc lịch sử phát
triển giáo dục không toàn diện của trẻ em từ trước đến nay, giúp xã hội loại bỏ được
hiện tượng phát triển không bình thường về ngôn ngữ và những hậu quả của nó [37].
“Kinh thánh nuôi dạy con thành tài”, tác giả Thái Tiếu Vãn đã viết về câu
chuyện dài về sự nghiệp nuôi dạy 6 người con khôn lớn, thành tài. Trong tác phẩm, tác
giả không chỉ chia sẻ những cách thức giáo dục con hiệu quả mà còn đề cao tầm quan
trọng của giáo dục sớm: “Trong khi những bậc cha mẹ khác coi giai đoạn từ 0 - 3 tuổi
là giai đoạn trẻ chưa tiếp thu tri thức và nhận biết thế giới, để khoảng thời gian khai
phá trí tuệ quý báu nhất của trẻ trôi qua một cách vô ích thì tôi lại cho rằng có thể
giáo dục con trẻ ngay từ nhỏ nên đã cố gắng hết sức tiến hành giáo dục sớm cho con
ngay từ những năm tháng đầu đời” [40].
Mặc dù chưa đi sâu phân tích vào từng công trình nghiên cứu về giáo dục sớm
nhưng những gì tác giả đã trình bày ở trên cũng đã nói lên được tinh thần cơ bản của
từng trường phái, từng tác giả. Qua những công trình này, chúng ta có được một bức
tranh về giáo dục sớm phong phú, toàn diện, có chiều sâu. Những công trình này đều
dựa trên những cơ sở khoa học đáng tin cậy và đặc biệt có không ít những bằng chứng
về thực nghiệm.



12
Tuy nhiên, hầu hết các công trình đều tập trung nghiên cứu về cơ sở khoa học,
tầm quan trọng, cách thức giáo dục sớm, chứ không đi sâu vào nghiên cứu nhận thức
đặc biệt là nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm. Nhận thức của phụ huynh về
giáo dục sớm có chăng cũng chỉ được đề cập đến một cách tản mạn như tác giả Shin
Yee Jin đã viết trong tác phẩm của mình "Đừng ép con khôn sớm": "Trẻ em phải học
hành “trối chết” theo sự bắt buộc của cha mẹ và nhà trường để vào được đại học";
"Người ta cho rằng trẻ bắt đầu học chương trình mẫu giáo hay tiểu học ở độ tuổi còn
rất nhỏ sẽ phát triển nhanh hơn những trẻ khác. Đa số những người mẹ tôi gặp đều có
suy nghĩ như thế về việc giáo dục sớm và thực tế đã dạy tiếng Anh hoặc tiếng bản địa
cho con từ khi bé còn rất nhỏ"… và với tư cách là phụ huynh, tác giả Shin Yee Jin
cũng bày tỏ quan điểm của mình: "Theo quan điểm cá nhân, tôi không khẳng định rằng
việc giáo dục sớm là hoàn toàn xấu. So với người lớn thì trẻ càng nhỏ càng dễ tiếp thu
nhiều thứ hơn và tôi không muốn phủ nhận hoàn toàn kết quả to lớn có được khi giáo
dục đúng thời kỳ". Hoặc trong tác phẩm "Em phải đến Havard học kinh tế", tác giả
Lưu Vệ Hoa và Trương Hán Vũ đã viết "người ta cứ tưởng là bắt đầu dạy con càng
muộn càng tốt, vì nó sẽ được chuẩn bị chu đáo hơn". Cũng như tác giả Thái Tiếu Vãn
đã viết trong tác phẩm "Sự nghiệp làm cha" của mình, "những bậc cha mẹ khác coi
giai đoạn từ 0 – 3 tuổi là giai đoạn trẻ chưa tiếp thu tri thức và nhận biết thế giới, để
khoảng thời gian khai phá trí tuệ quý báu nhất của trẻ trôi qua một cách vô ích", hoặc
"các bậc cha mẹ khác vui mừng khi thấy học lực của con mình hơn chúng bạn đôi chút
và hài lòng với những giải thưởng cao trong các cuộc thi của con"; "các bậc cha mẹ
khác luôn ca ngợi sự xuất sắc của con với mọi người, vô tình tăng thêm áp lực cho
con"…
Như vậy, các công trình nêu trên chỉ phản ánh một phần về nhận thức của các
bậc phụ huynh về giáo dục nói chung và giáo dục sớm nói riêng, tuy nhiên cũng chỉ ở
mức tản mạn chứ chưa phải là những công trình nghiên cứu cụ thể nhận thức của phụ
huynh về giáo dục sớm.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Mặc dù còn hạn chế về những nghiên cứu khoa học về giáo dục sớm, nhưng

Việt Nam vẫn là một trong những nước quan tâm tới giáo dục sớm từ lâu. Những kiến


13
thức về thai giáo thường thông qua hình thức truyền miệng như: những món ăn, những
bài thuốc dân gian, những thói quen, tập tục, bài thơ… đã trở thành những kinh
nghiệm quí báu giúp các bậc cha, mẹ thai giáo cho con mặc dù có thể họ không nhận
ra mình đang thai giáo cho con. Qua bài Gia huấn ca, ta thấy trong dân gian cũng đã có
những bài học rất cụ thể dạy cho người phụ nữ khi mang thai phải ăn uống, đi đứng,
nói năng như thế nào thì mới tốt cho thai nhi và xem đó là cách dạy con từ khi mang
thai. Danh y Tuệ Tĩnh, Hãi Thượng Lãn Ông cũng đưa ra lời khuyên, những điều nên
làm và nên tránh khi mang thai để sinh con ngoan, tài giỏi hơn người. Tuy nhiên,
những tri thức về thai giáo trong truyền thống Việt Nam thường chỉ chú trọng hướng
đến sức khoẻ của bé và của mẹ với mong muốn được “mẹ tròn con vuông” chứ chưa
xuất phát từ những cơ sở khoa học như ngày nay để nhằm kích hoạt các giác quan và
não bộ của trẻ [3].
Trong tác phẩm “Giáo dục thai nhi dưới góc nhìn tâm lí học”, PGS.TS tâm lí
Huỳnh Văn Sơn đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục sớm. Ông cho rằng,
“Thực hiện tốt việc giáo dục sớm sẽ thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, hình thành tính cách
và phẩm chất tốt đẹp của con người. Nếu bỏ qua cơ hội chỉ đến một lần trong đời của
trẻ thì tiềm năng não bộ của trẻ sẽ giảm dần theo qui luật và hạn chế sự phát triển tối
ưu những tiềm năng cá nhân”. Một trong những nội dung đầu tiên của giáo dục sớm là
phải tiến hành thai giáo, làm cơ sở để khai mở và tạo tiền đề cho giáo dục trẻ sơ sinh.
Vì vậy, nhóm tác giả trong đó PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn là chủ biên soạn cuốn sách
này nhằm mục đích chia sẻ kiến thức để các phương pháp giáo dục thai nhi ngày càng
phổ biến, được áp dụng một cách khoa học và chắc chắn [33].
Tác giả Phạm Thị Thúy đã đề cập đến thai giáo trong luận văn thạc sĩ tâm lí lâm
sàng “Quan sát lâm sàng phương pháp giáo dục thai nhi của người Việt hiện nay”.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã hệ thống những nghiên cứu về thai giáo từ
trước đến nay của nhiều nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam [3].

Ngoài ra, tác giả còn có những công trình nghiên cứu khác liên quan đến giáo
dục sớm tiêu biểu là luận án tiến sĩ “Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con giai
đoạn từ 0 – 6 tuổi”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã điều tra, khảo sát thực trạng thực
hiện vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con 0 - 6 tuổi từ nhận thức đến thực hiện


14
vai trò. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao nhận thức và hành
vi của cha mẹ trong việc thực hiện chức năng xã hội hóa ban đầu đối với trẻ em [35 ].
Trong luận văn thạc sĩ “Nhận thức và thái độ đối với thai giáo của vợ chồng trẻ
tại thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả Quang Thị Mộng Chi cũng đã đề cập về lịch sử
thai giáo. Ngoài ra, tác giả đã xác định thực trạng nhận thức và thái độ đối với thai
giáo của vợ chồng trẻ thông qua khảo sát. Qua đó, đề xuất một số biện pháp nhằm tác
động tích cực đến nhận thức và thái độ của vợ chồng trẻ [3].
Tiến sĩ Từ Đức Văn đã có bài viết “Phương án 0 tuổi - Một hướng tiếp cận mới
trong giáo dục mầm non Việt Nam” được đăng trên tạp chí Giáo dục. Trong bài viết,
ông đã khái quát chương trình giáo dục thời kì sớm - Phương án 0 tuổi. Ông đã giúp
người đọc nhận thấy tầm quan trọng của giáo dục thời kì sớm. Từ đó, tác giả đã có
kiến nghị, các nhà nghiên cứu, quản lí giáo dục cần quan tâm và có định hướng nghiên
cứu để Việt Nam cũng có những kết quả nghiên cứu phát triển và áp dụng giáo dục
thời kì sớm theo kịp sự tiến bộ trong lĩnh vực phát triển này của thế giới [41].
Khoảng 10 năm trở lại đây, Việt Nam dậy lên làn sóng giáo dục sớm có lẽ nhờ
sự phát triển ồ ạt và phủ sóng sâu rộng của các phương tiện truyền thông cũng như nhu
cầu nuôi dạy, chăm sóc con cái mình tốt hơn của các bậc phụ huynh. Song song với
đó, nhiều phương pháp, mô hình giáo dục sớm được triển khai ở Việt Nam: phương
pháp giáo dục Shichida, phương pháp Glenn Doman, phương án 0 tuổi …một số viện
cũng đã được thành lập: Viện Nghiên cứu Giáo dục Phát triển tiềm năng con người
(IPD), Viện Nghiên cứu Giáo dục trẻ thông minh sớm VSK, Viện Giáo dục sớm Việt
Nam, Viện Giáo dục Shichida Việt Nam…Tuy nhiên, chưa có một sự kiểm nghiệm cụ
thể nào đến từ các cơ quan chức năng và cũng không có một thước đo, tiêu chí nào để

đánh giá được hiệu quả của hầu hết các cơ sở giáo dục sớm tại Việt Nam trong thời
điểm hiện tại.
PGS.TS tâm lí Huỳnh Văn Sơn đã nói “Ngày nay, vấn đề giáo dục sớm đã được
nhiều quốc gia quan tâm đầu tư phát triển mạnh và trở thành một cuộc “cách mạng”
trên thế giới - “cách mạng” giáo dục thời kì sớm [33]. Vì vậy, cũng không khó cho
chúng ta nói chung và các bậc phụ huynh nói riêng khi muốn tiếp cận các tài liệu


15
nghiên cứu về giáo dục sớm để tìm hiểu, trau dồi những kiến thức và kĩ năng giáo dục
sớm cho trẻ.
Như vậy, Việt Nam có một số công trình hướng đến nghiên cứu nhận thức của
các bậc cha mẹ, phụ huynh về giáo dục con cái giai đoạn 0 (thai nhi) – 6 tuổi. Luận
văn thạc sĩ "Nhận thức và thái độ đối với thai giáo của vợ chồng trẻ tại thành phố Hồ
Chí Minh", tác giả Quang Thị Mộng Chi cũng chỉ mới nghiên cứu nhận thức của phụ
huynh (vợ chồng trẻ) về thai giáo mà thai giáo chỉ là bộ phận của giáo dục sớm, chưa
nghiên cứu nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm một cách trọn vẹn.
Còn trong luận án tiến sĩ: "Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con giai đoạn
từ 0 – 6 tuổi", tác giả Phạm Thị Thúy đã điều tra, khảo sát thực trạng thực hiện vai trò
của cha mẹ trong việc giáo dục con 0 - 6 tuổi từ nhận thức đến thực hiện vai trò cụ thể
là khảo sát nhận thức của phụ huynh về vai trò, nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện trong khuôn khổ giáo dục gia đình.
Tóm lại, trên thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách cụ thể nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm. Đặc biệt, cũng
chưa có một công trình nào nghiên cứu về "Nhận thức của phụ huynh trường Mầm non
Tuổi Thơ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận".
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Phụ huynh
Theo từ điển Tiếng Việt, phụ huynh là cha mẹ hoặc người thay mặt, đại diện
cho gia đình học sinh trong quan hệ với nhà trường [27, tr.1016].

Theo từ điển Hán Việt, phụ huynh là cha anh = tiếng gọi chung các người lớn
trong nhà [1, tr.589].
Như vậy, phụ huynh không chỉ có nghĩa là cha mẹ, mà còn có nghĩa là đề cập
đến những người lớn trong gia đình, những người có thể thay mặt, đại diện cho gia
đình học sinh trong quan hệ với nhà trường.
Mặc dù từ phụ huynh không chỉ được hiểu là cha mẹ; nhưng ngày nay, trong
các cơ sở giáo dục, hội phụ huynh học sinh được hiểu là hội cha mẹ học sinh. Trong đề
tài này, chúng tôi dùng từ phụ huynh với nghĩa là cha mẹ, những người có trách nhiệm
chính trong việc giáo dục con trẻ.


16
1.2.2. Nhận thức
1.2.2.1. Khái niệm về nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, nhận thức là quá trình phản ánh biện
chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người
trên cơ sở thực tiễn [2, tr.294].
Theo quan điểm này thì hiểu biết của con người là kết quả của quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào trong não bộ con người, nhưng đó không phải là sự
phản ánh thụ động, máy móc, sao chép hiện thực, mà tri thức của con người về thế giới
là kết quả mang tính chủ động, sáng tạo trong quá trình con người tác động vào thế
giới khách quan để nhằm thỏa mãn những nhu cầu của đời sống. Tính chủ động và
sáng tạo trong quá trình nhận thức phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử xã hội, phụ thuộc
vào nền tảng sinh học của mỗi cá nhân và nhiều yếu tố khác, do vậy kết quả nhận thức
tất yếu không giống nhau.
Trong từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, nhận thức được coi là kết quả
của quá trình phản ánh và tái hiện lại thế giới khách quan vào trong ý thức con người,
kết quả thu được chính là những hiểu biết của con người về hiện thực khách quan [27].
Theo từ điển tâm lí học do Vũ Dũng chủ biên thì nhận thức là hiểu được một
điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết những qui luật,

hiện tượng, quá trình nào đó [11, tr.553].
Như vậy, có nhiều cách hiểu về nhận thức nhưng tựu trung đều thống nhất cho
rằng nhận thức là một tiến trình (phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não
thông qua hoạt động thực tiễn) hay kết quả của tiến trình ấy (tồn tại dưới dạng tri
thức), nhằm mục đích hiểu biết về đối tượng nào đó để phục vụ cho nhu cầu đời sống.
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả chỉ quan tâm đến nhận thức dưới góc độ kết
quả của một quá trình. Cụ thể, tìm hiểu nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm là
tìm hiểu về hiểu biết (tồn tại dưới dạng tri thức) của phụ huynh về giáo dục sớm.
1.2.2.2. Các mức độ của quá trình nhận thức
Căn cứ vào tính chất phản ánh, có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành
hai mức độ lớn: nhận thức cảm tính (gồm cảm giác và tri giác) và nhận thức lí tính (tư
duy và tưởng tượng).


17
Căn cứ trên tính trọn vẹn và đầy đủ của bản chất sự vật, hiện tượng để phân
chia thành các mức độ nhận thức [3, tr.24]:
– Một là, nhận thức đúng, đầy đủ về sự vật, hiện tượng.
– Hai là, nhận thức đúng, chưa đầy đủ về sự vật, hiện tượng.
– Ba là, nhận thức được một phần về sự vật, hiện tượng nhưng chưa phản ánh
đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
– Bốn là, nhận thức sai về sự vật, hiện tượng.
Trong đề tài này, tác giả dựa vào cách phân loại mức độ nhận thức thứ hai, tuy
nhiên chỉ khảo sát nhận thức của phụ huynh ở mức độ nhận biết: Biết hay chưa? Biết
đúng hay sai? Biết đầy đủ hay chỉ biết một phần về nội dung kiến thức; nói cách khác,
tìm hiểu nhận thức của phụ huynh về giáo dục sớm là xem xét vốn hiểu biết của phụ
huynh về giáo dục sớm như thế nào.
1.2.3. Giáo dục
Là một khái niệm chung và rộng của Giáo dục học và được diễn giải khác nhau
ở nhiều phương diện: bản chất, hoạt động, phạm vi…Xét về mặt phạm vi, khái niệm

này được hiểu qua hai mức độ rộng và hẹp như sau:
1.2.3.1. Giáo dục theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, khái niệm giáo dục bao hàm nhiều cấp độ khác nhau, nhưng
nhìn chung khái niệm này hàm nghĩa là sự hình thành có mục đích và có tổ chức
những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt
đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao
hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tố tạo nên những nét tính cách và
phẩm chất của con người, đáp ứng các nhu cầu của kinh tế xã hội [14, tr.33].
Con người là những cá thể duy nhất có tự do, không như những loài khác, vốn
chỉ sống trong khuôn khổ mà tự nhiên đã áp đặt. Là những tạo vật tự do, bởi vậy các
phẩm chất để sinh tồn và phát triển nơi con người không sẵn có (nhưng tiềm năng thì
vô hạn) vì vậy con người cần đến một phương tiện mà ngày nay chúng ta gọi là giáo
dục để hình thành nên những sức mạnh về thể chất và tinh thần. Do nhu cầu cũng như
thực trạng kinh tế xã hội ở mỗi thời và mỗi nơi khác nhau nên trong quan niệm về mục
đích cũng như phương cách giáo dục sẽ khác nhau; nhưng một nền giáo dục đúng


×