Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH BIỂU TÌNH TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM lý LUẬN và KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 84 trang )

Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----

-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2008 - 2012

BIỂU TÌNH TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
LÝ LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Nam Phương
Bộ môn: Luật hành chính

Sinh viên thực hiện:
Đặng Hoàng Minh
MSSV: 5086052
Lớp: Luật hành chính K34

Cần Thơ, 5/ 2012

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 1

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
LỜI CẢM ƠN


Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy, các cô Khoa Luật –
Trường đại học Cần Thơ, đã cung cấp cho em những kiến thức chuyên ngành Luật
trong suốt 4 năm học tập tại trường giúp em có thể hoàn thành luận văn của mình .
Em xin đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Nam Phương,
người đã tận tình giúp đỡ, hưỡng dẫn em hoàn thành Luận văn.
Em c ũ n g xin cảm ơn thư viện Khoa luật, Trung tâm học liệu – Trường
đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong việc tìm kiếm nguồn thông
tin, tài liệu.
Xin cảm ơn cha mẹ, người luôn tạo động viên, điều kiện thuận lợi tốt nhất cả
về vật chất và tinh thần cho con hoàn thành được luận văn này.
Và cuối cùng, xin cảm ơn tất cả những người bạn đã giúp đỡ, góp ý cho tôi
trong suốt quá trình viết luận văn.
Cần Thơ, tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Đặng Hoàng Minh

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 2

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

----------

----------

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….


Cần Thơ, ngày ….. tháng ….. năm 2012

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 3

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
----------

----------

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

Cần Thơ, ngày ….. tháng ….. năm 2012

MỤC LỤC

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 4

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỂU TÌNH .................................................... 4
1.1 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm ....................................................................................................... 4
1.1.2 Các nguyên tắc của việc xây dựng chế định quyền nghĩa vụ của công dân ... 5
1.1.3 Phân loại các quyền và nghĩa vụ công dân ..................................................... 9
1.1.3.1 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về kinh tế - xã hội ................................... 9

1.1.3.2 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về văn hóa ............................................. 11
1.1.3.3 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về tự do dân chủ và tự do cá nhân ........ 12
1.1.3.4 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về chính trị ............................................ 14
1.2 BIỂU TÌNH........................................................................................................ 16
1.2.1 Nguồn gốc của quyền biểu tình..................................................................... 16
1.2.2 Khái niệm quyền biểu tình ............................................................................ 18
1.2.3 Phân biệt giữa biểu tình với một số hoạt động khác ..................................... 23
1.2.3.1 Phân biệt biểu tình với bạo loạn, bạo động ............................................ 23
1.2.3.2 Phân biệt biểu tình ôn hòa và gây rối trật tự công cộng......................... 25
1.2.3.3 Mối quan hệ giữa biểu tình với quyền tự do hội họp ............................. 25
1.2.4 Ý nghĩa biểu tình ........................................................................................... 26
1.3 CHẾ ĐỊNH BIỂU TÌNH NƯỚC NGOÀI ....................................................... 27
1.4 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BIỂU TÌNH ............................................. 31
1.4.1 Xu hướng phát triển chung của thế giới.................................................... 31
1.4.2 Xu hướng quốc tế hóa biểu tình ................................................................ 32
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH – THỰC TIỄN VÀ ĐỀ
XUẤT HOÀN THIỆN .................................................................................................. 35
2.1 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM .......................... 35
2.1.1 Pháp luật biểu tình trước 1992 ...................................................................... 35
2.1.2 Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành ................................................. 37
2.1.2.1 Cơ sở pháp lý về quyền biểu tình trong Hiến pháp 1992....................... 37
2.1.2.2 Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với việc ghi nhận
quyền biểu tình ............................................................................................................... 38
2.1.2.3 Biểu tình là Quyền hiến định có hiệu lực cùng Hiến pháp hiện hành.... 40

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 5

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
2.2 SỰ CẦN THIẾT CỦA LUẬT BIỂU TÌNH .................................................... 42
2.2.1 Một số quan điểm về ban hành luật biểu tình hiện nay ở Việt Nam............. 42
2.2.2 Luật hóa biểu tình là điều cần thiết ............................................................... 44
2.3 ĐỀ XUẤT VỀ LUẬT BIỂU TÌNH .................................................................. 47
2.3.1 Quy định về việc thông báo khi tổ chức biểu tình ........................................ 48
2.3.2 Cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình và quyền hạn chế hoặc giải tán
cuộc biểu tình ở Việt Nam.............................................................................................. 49
2.3.2.1 Cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình ....................................... 49
2.3.2.2 Quyền hạn chế hoặc giải tán cuộc biểu tình ở Việt Nam....................... 50
2.3.3 Cấm, thời gian cấm, phạm vi cấm biểu tình và cấm sử dụng loa ở một số địa
điểm ................................................................................................................................ 50
2.3.3.1 Cấm, thời gian cấm biểu tình ................................................................. 50
2.3.3.2 Phạm vi cấm biểu tình............................................................................ 51
2.3.3.3 Cấm sử dụng loa ở một số địa điểm....................................................... 52
2.3.4 Vấn đề trách nhiệm và chế tài xử phạt .......................................................... 52
2.3.4.1 Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức.......................................................... 52
2.3.4.2 Trách nhiệm của nhà nước ..................................................................... 53
2.3.4.3 Chế tài xử phạt ....................................................................................... 54
2.3.5 Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo xây dựng luật biểu tình........ 54
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 57

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 6


SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Quyền biểu tình là một trong những quyền cơ bản của công dân, được chính
thức ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam cũng thừa nhận quyền này trong
Hiến pháp. Tuy nhiên, mặc dù được ghi nhận kể từ Hiến pháp 1959, đến nay pháp luật
hiện hành vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào để cụ thể hoá quyền biểu tình.
Quyền biểu tình vẫn chưa thực sự đi vào đời sống của nhân dân, mặc dù đây là yêu cầu
khách quan của toàn xã hội.
Một trong những hình thức thể hiện dân chủ là việc người dân có quyền tham
gia vào các hoạt động của Nhà nước. Quyền lợi hợp pháp của nhân dân phải được đặt
lên hàng đầu. Chủ trương và chính sách có liên quan đến người dân thì người dân có
quyền được biết và đóng góp ý kiến, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện có thể
để nhân dân thực hiện quyền của mình. Biểu tình là một hình thức để nhân dân thực
hiện sự giám sát đối với hoạt động của Nhà nước. Nếu người dân không được biểu tình
để bày tỏ quan điểm, thể hiện những bức xúc của mình đối với hoạt động của Nhà nước
do chính mình lập nên thì chưa thể hiện hết sự dân chủ đó trong xã hội.
Thực tế cho thấy muốn xã hội ổn định thì những vấn đề quan trọng liên quan
trực tiếp đến Nhà nước, công dân, xã hội… phải được luật hóa và phổ biến một cách
đầy đủ, kịp thời. Biểu tình là một lĩnh vực rất quan trọng có tác động không chỉ đến an
ninh mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước. Bởi vậy, không có pháp
luật về biểu tình để điều chỉnh trực tiếp là một thiếu sót lớn. Có luật biểu tình thì chúng
ta mới có thể thực thi được quyền biểu tình trên thực tế. Đó không chỉ là cơ sở để Nhà
nước tổ chức thi hành luật biểu tình một cách chính thức mà còn là khuôn khổ, chuẩn
mực để nhân dân thực hiện quyền biểu tình. Cả Nhà nước và nhân dân đều dựa trên luật
biểu tình để thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình. Luật biểu tình chưa có thì không
thể xử lý những vướng mắc phát sinh, nếu để tình trạng đó diễn ra dài không những ảnh
hưởng đến tâm lý xã hội mà còn ảnh hưởng xấu đến hệ thống pháp luật của nước

ta.
Trên thực tế, trong những năm qua, biểu tình đã xảy ra ở nhiều nơi và mỗi nơi
người dân biểu tình theo những cách mà mình cho là đúng. Ví dụ như treo cờ tổ quốc,
viết nội dung mình muốn yêu cầu lên giấy, lên áo… thậm chí đem cả đồ dùng cá nhân
như chiếu, mùng màn, quần áo, đồ ăn, nước uống… đi biểu tình và ngủ luôn trên vỉa hè.
Khi có đám đông biểu tình diễn ra như trên làm cho nhiều người dân muốn tìm hiểu
xem việc gì xảy ra và hậu quả là khi có biểu tình thường kèm theo ách tắc giao thông,
hoặc trật tự công cộng bị đảo lộn. Cơ quan Nhà nước rất lúng túng trong việc giải quyết
khi có một cuộc biểu tình xảy ra.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 7

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Muốn giải quyết các vấn đề trên, chúng ta nên xây dựng Luật biểu tình để Nhà
nước quản lý, kiểm soát xã hội tốt hơn, vừa đảm bảo để cho nhân dân có thể tự do bày
tỏ bức xúc, tâm tư nguyện vọng. Luật biểu tình còn là cơ sở để hạn chế sự lợi dụng của
kẻ xấu, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đó là đòi hỏi rất cấp bách trong bối cảnh
hiện nay.
Trên cơ sở những nhận định trên, người viết quyết định chọn đề tài “Biểu tình
trong Hiến pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị” để làm đề tài luận văn.
2. Mục tiêu của đề tài
Biểu tình diễn biến phức tạp nhưng Việt Nam chưa có luật biểu tình quy định cụ
thể vấn đề này. Nhiều hệ lụy từ biểu tình xảy ra mà không có căn cứ để xử lý, đó là một
thiếu sót rất lớn và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội.
Qua đề tài này, người viết muốn khẳng định: Sự cần thiết phải có luật biểu tình ở

Việt Nam. Biểu tình là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp
hiện hành. Và nhiệm vụ của Nhà nước là phải đảm bảo cho quyền này được thực hiện
trên thực tế thông qua việc ban hành luật biểu tình. Đồng thời, đóng góp một phần ý
kiến vào việc xây dựng luật biểu tình của Việt Nam sau này.
3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp….để nghiên cứu mối quan hệ giữa thực tiễn biểu tình và các quy định của
pháp luật về quyền biểu tình ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào nghiên cứu quyền biểu tình trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam và thế giới
Trước hết, người viết đã tìm hiểu những quy định pháp luật liên quan đến biểu
tình của Việt Nam như Luật số 101/ SL – L - 003 ngày 20 – 5 - 1957 của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa về quyền tự do hội họp. Mặc dù đây là một văn bản không
trực tiếp điều chỉnh vấn đề biểu tình nhưng hoạt động tự do hội họp là một trong những
tiền đề quan trọng để tiến tới việc thực hiện biểu tình. Do đó, chúng ta có thể tham
khảo, kế thừa những quan điểm pháp lý tiến bộ trong văn bản trên để hoàn thiện các quy
định về biểu tình trong quá trình xây dựng luật biểu tình của nước ta sau này.
Bên cạnh đó, các tác giả còn tham khảo thêm những quy định của pháp luật
nước ngoài có liên quan đến quyền biểu tình của một số nước trên thế giới, các thông tin
từ các sách báo, tạp chí, trang thông tin điện tử có liên quan đến vấn đề biểu tình để góp
phần vào việc hoàn thiện hơn cho nội dung của đề tài

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 8

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
4. Bố cục của đề tài:
Bố cục của đề tài gồm những nội dung:
- Mục lục
- Lời nói đầu;
- Chương 1: Lý luận chung về biểu tình.
- Chương 2: Quy định pháp luật về biểu tình – thực tiễn và hướng hoàn thiện.
- Kết luận.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 9

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỂU TÌNH
1.1 QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
1.1.1 Khái niệm
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân bao giờ
cũng giữ một vị trí quan trọng, luôn được quan tâm xây dựng với các quy định ngày
càng nhiều hơn và hoàn thiện hơn qua các bản Hiến Pháp.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn luôn gắn liền với vấn đề quốc tịch
là nội dung biểu hiện của vấn đề quốc tịch. Quốc tịch thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa cá nhân với Nhà nước, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân
đối với nhà nước và quyền, trách nhiệm của nhà nước đối với công dân.Có

quốc tịch thì mới có quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; không có điều ngược
lại.
Các quyền và nghĩa vụ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp được gọi là
các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, thiết yếu nhất, vì nó xác nhận mối quan hệ cơ bản
nhất giữa Nhà nước và công dân, các quyền và nghĩa vụ ấy là cơ sở chủ yếu có ý nghĩa
quyết định để xác định địa vị pháp lý của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân là chế định cơ bản trong hầu hết các
bản hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Cùng với chế định quyền trong Hiến pháp,
ta có thể xác định được mức độ dân chủ nhân đạo, tiến bộ của một nhà nước, một xã
hội. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở để xác định địa vị pháp lý của
công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ khác. Việc quy định như vậy vì những
quyền và nghĩa vụ này xuất phát từ nhân quyền; việc thành lập ra Nhà nuớc tiến bộ để
bảo vệ chúng và không được xâm phạm trong khi thực hiện quyền lực của mình.
Trong lịch sử lập hiến nước ta, nội dung chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân hết sức phong phú, ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn. So với Hiến pháp
trước, Hiến pháp sau đã có những sửa đổi bổ sung điều khoản mới phản ánh những thay
đổi cơ bản về mọi mặt đời sống xã hội Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển. Chẳng
hạn Hiến Pháp 1992 dành riêng một điều nói về quyền con người với những với nội
dung chính trị pháp lý rộng hơn so với các Hiến pháp trước. Do đó, quyền và nghĩa vụ
của công dân trong Hiến pháp nước ta thể hiện tính kế thừa, phát triển cả về hình thức
và nội dung. Điều đó phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, phản ánh nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và địa vị xã hội ngày càng tăng của các cá nhân con người, các

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 10

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
quyền và nghĩa vụ cơ bản qua quá trình phát triển của các hiến pháp cũng phát triển từ
thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện tới mức hoàn thiện hơn.
Chúng ta có thể định nghĩa quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như sau:
- Quyền cơ bản là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn hành động, khả
năng đó được Nhà nước ghi nhận trong đạo luật có hiệu lực tối cao là Hiến pháp và
được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
- Nghĩa vụ cơ bản là sự tất yếu phải hành động của mỗi công dân vì lợi ích của
toàn thể Nhà nước và xã hội. Sự tất yếu đó được quy định trong Hiến pháp và được đảm
bảo thực hiện bằng mọi biện pháp kể cả biện pháp cưỡng chế.1
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, là những quyền, nghĩa vụ được Nhà nước
quy định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được hiến pháp quy định
cho tất cả mọi công dân, hoặc cho cả một tầng lớp, một giai cấp, không quy định cho
từng người trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Những quyền này thường được xuất
phát từ quyền con người: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền
được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.2 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân là cơ sở chủ yếu xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và
nghĩa vụ cụ thể của mỗi một công dân.
1.1.2 Các nguyên tắc của việc xây dựng chế định quyền nghĩa vụ của công dân
Bất kỳ một chế định pháp luật nào cũng được thiết lập dựa trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản đã được xác định trước, những nguyên tắc này thể hiện một cách rõ
nét, cụ thể, cô đọng bản chất của một chế độ nhà nước, chế độ xã hội. Chế định quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng không ngoại lệ, theo Hiến pháp thì chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xây dựng theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc tôn trọng quyền con người:
Nhà nước ta là nhà nước của dân do dân vì dân cho nên từ lúc thành lập luôn lấy
quyền con người làm mục tiêu đấu tranh và phấn đấu, quyền con người luôn được coi là
nguyên tắc trong mọi hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà nước ta . Tuy
nhiên, nguyên tắc này chưa được thể chế hóa một cách cụ thể ở các hiến pháp trước đây.

Các Hiến pháp trước mặc dù có đề cập đến vấn đề quyền con người nhưng chưa dùng
đến cụm từ “quyền con người” mãi đến Hiến pháp năm 1992 thì cụm từ quyền con
người mới được sử dụng.

1
2

Giáo trình Luật Hiến pháp đại học Cần Thơ, trang 63, 2004.
Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 11

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Với Hiến pháp năm 1946, những quyền cơ bản của con người được đề cập đến
trong mục B của chương II “nghĩa vụ và quyền lợi của công dân”, lần đầu tiên trong
lịch sử, địa vị pháp lí của công dân được xác lập trên cơ sở dân tộc giành được độc lập.
Có thể nói rằng, mặc dù ra đời trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng Hiến pháp năm 1946
đã ghi nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã giành được. Đó là một nội
dung cốt lõi của Hiến pháp dân chủ. Tuy đây là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta
nhưng đã ghi nhận và đảm bảo những quyền cơ bản của con người. Đó là sự bình đẳng
về quyền lợi trên mọi phương diện. Công dân việt nam không phân biệt giới tính, nghề
nghiệp, tôn giáo, dân tộc đều bình đẳng như nhau.
Hiến pháp năm 1959, Quyền cơ bản của con người được quy định tại Chương
III: “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp đầu tiên của thời kì quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về quyền con người. Tiếp tục kế

thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hiến pháp vì quyền con người,
Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung những quy định mới về quyền con người của công dân
như: Quyền khiếu nại tố cáo đối với bất cứ cơ quan nhà nước nào, quyền làm việc,
quyền nghỉ ngơi, quyền học tập, quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học,
nghệ thuật và tiến hành hoạt động văn hoá khác .
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và 1959, Hiến pháp năm 1980 một
mặt ghi nhận lại quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã quy định trong hai Hiến
pháp trước như: Quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân, quyền bầu cử và ứng
cử, quyền lao động, quyền nghỉ ngơi, quyền tự do tín ngưỡng, quyền khiếu nại và tố
cáo, quyền bất khả xâm phạm về thân thể3...Mặt khác quy định thêm về một số quyền
của công dân phù hợp với tình hình mới.
Tuy nhiên, một số quyền mới quy định trong Hiến pháp lại không phù hợp với
điều kiện thực tế của đất nước. Điển hình là việc quy định “chế độ học không phải trả
tiền”,4 không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta. Tương tự, viêc quy định
“chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền”,5 mang tính chủ quan duy ý chí,
không phù hợp với điều kiện kinh tế nước nhà, gây nhiều hậu quả tiêu cực trong xã
hội... Nhưng nhìn nhận một cách khách quan vấn đề thì những quy định mới này mang
những nét tiến bộ vượt trội thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến mọi mặt cuộc sống của
nhân dân. Đây chính là mô hình quyền con người trong xã hội tương lai: Xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
3

Chương 5, Hiến pháp năm 1980.

4

Theo quy định tại Điều 60, Hiến pháp năm 1980.
Quy định tại Điều 61, Hiến pháp năm 1980.

5


GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 12

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Cũng cần phải thấy rằng có một số quyền cơ bản của công dân được quy định
trong Hiến pháp năm 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh lịch sử mà chúng ta phải hạn
chế, không quy định trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp
năm 1992 đã giữ lại cơ bản những quyền của công dân gắn liền với quyền con người
của các bản Hiến pháp trước. Ví dụ: Quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được bầu
cử và ứng cử, quyền lao động của công dân, quyền tự do tín ngưỡng…
Trên cơ sở đó Hiến pháp nay đã bổ sung, sửa đổi những quy định để phù hợp và
đầy đủ hơn.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành một
điều nói về quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật”. Việc ghi nhận một điều nói về quyền con người với tư cách là một quy định
chung trước khi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm
1992 thể hiện một bước tiến mới về tư duy lý luận và sự kế thừa một cách sâu sắc giá trị
tiến bộ của tư duy chính trị - pháp lý của nhân loại. Phải thừa nhận rằng cá nhân con
người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, có những quyền cơ bản xác định.
Việc thừa nhận các quyền này đã được cộng đồng loài người ghi nhận trong nhiều công
ước quốc tế.
Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận khái niệm “quyền con người” với nội dung
chính trị pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người trong mối quan hệ

với một nhà nước nhất định, đồng thời là giá trị tổng hợp được cộng đồng quốc tế thừa
nhận.
Như vậy, cả bốn bản Hiến pháp vấn đề “quyền cơ bản của con người” đều được
ghi nhận nó gắn liền với những quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp sau là sự kế thừa
có chọn lọc, bổ sung những quyền của con người của Hiến pháp trước. Có thể nói vấn
đề đảm bảo những quyền cơ bản của con người là một trong những tư tưởng xuyên suốt
lịch sử lập hiến của nhà nước ta.
Tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam ý thức sâu sắc đó
là sự cam kết chính trị - pháp lý của Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ quyền con người
trước cộng đồng thế giới. Chính vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới ngày nay, đường lối
nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là đặt con người ở vị trí trung tâm của các
chính sách kinh tế, xã hội, trong đó, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người được xem là
nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này đã được thể hiện
rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Chăm lo cho con

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 13

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”.6
Nguyên tắc nhân đạo:
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu hoạt động của nhà
nước là mang lại hạn phúc cho tất cả mọi người. Vì vậy, các quy định về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân phải bảo đảm và nhằm mục đích thực hiện nội dung nhân đạo
trong các chính sách của nhà nước.

Nhằm mục đích tạo điều kiện và môi trường pháp lý để mọi công dân có thể phát
triển cá nhân một cách toàn diện về tài năng và sức khỏe nên các quy định của hiến
pháp về quyền và nghĩa vụ công dân luôn chú ý tới đặc điểm riêng của mỗi người về
sức khỏe, tuổi tác, hoàn cảnh.... Điều này thể hiện rõ bản chất nhân đạo của nhà nước và
góp phần làm giảm bớt đi nỗi đau và sự thiệt thòi của những công dân có hoàn cảnh đặc
biệt.7
Con người là trung tâm của mọi sự cố gắng và hoạt động của nhà nước và xã hội.
Các quy định Hiến pháp về quyền nghĩa vụ phải thể hiện tư tưởng tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân, nhân dân là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, phải đảm bảo
để tư tưởng trên được thực hiện trên cuộc sống thực tế.
Nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân:
Công dân bên cạnh việc sử dụng các quyền hiến định của mình thì cũng phải có
trách nhiệm gánh vác nghĩa vụ, bởi vì việc thực hiện nghĩa vụ của công dân sẽ tạo tiền
đề, nền tảng vật chất mà trên đó các quyền mới được thực thi.
Nhà nước đảm bảo cho công dân có những quyền lợi hợp pháp nhưng mặt khác
cũng đòi hỏi mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ mà pháp luật quy
định.
Vì vậy, mỗi người khi thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ của mình tức là bảo đảm cho
người khác thực hiện quyền lợi cho họ. Đối với mối quan hệ giữa Nhà nước và công
dân cũng vậy, Nhà nước chỉ có thể đảm bảo cho công dân quyền lợi hợp pháp của họ
chừng nào mà công dân và các tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ đối với Nhà
nước.
Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật:

6

Một số điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia như : Tuyên ngôn quốc tế về quyền con

người của Liên Hợp Quốc năm 1948; Tuyên bố cuối cùng của hội nghị quốc tế về quyền con người – Teheran năm
1968...

7

Theo quy định tại Điều 67 Hiến pháp Việt Nam năm 1992.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 14

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Mỗi công dân trong hoạt động thực hiện pháp luật, có quyền được đối xử giống
như những công dân khác trong hoàn cảnh, điều kiện giống nhau. Nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bản chất của bình đẳng thể hiện ở sự công
nhận giá trị bình đẳng của tất cả mọi người trong các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội,
chính trị, pháp luật, không chấp nhận phân biệt về giai cấp, tài sản, địa vị xã hội...
Về quyền bình đẳng, Hiến pháp còn quy định sự bình đẳng của các dân tộc cùng
sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.8 Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng. Nguyên tắc này được đảm bảo thì xã
hội mới có công bằng, pháp luật mới được thi hành nghiêm chỉnh.
Nguyên tắc về tính hiện thực của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Một trong những nguyên tắc quan trọng của chế định quyền và nghĩa vụ của
công dân là nguyên tắc tính hiện thực của quyền và nghĩa vụ của công dân. Nguyên
tắc này đòi hỏi các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản pháp
luật khác phải là quyền và nghĩa vụ có cơ sở, điều kiện thực hiện được trong thực tế
cuộc sống. Các quyền của công dân được quy định trong hiến pháp không phải chỉ
là những mong muốn tốt đẹp của nhà nước, mà nhà nước phải có trách nhiệm to lớn
trong việc bảo đảm cho những quyền ấy được thực hiện trên thực tế.

Khi các quy phạm pháp luật không mang tính hiện thực thì tự nó sẽ mất đi tính
nghiêm túc vốn có của nó, dẫn đến sự coi thường pháp luật, khi niềm tin đối với pháp
luật không còn thì sự tôn trọng dành cho Nhà nước và pháp luật cũng không còn, vì thế
để đảm bảo cho các quyền và nghãi vụ của công dân có thể thực hiện trong thực tế thì
yếu tố đầu tiên và quyết định đó là đảm bảo tính khả thi của nó.
1.1.3 Phân loại các quyền và nghĩa vụ công dân
Có nhiều nguyên tắc để phân loại quyền và nghĩa vụ công dân, tuy nhiên chúng
ta có thể phân loại các quyền và nghĩa vụ công dân một cách đơn giản thành các nhóm
sau:
1.1.3.1 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về kinh tế - xã hội
Trong các quyền và nghĩa vụ công dân thì các quyền về kinh tế - xã hội được xem
là có tính chất nền tảng và mang yếu tố quyết định. Có thể kể đến một vài quyền và
nghĩa vụ như:
Quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật:9 So với các Hiến pháp

8

Theo quy định tại Điều 5 Hiến pháp Việt Nam năm 1992.

9

Theo quy định tại Điều 57 Hiến Pháp Việt Nam năm 1992.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 15

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
trước, đây là một quy định hoàn toàn mới trong Hiến pháp 1992. Theo Hiến pháp
công dân có quyền kinh doanh, sản xuất dưới nhiều hình thức trong những ngành nghề
mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư bản tư nhân được phép phát triển trong các ngành
có lợi cho quốc tế dân sinh. Kinh tế cá thể được phát triển. Người lao động có thể góp
vốn, góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh trong các tổ chức kinh tế tập thể với quy mô
và mức độ tập thể hoá thích hợp. Tổ chức và cá nhân có quyền thành lập doanh nghiệp,
có thể được liện doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế khác, với doanh nghiệp Nhà
nước dưới nhiều hình thức. Hiến pháp xoá bỏ sự độc quyền kinh doanh của các tổ chức
kinh tế thuộc khu vực Nhà nước. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể liên
doanh với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân,
tổ chức không bị quốc hữu hoá. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật. Quyền tự do kinh doanh phải dùa trên cơ sở pháp luật.
Cùng với quyền tự do kinh doanh, hiến pháp quy định công dân có nghĩa vụ
đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.10
Quyền lao động: Lao động là một hoạt động quan trọng của con người, tạo ra của
cải, vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng hiệu quả
cao là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. Lao động là quyền và nghĩa vụ của
công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao
động. Nhà nước ban hành chính sách chế độ bảo hộ lao động, Nhà nước quy định thời
gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với
viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các
hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.11 Hiến pháp 1992 xác định lao
động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của công dân. Quyền lao động kết hợp chặt chẽ
với nghĩa vụ lao động. Đó là sự kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc sống xã hội với
nhu cầu của cuộc sống cá nhân.
Dựa trên những quy định Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ lao động của công
dân. Quốc hội kỳ họp thứ năm khóa IX đã thông qua Bộ luật lao động.
Bộ luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao
động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Tạo

điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy sáng
tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay, của người quản lý
lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ trong xã hội trong lao động, sản
xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động. Góp phần công nghiệp hóa,
10

Theo quy định tại Điều 80 Hiến Pháp Việt Nam 1992.

11

Theo quy định tại Điều 55, 56 Hiến Pháp Việt Nam 1992.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 16

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
hiện đại hóa đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nghĩa vụ lao động: Công dân có nghĩa vụ tuân thủ kỷ luật lao động, lao động
một cách nghiêm túc và thực hiện các quy tắc an toàn lao động. Nhà nước tạo việc làm
cho công dân thì Nhà nước cũng yêu cầu công dân thực hiện “nghĩa vụ tôn trọng và bảo
vệ tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng”.12
Quyền bình đẳng của nam nữ: Theo điều 63 Hiến pháp 1992, công dân nữ và
nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và gia đình.
Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm
phụ nữ. Lao động nữ và nam có việc làm như nhau thì hưởng lương ngang nhau.
Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người

làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp
theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình
độ về mọi mặt thực hiện tất cả các thiên chức, không ngừng phát huy vai trò của
mình trong xã hội. Nhà nước chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và
các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ
nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người
mẹ.
1.1.3.2 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về văn hóa
Con người là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của xã hội, vì vậy con người
phải được giáo dục, phải được trao dồi kiến thức. Do đó, các quyền và nghĩa vụ cơ bản
về văn hóa, giáo dục là một quyền cơ bản cực kỳ quan trọng.
Quyền học tập: Cũng như lao động, học tập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của
công dân. Ngay cả khi nước nhà mới dành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
quan tâm đến vấn đề nâng cao dân trí. Người xác định rằng học tập là quyền của mỗi
công dân của một Nhà nước độc lập, đồng thời nó cũng phải là bổn phận của mỗi
người. Người đã viết: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu;
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có
kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.13 Các Hiến pháp của nước ta trong lịch sử bao giờ cũng

12

Theo quy định tại Điều 78 Hiến Pháp Việt Nam 1992.

13

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập IV trang 44. NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000.

GVHD: Nguyễn Nam Phương


Trang 17

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
ghi nhận quyền học tập, coi nó là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.14
Việc quy định “chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc”15 và “chế độ học không
phải trả tiền”16 trong Hiến pháp 1980 không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội.
Nước ta còn nghèo do vậy việc thực hiện chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc như hiến
pháp 1980 là không thể thực hiện được. Và nếu thực hiện chế độ học không trả tiền cho
tất cả các cấp bậc, trình độ, thì Nhà nước không đủ khả năng trả lương cho đội ngũ thầy
cô giáo. Chế độ lương bổng thấp làm cho những người làm công tác giáo dục không
đáp ứng được một cuộc sống bình thường là một trong những nguyên nhân chủ yếu
làm cho nền giáo dục của chúng ta xuống cấp nhanh chóng. Khắc phục tình trạng nói
trên, Hiến pháp 1992 đã sửa đổi Hiến pháp 1980 bằng những quy định phù hợp với
những điều kiện kinh tế khách quan. Điều 59, Hiến pháp 1992 đã xác định chỉ có “bậc
tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” và “công dân có quyền học văn hoá và
học nghề bằng nhiều hình thức”. Ngoài việc học nghề và học văn hoá ở các trường Nhà
nước, công dân có thể học văn hoá, học nghề ở các trường dân lập, ở các trường bán
công... Với việc quy định này, số lượng người đi học hiện nay ở mọi cấp, mọi nơi đều
tăng lên gấp nhiều lần. Nhà nước đang tiến hành cải cách hệ thống giáo dục đào tạo cho
phù hợp cả nội dung lẫn hình thức với cơ chế mới, vừa nâng cao được dân trí, vừa tạo
ra được nhiều nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước.
1.1.3.3 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về tự do dân chủ và tự do cá nhân
Đây là những quyền rất quan trọng nhằm đảm bảo cho công dân có những điều
kiện cần thiết để tham gia một cách chủ động và tích cực vào các hoạt động của Nhà
nước và xã hội.
Quyền được thông tin: So với Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 ghi nhận

thêm một số quyền tự do mới của công dân. Một trong những quyền mới đó là quyền
được thông tin.17 Quyền được thông tin được hiểu là quyền được nhận tin và truyền
tin theo quy định của pháp luật. Ngày nay khi mà thông tin đã trở thành một yếu tố
vô cùng quan trọng trong các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội thì quyền
được thông tin trở thành một quyền quan trọng và không thể thiếu được trong các
quyền cơ bản của công dân. Rộng hơn là được tự do, thông tin còn được coi là một

14

Theo quy định tại các Điều 15 Hiến pháp Việt Nam năm 1946, Điều 33 Hiến pháp Việt Nam năm 1959,

Điều 60 Hiến pháp Việt Nam năm 1980.
Theo quy định tại Điều 60 Hiến pháp Việt Nam năm 1980.
16
Theo quy định tại Điều 61 Hiến pháp Việt Nam năm 1980.
17
Theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm1992.
15

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 18

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
quyền con người. Ngoài ta nó còn là một bảo đảm cho sự phát triển xã hội.
Quyền tự do tín ngưỡng: Quyền này cho phép mỗi công dân được tự do theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Quyền tự do tín ngưỡng được Hiến pháp quy định ở Điều 70. Khác với các Hiến pháp
trước đây, Hiến pháp 1992 quy định chính xác hơn về hai khái niệm tín ngưỡng và tôn
giáo. Hai hiện tượng này có cái chung và cái riêng. Tín ngưỡng chỉ trở thành tôn giáo
khi có giáo lý, giáo luật, giáo hội. Việc các gia đình, dòng họ thờ cúng tổ tiên chỉ là
một tín ngưỡng. Việc nhân dân lập đền, miếu, đình để thờ cúng những người có công
với làng, nước, cũng chỉ là tín ngưỡng chứ chưa là một tôn giáo. Vì vậy Hiến pháp quy
định cả tôn giáo và tín ngưỡng đều được Nhà nước bảo hộ. Hiến pháp một mặt quy
định không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, mặt khác quy định không ai được
lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: trong số những quyền của con người, thì
quyền bất khả xâm phạm con người là một quyền quan trọng bậc nhất. Đây không
những là quyền công dân, mà còn là quyền con người. Mọi chế độ chính trị dân chủ
hiện nay đều phấn đấu để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của con người.
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam giữ phải đúng pháp luật.”18
Nâng cao hơn một bước nữa, Hiến pháp quy định những bảo đảm cho việc
thực hiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Nhà nước nghiêm cấm
mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án có
hiệu lực pháp luật.
- Quyền suy đoán vô tội: Việc tước đi cuộc sống, tự do và tài sản của con người
theo quy định này của Hiến pháp phải tuân theo những thủ tục pháp lý nghiêm ngặt
được quy định trong luật tố tụng hình sự rõ rằng và đúng đắn là một trong những đòi
hỏi quan trọng của Hiến pháp Việt Nam.Với mục đích đề cao hơn nữa việc bảo vệ
quyền tự do dân chủ và quyền tự do cá nhân cho công dân, các nhà lập pháp đã đưa vào
trong đạo luật cơ bản của Nhà nước quy định “không ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt,

bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật, có quyền được bồi thường thiệt hại về vật
18

Theo quy định tại Điều 71 Hiến pháp Việt Nam 1992.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 19

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”19. Đây là một bước phát
triển mới của Hiến pháp 1992. Nguyên tắc suy đoán vô tội được Nhà nước ta cam kết
thực hiện với sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị ngày 24/9/1982. Trước đây vấn đề trên chỉ được thể chế hóa trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 do Quốc hội thông qua ngày 28-12-1985.( Điều 10 Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988).
1.1.3.4 Các quyền và nghĩa vụ cơ bản về chính trị
Chính trị là một hoạt động quan trọng của xã hội, nó luôn tồn tại song song cùng
các lĩnh vực khác kể từ khi nhà nước xuất hiện. Trong các quyền và nghĩa vụ công dân
thì các quyền và nghĩa vụ cơ bản về chính trị luôn chiếm một vai trò và vị trí hết sức
quan trọng, sự quan trọng này được thể hiện ở chỗ, những quyền và nghĩa vụ về chính
trị được quy định trong tất cá các Hiến pháp, không loại trừ là hiến pháp của chế độ tư
sản hay chế độ xã hội chủ nghĩa
Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc: mối quan hệ giữa công dân
với nhà nước là mối quan hệ giữa một bên là công dân - người chủ quyền lực, một bên
là Nhà nước - Công cụ thực hiện quyền lực Nhà nước nhân dân. Mối quan hệ Nhà nước

- công dân là mối quan hệ qua lại thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Song
song với các quyền của công dân là nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Để đảm bảo thực hiện quyền lực nhân dân, Hiến pháp quy định: “Công dân phải trung
thành với Tổ quốc”,20 “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của
công dân”.21 Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc không chỉ là tham gia quân đội mà còn là nghĩa
tội nặng nhất. Như vậy, nghĩa vụ trung thành bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý mà còn là nghĩa vụ mang tính đạo đức.
Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật: Công dân có nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ an ninh, giữ gìn bí
mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước: Quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội
là một trong những quyền chính trị quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho công
dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện phương châm mọi
công việc của Nhà nước của xã hội “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của công dân được thể hiện bằng nhiều
19
20
21

Theo quy định tại Điều 72 Hiến pháp Việt Nam 1992.
Theo quy định tại Điều 76 Hiến Pháp Việt Nam 1992.
Theo quy định tại Điều 77 Hiến Pháp Việt Nam 1992.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 20

SVTH: Đặng Hoàng Minh



Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
hình thức khác nhau: Công dân có quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực
Nhà nước; đóng góp ý kiến xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục...
của đất nước tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các tổ chức xã hội...
Quyền bầu cử và ứng cử: Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực
Nhà nước là một quyền chính trị cực kỳ quan trọng của công dân. Nhờ quyền bầu cử
mà các công dân có thể lựa chọn những người ưu tú nhất, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, và quyền lợi của mình vào các cơ quan quyền lực Nhà nước, giải quyết những
vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Chính ở quyền này, nhân dân lao động thực hiện
quyền lực của mình, thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình.
Theo Điều 54 Hiến pháp 1992 quy định: Mọi công dân không phân biệt dân tộc,
nam nữ, thành phần, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn
cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử
vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật. Cụ thể hóa
điều 54 Hiến pháp 1992, Nhà nước ta đã ban hành Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
ngày 18-4-1992 (thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VII) thay thế cho Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 18-12-1980. Theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội ban
hành ngày 18-4-1992 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ban hành ngày 14-91994, những người không có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân
dân là những người mất trí và những người bị tòa án tước quyền bầu cử và ứng cử.
Bên cạnh việc có quyền tham gia trực tiếp vào các công việc quản lý Nhà nước,
công dân có quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan
Nhà nước. Đây là một quyền rất quan trọng, bảo đảm cho công dân khả năng bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình, đồng thời phát hiện ra những sai phạm trong hoạt động
của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, giúp cho việc chỉnh đốn, cải tiến hoạt động
của các cơ quan này. Thông qua quyền này mọi công dân góp phần tích cực vào các
hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Sự giải quyết kịp thời việc khiếu nại tố cáo của
công dân có tác dụng to lớn vào việc chỉnh đốn, cải tiến tổ chức và hoạt động của các
cơ quan Nhà nước, giúp cho các cơ quan hoạt động hiệu quả ngày càng cao hơn. Để
ngăn chặn sự vi phạm quyền khiếu nại tố cáo của công dân, Hiến pháp nêu rõ, khiếu

nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước giải quyết trong thời gian luật định.
Liên quan mật thiết đến quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan Nhà nước của
công dân là các quyền tự do dân chủ của công dân như quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do hội họp, tự do biểu tình. Đây là những quyền rất quan trọng nhằm bảo
đảm cho công dân có những điều kiện cần thiết để tham gia vào các hoạt động của Nhà

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 21

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
nước và xã hội. Công dân có quyền tự do ngôn luận là đem quyền tự do phát biểu ý
kiến bằng phát biểu trực tiếp tại các cuộc họp hoặc gửi văn bản tới các cơ quan có thẩm
quyền.
Quyền tự do báo chí là thông qua báo chí, công dân có quyền thể hiện quan điệm
của mình về các vấn đề, ủng hộ cái đúng, phê phán cái sai, góp ý với các cơ quan Nhà
nước, các tc xã hội thông qua báo chí, để các cơ quan hoạt động ngày càng có hiệu quả
hơn. Quyền tự do hội họp được mọi công dân sử dụng để thảo luận, góp ý kiến về các
vấn đề chung của xã hội, của Nhà nước. Quyền hội họp còn được sử dụng để thảo luận
giải quyết công việc thuộc nội bộ một cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, khu dân cư.
Quyền lập hội cũng là một quyền quan trọng của công dân. Quyền lập hội là
quyền không thể thiếu được của công dân. Đó là quyền thành lập hoặc gia nhập các tổ
chức đoàn thể như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…
Biểu tình là một hình thức thể hiện thái độ chính trị chung của công dân. Nhà
nước tuyên bố quyền này của công dân là thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước.
Việc sử dụng quyền này phải phù hợp với lợi ích chung và theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy biểu tình là quyền hiến định, được ghi nhận trong Hiến

pháp từ lâu nhưng đến hiện nay vẫn chưa có văn bản nào của Nhà nước hướng dẫn một
cách chi tiết hơn về biểu tình, điều này làm cho người dân gặp khó khăn trong việc thực
hiện quyền biểu tình, Nhà nước cũng gặp phải khó khăn trong việc quản lý việc biểu
tình. Để hiểu rõ hơn về quyền Hiến đinh này, người viết xin được phân tích thêm về
biểu tình trên cơ sở đưa ra các khái niệm, từ đó đưa ra sự phân biệt giữa biểu tình với
một số hoạt động khác, đồng thời khẳng định sự cần thiết của việc phải có luật biểu
tình, trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất để góp phần giúp luật biểu tình được hoàn thiện
hơn.
1.2 BIỂU TÌNH
1.2.1 Nguồn gốc của quyền biểu tình
Xét về nguồn gốc lịch sử, biểu tình xuất hiện cùng với trào lưu dân chủ hóa ở các
nước phương Tây, trước hết là ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Quyền biểu tình thật ra không phải
là một quyền riêng biệt mà được bao hàm trong quyền tự do hội họp (freedom of
assembly, liberté de réunion) và là hình thức cao nhất của tự do hội họp. Nói là hình
thức cao nhất vì khác với các cuộc hội họp thông thường, biểu tình là hội họp ngoài trời,
ở nơi công cộng và thường kèm theo khẩu hiệu, biểu ngữ, gắn với tuần hành.
Tự do hội họp xuất hiện ngay từ buổi đầu của Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, Bản
Tuyên ngôn về Quyền Con người và Quyền Công dân (Déclaration des Droits de
l’Homme et du Citoyen) ngày 26-8-1789 lại không có điều khoản nào đề cập đến tự do

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 22

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
hội họp. Bằng đạo luật ngày 21-8-1790, Quốc hội lập hiến (Assemblée constituante)
thừa nhận rằng mọi công dân “có quyền hội họp một cách ôn hòa’. Một năm sau đó,

quyền tự do hội họp đã được đưa vào Hiến pháp ngày 3-9-1791 của nước Pháp. Trong
số các quyền tự nhiên và dân sự (droits naturels et civils) mà bản Hiến pháp 1791 của
nước Pháp cam kết bảo đảm, ta thấy có ghi: “Tự do cho các công dân được tụ tập một
cách ôn hòa và không vũ khí, với điều kiện đáp ứng đầy đủ các luật lệ của cảnh sát”.
Mặc dù được Hiến pháp công nhận, quyền tự do hội họp ở Pháp đã phải trải qua
nhiều giai đoạn gặp khó khăn trong khi thực hiện, thậm chí có lúc còn bị cấm đoán. Mãi
đến khi nền Đệ tam Cộng hòa (Troisième République) được thiết lập, quyền tự do hội
họp mới được bảo đảm vững chắc bằng một đạo luật. Luật về tự do hội họp (Loi sur la
liberté de réunion) được ban hành vào ngày 30-6-1881. Điều thứ nhất của Luật này quy
định: “Các cuộc hội họp công cộng hoàn toàn tự do. Chúng có thể diễn ra không cần có
sự cho phép trước đó…”. Mặc dù cho phép người dân được tự do hội họp không cần
phải xin giấy phép, Luật này đòi hỏi phải có sự khai báo (déclaration) trước khi hội
họp. Mãi đến năm 1907, việc khai báo mới bị hủy bỏ.
Tại Hoa Kỳ, quyền tự do hội họp (freedom of assembly) chưa xuất hiện trong
Bản Tuyên ngôn Độc lập (U.S. Declaration of Independence) năm 1776 cũng như trong
bản văn chính của Hiến pháp Hoa Kỳ (được thông qua năm 1787 và được phê chuẩn
trên quy mô toàn quốc vào năm 1788). Nhưng đến năm 1791, quyền tự do hội họp đã
được các nhà lập pháp đưa vào 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ – thường
được gọi chung là Đạo luật về Quyền (Bill of Rights).
Tu chính án số 1 (1st Amendment) có nội dung như sau: “Quốc hội sẽ không làm
ra bất cứ đạo luật nào nhằm chính thống hóa một tôn giáo hay ngăn cấm việc tự do
thực hành của một tôn giáo, (cũng không làm ra bất cứ đạo luật nào) để hạn chế quyền
tự do ngôn luận, hay tự do báo chí, hay quyền của người dân được hội họp một cách ôn
hòa và được kiến nghị lên chính quyền để sửa chữa những điều gây bất bình.”
Cũng dựa trên tinh thần đó, vào năm 1948, điều 20 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế
về Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) của Liên Hiệp Quốc ghi rõ:
“(1) Mọi người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình (2) Không ai có
thể bị bắt buộc phải gia nhập vào một hiệp hội nào.”
Ngày nay, ở bất cứ quốc gia dân chủ nào, quyền tự do hội họp cũng là một trong
những quyền căn bản của người công dân được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật.

Tuy nhiên, khác với các cuộc hội họp bình thường, biểu tình là hội họp ngoài trời, ở nơi
công cộng cho nên luật pháp thường quy định những giới hạn để tránh gây trở ngại đến
trật tự công cộng, an ninh chung của xã hội.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 23

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Có thể lấy ví dụ từ nước Đức. Điều 8 của Luật cơ bản (Basic Law, Grundgesetz,
tức Hiến pháp của nước Đức) quy định công dân có quyền hội họp một cách ôn hòa và
không có vũ khí, không cần báo trước hay xin phép trước. “Đối với các cuộc hội họp
ngoài trời (open-air meetings), quyền này có thể bị hạn chế hoặc phải dựa theo một đạo
luật”. Luật hội họp (Assembly Law) của nước Đức quy định: “bất cứ người nào có kế
hoạch tổ chức một cuộc họp ngoài trời đều phải đăng ký trước và phải khai báo về bản
chất của sự kiện (event), phải ghi rõ tên của người chịu trách nhiệm lãnh đạo cuộc biểu
tình hay mít-tinh. Cơ quan có thẩm quyền có thể cho phép sự kiện được diễn ra theo dự
kiến hay ngược lại, ra lệnh cấm nếu xét thấy sự kiện này có thể gây nguy hiểm tức thời
cho an ninh hay trật tự công cộng. Trong trường hợp bị cấm hội họp ngoài trời, những
người dự định tổ chức biểu tình có thể kiện lên Tòa án Hành chính cấp bang và sau đó,
có thể kháng cáo lên Tòa án cấp trên (Tòa án Hành chính Tối cao cấp bang hay Tòa án
Hiến pháp Liên bang).22
Có thể thấy rằng biểu tình đã được ghi nhận rất sớm trong pháp luật của nước
ngoài, tuy nhiên để tìm hiểu rõ hơn khái niệm biểu tình, người viết xin được nêu lên và
phân tích một số khái niệm về biểu tình trên thế giới.
1.2.2 Khái niệm quyền biểu tình
Biểu tình là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa

về biểu tình thật sự thống nhất. Những nước khác nhau có những quan điểm về biểu tình
cũng khác nhau. Luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận quyền biểu tình nhưng hầu hết
lại không định nghĩa thế nào là biểu tình.
Theo Hán-Việt Từ điển Đào Duy Anh (năm 1931) giải thích biểu tình (
) như
sau: “Dân chúng tụ họp nhau để biểu thị ẩn tình và ý nguyện (meeting)”. Cách giải thích
này giúp ta hiểu một cách chính xác ý nghĩa của khái niệm biểu tình, thế nhưng tác giả
đã có sự nhầm lẫn khi dùng chữ meeting để so sánh, bởi vì từ này không tương đương
với từ biểu tình.
Từ điển Larousse giải thích meeting (một từ gốc Anh) là “cuộc hội họp công
cộng do một đảng, một công đoàn,… tổ chức để thông báo hay thảo luận về một chủ đề
chính trị hay xã hội” (Le Petit Larousse illustré 2011). Như vậy, chữ meeting dùng để
chỉ một cuộc họp chứ không hẳn có nghĩa là biểu tình.

22

Mai
Thái
Lĩnh:
Biểu
tình

hội

dân
/>
sự,

s&catid=58:vietnam&Itemid=513, [ truy cập ngày 18/02/2012].


GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 24

SVTH: Đặng Hoàng Minh


Biểu tình trong Hiến Pháp Việt Nam – Lý luận và kiến nghị
Trong tiếng Pháp, “biểu tình” là manifestation. Động từ manisfester có nghĩa là
bày tỏ, biểu lộ, bộc lộ. Trong tiếng Anh, “biểu tình” là demonstration, động
từ demonstrate vừa có nghĩa là “trình bày hay chứng minh điều gì đó một cách rõ ràng”
vừa có nghĩa là “phản đối hay ủng hộ một điều gì đó ở chỗ công cộng cùng với nhiều
người khác” (Longman Dictionary of Contemporary English).
Theo bách khoa toàn thư Bắc Mỹ (Encyclopaedia Americana) thì biểu tình được
hiểu “là hành động bất bạo lực của một nhóm người, nhằm mục đích đưa đến cộng
đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã hội”.23 Định
nghĩa này đã nêu được ba yếu tố hợp thành đó là. Thứ nhất: hành động bất bạo lực. Thứ
hai: sự tham gia của một nhóm người. Thứ ba: mục đích của biểu tình nhằm đưa đến
cộng đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã hội.
Nói một cách dễ hiểu, biểu tình là “bày tỏ thái độ”, biểu tình là cách biểu lộ sự
ủng hộ hay phản đối công khai của một số đông người ở chốn công cộng nhằm để ủng
hộ hay phản đối một điều gì đó. Người dân Việt biểu tình trong những ngày tháng 6
năm 2011 là nhằm để bày tỏ thái độ phẫn nộ, phản đối trước hành động vi phạm chủ
quyền của nhà cầm quyền Trung Quốc. Hay cuộc biểu tình ngày 19 - 4 -2010 của người
dân New York. “Cuộc biểu tình do Chiến dịch Hỗ trợ và trách nhiệm với các nạn nhân
chất độc da cam dioxin Việt Nam phát động đã diễn ra tại công viên Prospect, nơi diễn
ra sự kiện chạy vì nước sạch của công ty Dow tổ chức. Những người tổ chức biểu tình
cho rằng công ty Dow đang lợi dụng các hoạt động như: Chạy vì nước sạch để che giấu
hành vi gây ô nhiễm nguồn nước và phá hủy hệ sinh thái ở Việt Nam và nhiều nơi
khác”.24

Sự phân biệt giữa ủng hộ hay phản đối cũng chỉ ở mức tương đối vì nhiều cuộc
biểu tình có sự đan xen giữa hai yếu tố này. Thông thường, một cuộc biểu tình ủng hộ ai
đó thì đồng thời cũng là một biểu hiện cho sự phản đối với bên kia. Điển hình trong
cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế
giới tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Những
cuộc biểu tình như thế này không thể nói chỉ có sự phản đối. Thông qua sự không đồng
tình với nhà cầm quyền Mỹ, người biểu tình đã trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự tụ họp đông người không thể hiện sự
phản đối hoặc ủng hộ thì không là biểu tình. Có thể đó là sự tụ họp, bàn bạc, thảo luận
23

Biểu tình và những điều cần biết về quyền con người: [truy cập

ngày 25/03/2012].
24

TTXVN/Vietnam+: Người dân Mỹ biểu tình ủng hộ nạn nhân da cam, Báo điện tử Vnexpress, 2010,

[truy cập ngày 21/01/2012].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 25

SVTH: Đặng Hoàng Minh


×