Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chống phong kiến (giai đoạn 1945 – 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.71 KB, 56 trang )

GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

MỤC LỤC
  

Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đềtài ...............................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................6
6. Kết cấu luận văn ................................................................................6
NỘI DUNG ....................................................................................7
Chương 1: Nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế
quốc và nhiệm vụ chống phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ................................................................................................7
1.1 Đặc điểm tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX......7
1.2 Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân theo quan điểm
của Đảng................................................................................................10
Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng trong việc giải quyết nhiệm vụ chống
phong kiến (giai đoạn 1945 – 1954) .....................................................14
2.1. Đặc điểm tình hình sở hữu ruộng đất và đời sống của nông dân
dưới chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng
Tám........................................................................................................14
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất.........................................................14

SVTH: Lý Thường Kiệt



Trang 1


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

2.1.2. Đời sống nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thống trị..............16
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong giải quyết nhiệm vụ chống
phong kiến (giai đoạn 1945-1954) ........................................................18
2.2.1 Giai đoạn 1945-1949 ...................................................................19
2.2.2 Giai đoạn 1949-1953 ...................................................................25
2.2.3 Giai đoạn 1953-1954 ...................................................................32
Chương 3: Đánh giá kết quả và bài học kinh nghiệm của việc giải
quyết nhiệm vụ chống phong kiến (giai đoạn 1945-1954) ...............42
3.1.Đánh giá kết quả của việc giải quyết nhiệm vụ chống phong kiến
(giai đoạn 1945–1954)....................................................................42
3.1.1. Thành tựu .............................................................................42
3.2.2 Hạn chế, nguyên nhân..................................................................45
3.2. Bài học kinh nghiệm của quá trình thực hiện nhiệm vụ chống phong
kiến ........................................................................................................47
KẾT LUẬN ....................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................53

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 2



GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

MỞ ĐẦU
  

1. Lý do chọn đề tài
Trước sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp vào nửa cuối thế kỷ
XIX, đất nước Việt Nam đã mất độc lập tự do, chịu sự cai trị, bóc lột hà khắc
của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Sự câu kết cai trị của thực dân và
phong kiến đã làm đời sống của các tầng lớp nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ
hết sức khó khăn, cùng khổ. Trong xã hội đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn nhưng
nổi lên là 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế
quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân
với bọn phong kiến phản động.
Như vậy, xã hội Việt Nam muốn phát triển trước hết phải giải quyết 2
nhiệm vụ: đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc và đánh đổ phong kiến
giành ruộng đất cho dân cày.
Với truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, các tầng lớp nhân dân
Việt Nam ta đã đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Thế nhưng, những
phong trào yêu nước Việt Nam cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều không
đem đến sự thành công và sớm bị dập tắt vì thiếu một đường lối lãnh đạo
đúng đắn.
Ngày 3/21930, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân
đã ra đời. Sự ra đời của Đảng cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước, xây dựng đường lối đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội theo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin mà trước hết là thực hiện “Độc lập
dân tộc và người cày có ruộng”. Chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc là

nhiệm vụ hàng đầu, song chống phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 3


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

cũng có vai trò hết sức quan trọng không phải một sớm một chiều mà thực
hiện được.
Vậy, trong cách mạng Việt Nam, bên cạnh nhiệm vụ chống đế quốc,
nhiệm vụ chống phong kiến đã được Đảng ta lãnh đạo thực hiện ra sao? kết
quả như thế nào? Chính vì những lí do đó, mà tác giả đã chọn đề tài “Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chống phong kiến (giai
đoạn 1945 – 1954) làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về thực hiện nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày
cũng như kết quả thực hiện nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu như:
- Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam (tập III, Đảng lãnh đạo
kháng chiến và kiến quốc ( 1945 – 1954), NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội,
năm 2009. Tác phẩm này đã cho chúng ta biết những Chủ trương chỉ đạo của
Đảng đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp xâm
lược lần thứ 2 về tổ chức kháng chiến và xây dựng, kiến thiết đất nước.
- 75 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ( 1930 – 2005) của Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Lý luận Chính Trị Hà Nội, năm 2005. Tác

phẩm này đã cho chúng ta biết về quá trình lãnh đạo cách mạng từ giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa của Đảng ta. Trong đó, tác phẩm có đề cặp đến một số vấn đề chính
sách ruộng đất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam của Trần Phương, NXB. Khoa học
xã hội, Hà Nội 1968. Tác phẩm đã thể hiện một cách có hệ thống các chính
sách ruộng đất của Đảng cũng như sự chỉ đạo của Đảng ta trong việc thực
hiện các chính sách ruộng đất ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 4


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

- Cải cách ruộng đất, thành quả và sai lầm của tác giả Văn Tạo, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 2-1993, trình bày về vấn đề cải cách ruộng đất ở nước
ta. Ngoài ra bài viết còn nêu rõ những thành tựu đạt được và những sai lầm,
hạn chế trong các đợt cải cách ruộng đất ở Việt Nam.
- Tìm hiểu chính sách ruộng đất của Đảng trong kháng chiến chống Pháp
của tác giả Lê Quỳnh Nga, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3-2007…
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu hết sức quan trọng cho
tác giả trong việc triển khai thực hiện đề tài này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng ta cũng như một số mặt còn hạn chế về việc giải quyết nhiệm vụ chống
phong kiến trong Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (giai đoạn 1945-1954).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Đề tài này được thực hiện nhằm mục đích là làm sáng tỏ các chủ trương,
của Đảng về giải quyết nhiệm vụ chống phong kiến, kết quả và những hạn chế
của việc thực hiện các chủ trương này trong giai đoạn 1945 – 1954. Từ đó
thấy được sự đúng đắn cũng như những sai sót của Đảng trong việc lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ chống phong kiến, làm cho người cày có ruộng giai đoạn
này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Thứ nhất, tìm hiểu đặc điểm tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX.
+ Thứ hai: Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ
chống phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân theo quan điểm
của Đảng

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 5


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

+ Thứ ba: Đặc điểm tình hình sở hữu ruộng đất và đời sống của nông dân
dưới chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam
+ Thứ tư: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong giải quyết nhiệm vụ
chống phong kiến (giai đoạn 1945-1954)
+ Thứ năm: Đánh giá kết quả của việc giải quyết nhiệm vụ chống phong
kiến (giai đoạn 1945 – 1954)

+ Thứ sáu: Bài học kinh nghiệm của quá trình thực hiện nhiệm vụ chống
phong kiến
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic; phương pháp phân tích - tổng
hợp; phương pháp so sánh - đối chiếu…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 6


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

NỘI DUNG
  

Chương 1: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
NHIỆM VỤ CHỐNG ĐẾ QUỐC VÀ NHIỆM VỤ CHỐNG PHONG
KIẾN TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
1.1. Đặc điểm tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hóa
phát triển mạnh mẽ, các nước tư bản chủ nghĩa đã đẩy mạnh quá trình xâm
chiếm thuộc địa. Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Việt Nam mở
đầu cho quá trình xâm lược và đô hộ hơn 80 năm trên đất nước ta.

Dưới chính sách thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những
biến chuyển lớn trên tất cả các mặt. Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành ở nước ta. Thực dân
Pháp đã đặt nền kinh tế nước ta vào tay các tổ chức tư bản độc quyền, đứng
đầu là tập đoàn tư bản tài chính "Ngân hàng Đông Dương". Sự thống trị của tư
bản độc quyền không có nghĩa là quan hệ sản xuất phong kiến bị loại trừ; trái
lại, chúng duy trì nó để kìm hãm sự phát triển và làm cơ sở kinh tế, chính trị,
xã hội của chế độ thuộc địa. Về chính trị, thực dân Pháp sử dụng bộ máy
chính quyền phong kiến làm tay sai cho chế độ thực dân; mặt khác, chế độ
thực dân làm chỗ dựa tồn tại của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm bóc lột,
đàn áp nhân dân Việt Nam…
Vì vậy, Việt Nam đã từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến. Dưới sự thống trị của bọn thực dân xâm lược,
dân tộc Việt Nam lâm vào tình cảnh nước mất, nhà tan, cuộc sống cùng khổ,
đói kém với chính sách thuộc địa hà khắc, bóc lột tận xương tủy của chúng.
Đại diện cho tầng lớp nhân dân bị bóc lột rõ ràng nhất và nặng nề nhất
chính là nông dân. Nông dân chiếm khoảng 90% dân số, họ bị đế quốc, phong

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 7


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã
bị bọn tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán
đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã

đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa không lối thoát. Họ đã bị bọn thực
dân chà đạp một cách tàn ác, họ bị cướp mất ruộng đất mà chính tay họ đã trãi
qua bao nhiêu gian lao, khổ cực mới tạo ra được; để kiếm được miếng cơm
manh áo họ phải bán sức lao động của mình một cách rẻ mạt cho bọn địa chủ,
một số nông dân làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi
làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn phải gắn
vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất
mà trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì thế, trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã
hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, song hai mâu thuẫn cơ bản và chủ
yếu là mâu thuẫn dân tộc giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân Việt Nam với bọn địa chủ phong kiến.
Đây chính là hai mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Như vậy, xã hội Việt Nam muốn phát triển phải giải quyết cho được hai
nhiệm vụ: nhiệm vụ thứ nhất là chống đế quốc giành độc lập, tự do cho dân
tộc; nhiệm vụ thứ hai chống phong kiến để đem lại ruộng đất cho dân cày
nghèo. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản và cũng
là hai nhiệm vụ cấp bách của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến, đòi
hỏi cách mạng Việt Nam cần phải giải quyết một cách cấp thiết và triệt để.
Với truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, từ khi thực dân Pháp
xâm lược và đô hộ, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy cầm vũ khí chống bọn
cướp nước. Tiêu biểu là các phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến
như: Phong trào Cần Vương (1885-1896), khổi nghĩa nông dân Yên Thế
(1883-1913)… các phong trào đấu tranh theo ý thức hệ tư sản dưới sự lãnh
đạo của cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh hay phong trào Duy Tân của

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 8



GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

vua Duy Tân… Nhưng tất cả những cuộc đấu tranh đó đều không giành được
thắng lợi mà nguyên nhân là do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu một tổ chức
cách mạng có khả năng dẫn dắt cách mạng, dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi.
Cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX rơi vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng. Yêu
cầu lịch sử đòi hỏi là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối
cách mạng đúng đắn dẫn đường, mới có khả năng đưa phong trào cứu nước đi
đến thắng lợi.
Với một tấm lòng yêu nước thiết tha và nhãn quan chính trị sắc bén,
Nguyễn Ái Quốc- người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã ra đi tìm đường
cứu nước và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đến với con đường cách mạng vô
sản – con đường duy nhất đúng và sẽ đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt
Nam, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân
dân “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” [ 16. tr.314].
Sau một thời gian tích cực hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cùng tổ chức
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, con đường cứu nước cách mạng
vô sản đã được truyền bá sâu rộng ở Việt Nam làm cho phong trào đấu tranh
không chỉ của giai cấp công nhân mà phong trào yêu nước của các giai cấp,
tầng lớp khác đã phát triển mạnh mẽ, đấu tranh có tổ chức.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) cùng với Cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Nó đánh
dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân, từ đây giai cấp công nhân bước
lên vũ đài chính trị, là giai cấp trung tâm lãnh đạo cách mạng nước ta. Nó
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, mở ra thời kỳ mới-thời kỳ

của những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 9


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

1.2 Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân theo quan điểm
của Đảng
Ngay khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã xác
định đúng đắn con đường của cách mạng Việt Nam – đó là con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xác định phương hướng cách mạng Việt Nam là “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tính
chất giai đoạn và lý luận cách mạng không ngừng đã được thể hiện trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để
tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới, khác
với những chủ trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước
đương thời đã đi vào bế tắc và thất bại.
Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Đường lối cơ bản của cách
mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã thể hiện được tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc xác định đúng đắn phương
hướng, con đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết

đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu tiến hành cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng
Việt Nam có nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản là “Đánh đố đế quốc chủ nghĩa và
bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Chống đế quốc
giành độc lập cho dân tộc và chống phong kiến để giành ruộng đất cho dân
cày- hai nhiệm vụ mà cuộc cách mạng này cần phải giải quyết, trong đó nhiệm
vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu.
Xuất phát từ đặc điếm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đây là hai nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam. Hai nhiệm vụ này phải được tiến hành
SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 10


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

khǎng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn của Đảng
ta. Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến đã khẳng
định tính toàn diện, triệt để của đường lối cách mạng Việt Nam. Những nhiệm
vụ đó là biểu hiện sinh động của việc kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người trong đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc [2. tr .18.19].
Luận cương chính trị tháng 10-1930 khẳng định tính chất của cách mạng
Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, nó phải giải quyết hai nhiệm vụ
chiến lược là đánh đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành
ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít
với nhau: “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ
và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong

kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa" [12. tr.63].
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Đảng
ta đã nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến và đặt thành một nhiệm vụ chiến lược gắn liền
với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cương lĩnh của Đảng đã định hướng đúng
cho sự vận động phát triển của cách mạng Việt Nam. Giải quyết vấn đề ruộng
đất cho nông dân chính là bảo đảm quyền dân chủ cơ bản về mặt kinh tế của
nông dân. Nó không chỉ được thực hiện trong cách mạng dân tộc dân chủ, mà
còn được định hướng cho sự phát triển tiếp theo trong giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong Luận cương chính trị tháng 10-1930 lại xem nhiệm vụ
chống phong kiến, thực hành thổ địa cách mạng “là cái cốt của cách mạng tư
sản dân quyền”. Quan điểm này chưa phù hợp với điều kiện của một nước
thuộc địa như Việt Nam.
Quan điểm trên đã được Đảng ta nhận thức lại trong văn kiện Chung
quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936). Đảng ta đã nhận thức đúng đắn mối
SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 11


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

quan hệ giữa nhiệm vụ chống đến quốc và chống phong kiến: “tùy hoàn cảnh
thực hiện bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời,
còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt
buộc thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề
điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải

quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận
động…Nói tóm lại, nếu phát triển nhanh cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở
cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng mà giải
quyết trước” [2. tr.152].
Đây là nhận thức mới của Đảng ta, nó phù hợp với tinh thần trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận
cương chính trị tháng 10-1930.
Để phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai
nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn
giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với
nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm
vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm
"cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân".
Như vậy, nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộcchống đế quốc và nhiệm vụ dân chủ-chống phong kiến trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đã ngày càng sáng tỏ. Tiến hành cách mạng dân tộc
chính là tiến tới đánh đuổi đế quốc, thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc
lập. Còn giải quyết nhiệm vụ dân chủ chính là đánh đổ phong kiến, đem lại
ruộng đất cho dân cày. Đó là hai nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt của Cách
mạng Việt Nam [7.tr.81].
Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ
thể hóa bằng những mục tiêu thích hợp từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích
SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 12


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng


những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả năng phân hóa hàng ngũ kẻ thù đế
quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại
nhất trong từng lúc một.
Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ
thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ,
về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 13


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

Chương 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT NHIỆM VỤ CHỐNG PHONG KIẾN (GIAI ĐOẠN 1945 – 1954)
2.1. Đặc điểm tình hình sở hữu ruộng đất và đời sống của nông dân dưới
chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất
* Ruộng đất bị địa chủ phong kiến chiếm hữu
Sau Cách mạng tháng Tám, nhìn chung chế độ chiếm hữu và bóc lột
phong kiến vẫn còn tồn tại, địa chủ vẫn là giai cấp chiếm hữu nhiều ruộng đất
nhất, vẫn là thế lực kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và là trở lực cho sự
phát triển xã hội Việt Nam.
Ở nước ta đất trồng trọt chỉ có 4,3 triệu hécta, trong đó, khoảng 54,5%
diện tích do giai cấp địa chủ phong kiến và các thế lực nhà thờ chiếm hữu. Số
còn lại thuộc 37,8% số hộ nông dân, 62,2% số hộ nông dân không có ruộng.

Đặc biệt ở Nam Bộ, ruộng đất tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến
với mức độ cao hơn. Trong tổng số 2,3 triệu hécta ruộng đất ở Nam Bộ, địa
chủ chiếm hữu khoảng 56,9%. 6.300 địa chủ lớn (tổng số toàn quốc là 6.530)
đã chiếm hữu 45% tổng số ruộng đất ở Nam Bộ, 67,6% số hộ nông dân không
có ruộng.
Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, nơi đất hẹp người đông, mức chiếm hữu ruộng
đất của địa chủ tuy thấp hơn Nam Bộ, nhưng tỷ lệ tập trung ruộng đất trong
tay giai cấp địa chủ khá lớn. Theo thống kê của Ủy ban cải cách ruộng đất
Trung ương tại 3.653 xã thuộc vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nǎm
1945 địa chủ chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng
đất[21.tr.12,13,14].
Tóm lại, những số liệu trên đã phản ánh một thực tế là dưới chế độ thực
dân phong kiến, giai cấp địa chủ chiếm hữu trên 50% tổng số ruộng đất ở
nước ta, chúng áp bức, bóc lột nông dân hết sức nặng nề.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 14


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

* Chiếm hữu ruộng đất của tư bản Pháp
Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, duy trì quan hệ sản xuất phong kiến,
đồng thời cho phép tư bản Pháp chiếm hữu và khai thác ruộng đất ở nước ta
trên quy mô lớn. Đến nǎm 1890, ở Việt Nam đã có 126 đồn điền, hầu hết là
của bọn cố đạo, bọn võ quan và thực dân người Pháp. Số ruộng đất mà chúng
khai thác ở Trung Kỳ là 3.484 hécta, Bắc Kỳ là 3068 hécta và Nam Kỳ là

4.346 hécta.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác
thuộc địa bằng việc mở rộng các đồn điền. Từ nǎm 1921 đến nǎm 1926, chúng
chiếm trên 100.000 hécta đồn điền cao su, từ nǎm 1926 đến nǎm 1928 chúng
chiếm 215.000 hécta. Như vậy, từ khi trở thành thuộc địa của Pháp cho đến
nǎm 1930, ruộng đất ở Việt Nam tập trung trong tay tư bản Pháp lên tới
1.025.000 hécta (riêng đồn điền cao su là 706.000 hécta). Ngoài ra ruộng đất
còn tập trung trong tay bọn tư bản tài chính (Đông Pháp ngân hàng, Địa ốc
ngân hàng và các chi nhánh của nó). Nông khố ngân hàng có ở hầu khắp các
tỉnh bằng hình thức cho vay rồi chiếm đoạt ruộng đất của cả địa chủ và nông
dân.
Tóm lại: Thực dân Pháp xâm lược nước ta đã duy trì chế độ chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến trong việc chiếm đoạt ruộng đất của
nông dân, đã tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của chế độ thực dân ở
Việt Nam. Địa chủ và tư bản thực dân nắm trong tay khoảng 70% ruộng đất,
trong khi nông dân chiếm trên 90% số dân chỉ có khoảng gần 30% ruộng đất.
Mức chiếm hữu ruộng đất như trên tạo cho giai cấp thống trị có đầy đủ
phương tiện vật chất để áp bức bóc lột nông dân, làm tuyệt đại đa số nông dân
ta sống trong cảnh bần cùng, đói rách và dân tộc ta bị kìm hãm trong vòng
nghèo nàn, lạc hậu.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 15


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng


2.1.2. Đời sống nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thống trị
* Sự bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến
Dựa vào sự chiếm hữu ruộng đất, giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột
nông dân dưới hình thức địa tô, nợ lãi và thuê mướn bóc lột nhân công.
Địa tô là hình thức bóc lột phổ biến của giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam (chủ yếu là tô hiện vật). Có ba hình thức địa tô:
Tô đóng: tuỳ theo từng loại ruộng đất thuộc hạng nào (tốt hay xấu, xa
hay gần, dễ làm hay khó làm...), địa chủ ấn định trước số lượng thóc mà tá
điền phải nộp tô trên mỗi mẫu bất kể vụ đó tá điền có thu hoạch được hay
không. Hình thức này thường được bọn địa chủ lớn áp dụng. Với hình thức tô
đóng, địa chủ có hai cái lợi: một là, nắm chắc phần sản phẩm trong tay; hai là,
không phải bỏ công quản lý. Còn đối với nông dân, được mùa đã vậy, chẳng
may mất mùa, họ chỉ còn cách đi vay lãi nộp tô cho địa chủ.
Tô rẽ: trên cơ sở thu hoạch cụ thể của vụ trước, địa chủ chia với nông
dân theo một tỷ lệ ấn định trước (thường là 50%- rẽ đôi cho mỗi bên). Chi phí
ruộng đất hoàn toàn do nông dân bỏ ra, sản lượng càng cao thì mức tô rẽ càng
tǎng, do vậy địa chủ bóc lột được nhiều. Hình thức này đã kìm hãm sự phát
triển của sức sản xuất trong nông nghiệp. Tô rẽ thường được bọn địa chủ nhỏ
áp dụng.
Tô lao dịch: địa chủ lấy vụ chính, mọi việc làm trong vụ này đều do
nông dân, còn địa chủ quản lý. Bằng hình thức này, địa chủ vắt kiệt sức lao
động của nông dân.
Ngoài địa tô chính, nông dân còn phải nộp cái gọi là "địa tô phụ" dưới
hình thức lễ lạt, quà cáp, biếu xén... Bóc lột bằng nợ lãi là hình thức bóc lột
phổ biến của địa chủ và là gánh nặng đổ lên đầu nông dân. Sau khi nộp tô cho
địa chủ, người nông dân không còn đủ sản phẩm để nuôi sống gia đình, phải
đi vay lãi. Đây là dịp để địa chủ thực hiện việc tước đoạt phần ruộng đất và tài

SVTH: Lý Thường Kiệt


Trang 16


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

sản cuối cùng của nông dân. Bóc lột bằng chế độ làm công nô lệ là hình thức
bóc lột phổ biến của địa chủ vừa và nhỏ. Quan hệ giữa nông dân và địa chủ là
quan hệ lệ thuộc giữa tá điền với chúa đất.
* Sự bóc lột của tư bản Pháp
Trong số hơn một triệu hécta ruộng đất mà bọn tư bản Pháp chiếm đoạt,
gồm một phần ba là ruộng lúa. Khai thác loại ruộng đất này, về cơ bản tư bản
cũng áp dụng phương thức bóc lột phong kiến. Điểm khác ở đây là bộ máy
chính quyền thực dân trực tiếp bảo vệ quyền lợi của các chủ đồn điền. Số đồn
điền trồng cây công nghiệp, tư bản Pháp trực tiếp kinh doanh và thuê mướn
nhân công.
Đồn điền trồng cây công nghiệp nằm tại những vùng đất mới khai phá
(đất rộng, người thưa). Chủ đồn điền Pháp mộ phu phần lớn ở Bắc Bộ và
Trung Bộ. Người nông dân bị dồn vào thế cùng quẫn bởi sưu cao, thuế nặng,
địa tô, nợ lãi... cuối cùng phải rời bỏ quê quán vào làm thuê cho các chủ đồn
điền. Tại đây, bọn tư bản thực dân bóc lột lao động làm thuê một cách tàn bạo,
thân phận người lao động trở thành thân phận người nô lệ.
Ngoài các hình thức bóc lột trên đây, địa chủ và thực dân Pháp còn bóc
lột nông dân bằng sưu cao, thuế nặng như: thuế đinh, thuế điền, thuế ngoại
phụ. Thuế đinh bổ vào người nam giới từ 18 tuổi đến 60 tuổi, thuế điền đánh
vào các loại ruộng, thuế phụ thu lạm bổ đánh vào người dân cày... Chính
quyền thực dân dùng thuế quan nhằm bảo hộ công thương nghiệp chính quốc,
kìm hãm sự phát triển kinh tế thuộc địa, triệt tiêu các nghề truyền thống của
dân tộc Việt Nam.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, với toàn bộ thiết chế chính trị của
chúng, chính quyền thực dân cùng vua quan phong kiến và địa chủ đã kìm
hãm nền kinh tế Việt Nam trong phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Thân
phận người nông dân Việt Nam chỉ là nô lệ. Vì vậy, bên cạnh nhiệm vụ đánh

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 17


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

đổ chế độ thực dân giành độc lập dân tộc thì nhiệm vụ đánh đổ phong kiến
giành ruộng đất cho dân cày trở thành yêu cầu khách quan, hợp quy luật của
xã hội Việt Nam, là nguyện vọng tha thiết của nông dân.
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong giải quyết nhiệm vụ chống
phong kiến (giai đoạn 1945-1954)
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã xem vấn đề ruộng đất là một vấn đề
hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết mâu thuẫn trong xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền
(1930-1945), nhiệm vụ cao nhất của cách mạng là phải thực hiện thành công
nhiệm vụ giành lại độc lập dân tộc. Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề ruộng
đất được Đảng ta đặt ra mới chỉ là chủ trương, chính sách, song nó có ý nghĩa
thực tiễn là: chủ trương, chính sách đó đã phù hợp với lợi ích của giai cấp
nông dân nên đã sớm phát huy tác dụng, phát triển phong trào cách mạng của
quần chúng, tạo nên sức mạnh vật chất, góp phần cùng toàn dân tiến hành
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, tạo điều kiện mới cho một quốc gia độc lập, một đất

nước có chủ quyền thực hiện những nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và bảo
vệ chế độ mới, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, nền độc lập giành lại chưa được bao lâu, chính phủ Việt Nam
Dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với những khó khăn hết sức to lớn. Thực
dân Pháp được các đế quốc Anh, Mỹ khuyến khích và giúp sức, đã trở lại
cướp nước ta lần nữa. Về kinh tế, tình trạng tàn phá kiệt quệ và nạn đói khủng
khiếp do chính sách cướp bóc tàn bạo của phát xít Nhật- Pháp cùng nạn lụt
lớn gây ra.
Trong tình hình như vậy, chính quyền cách mạng chưa thể thực hành
ngay một lúc các chính sách cải cách dân chủ được ghi trong chương trình của
Mặt trận Việt Minh. Vì vậy, Đảng và Chính phủ đã tùy vào điều kiện cho
phép tiến hành từng bước chính sách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng.
SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 18


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

Quan điểm của Đảng và Chính phủ ta là: “nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
2.2.1 Giai đoạn 1945-1949: Đảng chủ trương bãi bỏ các thứ thuế vô lý,
tịch thu ruộng đất của chủ, chia cho dân cày, thực hiện giảm tô, miễn, giảm
thuế.
Do hậu quả của chính sách bóc lột tàn bạo của bọn phát xít Nhật, Pháp,
cùng với nạn lũ lụt, thiên tai… đã cướp đi hơn 2 triệu đồng bào từ Quảng Trị
trở ra vào cuối năm 1944 – 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám nạn đói vẫn
nghiêm trọng đe dọa tính mạng hàng trăm triệu người. Ngày 3-9-1945, theo đề

nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại phiên họp đầu tiên, Chính Phủ lâm thời
quyết định chiến dịch cứu đói và tăng gia sản xuất – một trong sáu công việc
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã
thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục
và có bước phát triển hơn trước. Nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống của nông
dân đã được cải thiện, đặc biệt là nông dân lao động được dần dần ổn định và
cải thiện một bước.
Ngày 26 – 10 – 1945, thực hiện chủ trương của Đảng là xóa bỏ những
thứ thuế vô lý, giảm nhẹ phần đóng góp của nhân dân, được sự đồng ý của
Hội đồng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng ký và ban
hành Nghị định giảm thuế điền và miễn thuế [19. tr.36-37].
Song song đó Chính phủ tiến hành tịch thu những đồn điền, ấp trại của
thực dân Pháp và bọn Việt gian đem chia cho nông dân tá điền.
Nhờ vậy, yêu cầu về ruộng đất của nông dân đã được giải quyết bước
đầu.
Tháng 11 – 1945, Bộ Nội vụ ra Thông tư quy định giảm tô 25% so với
mức địa tô trước ngày Cách mạng Tháng Tám. Đây là lần đầu tiên chính

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 19


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

quyền cách mạng ra một bản pháp lệnh chính thức tấn công vào sự bóc lột của
giai cấp địa chủ phong kiến và tỏ rõ thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh của nông

dân.
Tháng 12 năm 1946, kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng
nổ. Do phải tập trung lãnh đạo công cuộc kháng chiến, nên trong thời kỳ đầu
của cuộc kháng chiến, việc thực hiện chính sách ruộng đất chưa có điều kiện
chú trọng đúng mức. Việc giảm tô theo thông tư của Bộ Nội vụ chưa được đặt
ra một cách ráo riết, và thường được tiến hành bằng cách thuyết phục địa chủ
hơn là vận động nông dân đấu tranh với địa chủ.
Tháng 1 – 1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ 2, lần đàu
tiên đề ra một cách có hệ thống chính sách ruộng đất của Đảng trong kháng
chiến, gồm những điểm sau:
1. Triệt để thực hiện việc giảm 25% địa tô (ở những nơi chưa thực hiện).
2. Bài trừ các loại địa tô phụ như tiền trình gặt, tiền đầu trâu, lễ lạt quá
nặng.
3. Bỏ chế độ quá điền.
4. Đem ruộng đất và tài sản của bọn phản quốc tạm cấp cho dân cày
nghèo, hoặc giao cho bộ đội cày cấy để tự cấp phần nào (sẽ có chỉ thị riêng).
5. Chia lại công điền cho hợp lý và công bằng hơn.
6. Đem ruộng đất, đồn điền của địch cấp cho dân cày nghèo, chấn chỉnh
các đồn điền do chính phủ quản lý.

Ý nghĩa quan trọng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 là ở
chỗ đã định rõ chính sách ruộng đất của Đảng trong cuộc kháng chiến cùng
các chính sách khác nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp – nguồn cung cấp
chủ yếu của kháng chiến. Vấn đề giảm tô 25% được đặt thành nhiệm vụ hàng

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 20



GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

đầu trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Đối với các
đồn điền của thực dân Pháp và bọn Việt gian, thái độ của chúng ta là đem chia
cho nông dân, còn ruộng đất của địa chủ chạy vào vùng tạm chiếm của địch,
thì do chính quyền địa phương quản lý. Sau này khi họ trở lại, xét ra nếu họ
không có tội với Tổ quốc thì sẽ hoàn lại cho họ số địa tô đã thu được. Chính
sách này nhằm phân hóa địa chủ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Sau đó ít lâu, cũng vào đầu năm 1948, Hội nghị cán bộ Trung ương lần
thứ 4, trong khi bàn về vấn đề cải thiện dân sinh, đã đề ra những chủ trương
cụ thể hơn trong việc xử lý ruộng đất và tài sản của Việt gian và thực dân
Pháp.
Hội nghị quyết định:
1. Tịch thu ruộng đất và tài sản của Việt gian (đưa ra tòa án tuyên án rõ
ràng). Ruộng đất thì Ủy ban kháng chiến hành chính (UBKCHC) thu cho dân
cày cấy, còn tài sản thì tùy trường hợp cấp cho dân cày hoặc UBKCHC thu sử
dụng (việc chia ruộng đất cho dân cày cần phải có kế hoạch đầy đủ ).
2. Những ruộng đất của Việt gian bị chết trong khởi nghĩa mà các đoàn
thể sử dụng thì phải giao lại cho bên chính quyền (những ruộng đất này phải
hợp pháp hóa). Chú ý: Khi tịch thu thì chỉ tịch thu những người có tội.
3. Chính phủ tạm thời quản lý các đồn điền của Pháp.
4. Những ruộng đất mà trước đây các điền chủ Pháp cướp của dân có
bằng cớ rõ ràng thì trả lại cho dân.
5. Thành lập ở mỗi đồn điền một ban quản trị gồm một đại biểu hành
chính (huyện hoặc tỉnh), 1 đại biểu Bộ canh nông, 3 đại biểu tá điền. Kế hoạch
cảu Ban quản trị phải được UBKCHC khu chuẩn y. Nhiệm vụ Ban quản trị là
phân phối ruộng cho dân, giúp đỡ kế hoạch cho dân cày cấy, làm thế nào khỏi
bỏ đất hoang, thu được hoa lợi.


SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 21


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

Thực hiện chủ trương trên, ngày 18 – 2 – 1948, Thường vụ Trung ương
Đảng ra Chỉ thị gửi các khu ủy về việc tịch thu ruộng đất, tài sản của bọn Việt
gian phản quốc.
Chỉ thị yêu cầu các khu ủy cần lập ngay danh sách bọn Việt gian phản
quốc từ trước khởi nghĩa đến bấy giờ và điều tra ruộng đất, tài sản của chúng,
truy tố chúng trước pháp luật. Nghiên cứu cách thức chia ruộng đất thế nào
cho công bằng thích hợp. Muốn liệt một người nào đó vào hạng Việt gian phải
căn cứ vào những hành động cụ thể, không nên mơ hồ. Khi tịch thu ruộng đất,
tài sản của bọn Việt gian, phải để cho vợ con họ có những phương tiện sinh
sống, nếu những kẻ ấy vô can. Đối với những kẻ cơ hội cần khoan hồng.
Trong việc tuyên truyền không nên làm cho giới tư sản, điền chủ hiểu lầm
rằng: đây là một bước đầu để nay mai sẽ đi tới tịch thu ruộng đất địa chủ, do
đó họ có thể sinh hoang mang lo sợ.
Chỉ thi Trung ương nhằm mục đích trừng trị bọn phản đế để nêu gương,
đồng thời thi hành một phương sách cải thiện, nâng cao đời sống cho dân cày
[4. tr.60-61].
Tháng 8 – 1948, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ lần thứ 5.
Nghị quyết của Hội nghị ghi rõ:
“Dưới chính quyền mới do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhiều cuộc cải cách
cộng lại có thể thành một cuộc cách mạng”.

Trên cơ sở đánh giá về tinh thần cách mạng của giai cấp nông dân và giai
cấp địa chủ phong kiến, Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Đông
Dương lúc bấy giờ gồm 2 hai nhiệm vụ lớn:
- Thứ nhất, muốn phát triển kỹ nghệ ở Đông Dương, làm Đông Dương
thành một nước hoàn toàn độc lập và tối tân, có kỹ nghệ phải đuổi hẳn đế
quốc ra khỏi đất nước.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 22


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

- Thứ hai, muốn xóa bỏ những tàn tích phong kiến, phát triển nông
nghiệp, phải cải cách ruộng đất.
Nhiệm vụ thứ nhất tức là nhiệm vụ phản đế.
Nhiệm vụ thứ hai tức là nhiệm vụ phản phong kiến, nhiệm vụ thổ địa
[21. tr. 63-64].
Trong điều kiện lịch sử Đông Dương lúc này, hai nhiệm vụ đó phải đi
đôi. Trong quá trình thực hiện, nó sẽ bồi bổ cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau:
không đánh đổ đế quốc thì cũng không xóa bỏ được những tàn tích phong
kiến và chế độ chiếm đất, bóc lột tàn ác của lũ đế quốc, Việt gian; nếu không
xóa bỏ những tàn tích phong kiến và thực hiện cải cách ruộng đất thì số đông
quần chúng nhân dân quyết không liều lĩnh tích cực tham gia kháng chiến bền
bỉ.
Xuất phát từ đặc điểm cách mạng nước ta, Hội nghị đã xác định phương
thức tiến hành cuộc cách mạng ruộng đất:

“Dùng phương pháp cải cách mà dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của
địa chủ phong kiến bản xứ lại (ví dụ: giảm tô). Đồng thời sửa đổi chế độ
ruộng đất (trong phạm vi không có hại cho Mặt trận thống nhất chống thực
dân Pháp xâm lược). Chính vì thế mà Trung ương đã quyết định về vấn đề
ruộng đất và cải cách ruộng đất cho dân cày trong Hội nghị Trung ương mở
rộng đầu năm nay (15 – 12 – 1948). Đó cũng là một cách ta thực hiện cách
mạng thổ địa bằng một đường lối riêng biệt”[21. tr.66].
Như vậy, Hội nghị Cán Bộ Trung ương lần thứ 5 đã khẳng định chỉ có
đem lại quyền ruộng đất cho nông dân thì mới bổ dưỡng được lực lượng
kháng chiến, góp phần đưa kháng chiến tới thắng lợi.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 23


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

Hội nghị còn chỉ ra phương hướng làm cách mạng ruộng đất thích hợp
với điều kiện riêng biệt của nước ta là:
- Chính sách ruộng đất phải phục vụ cho việc đẩy mạnh kháng chiến,
phải tiến hành như thế nào để không có hại cho Mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lược, mặc dù bản thân việc chống phong kiến gắn
bó rất chặt chẽ và thúc đẩy công cuộc kháng chiến cứu nước.
- Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, để đạt yêu cầu trên đây, không thể
một bước thủ tiêu ngay tức khắc quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất của
giai cấp địa chủ, mà phải dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của giai cấp địa chủ
phong kiến, thông qua giảm tô, giảm tức, chia lại công điền,…

Điều tra nông thôn là việc làm rất cần thiết nhằm làm cho Đảng nắm
vững tình hình sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân đưa ra chính sách ruộng
đất cho sát. Vì vậy, ngày 23 – 11 – 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
Chỉ thị về việc điều tra nông thôn trong cả nước.
Chỉ thị nêu rõ: mỗi liên khu phải chọn lấy một tỉnh, mỗi tỉnh phải chọn
lấy một huyện làm đơn vị điều tra thí nghiệm, để sau có kinh nghiệm làm nơi
khác. Những nơi được chọn làm thí điểm phải có nhiều đặc điểm hơn nơi
khác: về ruộng đất phải có nhiều loại ruộng, về xã hội, gồm nhiều giai tầng, có
nhiều hình thức bóc lột của địa chủ, phú nông và nhiều phong tục tập quán
khác nhau.
Các liên khu phải lập Ban Điều tra nông thôn, kế hoạch điều tra phải
thống nhất và sát với tình hình địa phương. Khi điều tra phải cộng tác chặt chẽ
với các cấp ủy, đoàn thể địa phương để sưu tầm tài liệu thông suốt và cụ thể.
Căn cứ vào kết quả điều tra, các Liên khu ủy sẽ rút kinh nghiệm báo cáo
tỷ mỷ cho các cấp đảng bộ, thành lập các ban điều tra từ tỉnh, huyện đến xã.
Đồng thời phân phối các nhân viên trong Ban điều tra liên khu về giúp các
Ban Điều tra tỉnh.

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 24


GVHD: Lê Thị Út Thanh

LVTN: Lịch sử Đảng

Chỉ thị nhấn mạnh: Đảng ta cần phải cộng tác với Đoàn thể trong Mặt
trận Việt Minh để có thể có nhiều cán bộ đắc lực giúp việc, cũng như để công
việc điều tra tiến hành được mau chóng [ 4. tr.405 - 407]

Kết quả của các chính sách ruộng đất của Đảng ta thời kỳ này là đến
trước tháng 7 – 1949 theo thống kê, ở 3.035 xã, chúng ta đã tịch thu của thực
dân Pháp 11.656 hécta và của bọn Việt gian là 8.280 hécta. So vơi tổng số
ruộng đất của thực dân có ở những xã đó là 19.033 hécta, thì ngay trong thời
kỳ này, chính quyền nhân dân đã tịch thu một số ruộng đất bằng 61,24% tổng
số. Số còn lại là những ruộng đất lúc đó còn thuộc vùng tạm bị chiếm[21.
tr.68].
2.2.2 Giai đoạn 1949-1953: Đảng chủ trương giảm tô, giảm tức, hoãn
nợ, xóa nợ.
Từ năm 1949, Đảng và Chính phủ đã chú ý hơn trước vấn đề nông dân
và vấn đề ruộng đất và đã thực hiện một loạt biện pháp về ruộng đất.
Ngày 14/7/1949, Chính phủ kháng chiến ban hành sắc lệnh giảm tô, thay
thế cho thông tri giảm tô của Bộ Nội vụ năm 1945. Sắc lệnh quy định rõ là
phải giảm 25% so với mức địa tô trước ngày Cách mạng Tháng Tám (không
kể khoản tô mà chủ ruộng tăng lên hồi phải nộp “thóc tạ” cho Nhật), xóa bỏ
các loại địa tô phụ, thủ tiêu chế độ quá điền và lập hội đồng giảm tô ở cấp tỉnh
để xét xử việc tranh kiện về giảm tô.
Từ sau khi ban hành sắc lệnh này, việc giảm tô được các cấp thực hiện
ráo riết hơn: có nơi ngay ở vùng du kích, quần chúng cũng đấu tranh đòi giảm
tô. Phong trào đấu tranh của nông dân diễn ra khá sôi nổi để buộc địa chủ ở
nhiều nơi phải giảm tô theo sắc lệnh.
Tuy nhiên, sự chuyển biến về mặt vận động giảm tô vẫn còn chậm và
không đều. Do quyết nhấn mạnh đến vấn đề đoàn kết trong Mặt trận dân tộc
thống nhất cho nên cách giải quyết của chúng ta còn nặng về hình thức, thuyết

SVTH: Lý Thường Kiệt

Trang 25



×