Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM sát của hội ĐỒNG NHÂN dân TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.34 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)
Đề tài:

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Nam Phương
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Vủ Thị Diễm My
MSSV: 5095439
Lớp: Luật Hành chính – K35

Cần Thơ, tháng 5 năm 2013


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, vị trí của HĐND các cấp trong hệ thống
tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định. Trong bộ máy Nhà nước, HĐND


vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các
cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu
bức xúc hiện nay.
HĐND có hai chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương;
chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Trong hai chức năng đó, giám
sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản
để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ X “Nâng cao chất lượng của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong
phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân”.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bổ sung thêm một chương mới quy
định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của HĐND. Từ khi Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát của HĐND
có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây dựng được chương trình kế hoạch giám sát,
tổ chức các Đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có sự phối hợp với các
cấp, các ngành…Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu khắc phục tính hình
thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn chế. Ví
dụ như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thực sự khoa học,
các kết luận giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận
đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát lại đâu vào đó, kỹ năng giám sát của đại biểu
HĐND còn yếu… Cho nên hoạt động giám sát của HĐND cho tới nay vẫn còn nhiều vấn
đề bỏ ngỏ, đáng bàn. Trên cơ sở đó người viết quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình. Trong quá trình nghiên cứu nội dung của đề tài, trên cơ sở
GVHD: Nguyễn Nam Phương


1

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

tham khảo có chọn lọc, người viết xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về cơ sở lý luận cũng như
thực tiễn hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Trên cơ sở đó nêu lên một số giải
pháp nâng sao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND.
Nhiệm vụ: Nêu lên và phân tích thực trạng về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân trong thực tiễn hiện nay và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân.
3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Từ đó đánh giá về thực trạng giám sát của Hội
đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay, những thành tựu đạt được từ hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân các cấp và những vấn đề còn tồn tại, đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu, trong luận văn người viết đã sử dụng
phương pháp phân tích và tổng hợp, nghiên cứu lý luận kết hợp với nghiên cứu thực tiễn,
rút ra những nhận xét khái quát từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện những quy định
pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội

đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay” bên cạnh lời nói đầu , kết luận và tài liệu tham
khảo thì nội dung luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Hội đồng nhân dân và hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân
Chương 2: Cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
GVHD: Nguyễn Nam Phương

2

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.1.1 Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND đã khẳng định được vị trí, vai
trò, trách nhiệm to lớn của mình. HĐND thực sự trở thành diễn đàn để nhân dân lao động
thực hiện quyền làm chủ của Nhà nước và xã hội. Sự hiện diện của HĐND dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã thể hiện được tính chất giai cấp sâu sắc, tính nhân dân thực sự của Nhà
nước, tạo nên niềm tin vững chắc cho nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì
dân.1
Điều 119 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 1 Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Do

nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà
nước cấp trên”.
Trong quá trình xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước, tính chất đại diện của
HĐND ngày càng thể hiện sâu sắc. Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất do cử tri
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.2 Đại biểu HĐND là
những người tiêu biểu, ưu tú, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của nhân dân. Tính đại
diện của HĐND về mặt hình thức thể hiện rõ nét nhất ở chỗ HĐND có cơ cấu đại biểu
thuộc mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội. Điều đó có nghĩa, HĐND không đại diện cho
một Đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân địa phương; thành phần
trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân. Như vậy, tính chất đại diện của HĐND
khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân cả nước.

1

Trương Thị Hồng Hà: Cơ sở pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân và thực hiện pháp luật về
giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh – Thực trạng và vấn đề đặt ra, Hội thảo Hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và vai trò của các Tổ chức xã hội trong công tác giám sát năm 2012.
2
Điều 1, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

3

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay


HĐND thể hiện tính chất quyền lực của mình trên các mặt sau:
Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức
vụ trong tổ chức của mình (Thường trực HĐND, các Ban của HĐND);
Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức
danh của UBND (là cơ quan chấp hành của mình, là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương);3
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban hành các Nghị quyết
để quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.4
HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Với vị trí, tính chất được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 thì HĐND vừa là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, vừa là chủ thể
quyền lực, đại diện cho nhân dân địa phương. Chính vị trí, tính chất này đã quyết định
chức năng của HĐND cấp tỉnh.
1.1.2 Chức năng của Hội đồng nhân dân
Với vị trí, vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực của HĐND xuất phát từ quyền
lực của Quốc hội. Do vậy Quốc hội (thông qua Hiến pháp) trao cho HĐND thực hiện
chức năng:
Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như quyết định chủ trương,
biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với
cả nước.
Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực
hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân
địa phương.5
3


Điều 17, 25 và 34, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.
Điều 10, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.
5
Điều 1, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.
4

GVHD: Nguyễn Nam Phương

4

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Trước hết chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động giám sát. Các quyết định của HĐND về các vấn đề kinh tế-xã hội,
an ninh quốc phòng…được thể hiện dưới hình thức Nghị quyết. Nghị quyết của HĐND
chính là căn cứ pháp lý để các cơ quan Nhà nước (đặc biệt là Uỷ ban nhân dân) tổ chức
triển khai thực hiện trong thực tế. Để khẳng định các Nghị quyết của HĐND có sát với
thực tế hay không? Có được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân chấp hành
nghiêm chỉnh hay không? thì hoạt động giám sát đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông
qua giám sát, HĐND kịp thời phát hiện cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm pháp luật, Nghị quyết của HĐND…trên cơ sở đó có biện pháp xử lý kịp thời,
nghiêm minh. Đồng thời thông qua giám sát HĐND kịp thời điều chỉnh Nghị quyết cho
phù hợp với thực tiễn. Quá trình giám sát thuờng xuyên tình hình thực hiện các Nghị
quyết của HĐND giúp HĐND đôn đốc, kiểm tra qua đó yêu cầu các chủ thể thực hiện
đúng nội dung, yêu cầu đã được ghi nhận trong Nghị quyết.
1.2 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN

1.2.1 Khái niệm giám sát
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giám sát:
Theo Từ điển Tiếng Việt, cách hiểu chung nhất, giám sát là “theo dõi, kiểm tra
việc thực thi nhiệm vụ”.6
Theo Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn trong Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính
thì giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên
tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động của
đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả
từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh”.7
Còn TS. Đặng Đình Tân cho rằng giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động của
một chủ thể quyền lực mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động
bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của các tổ chức quyền lực
chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế nhằm giới han quyền lực, đảm bảo cho
pháp luật được tuân thủ nghiêm minh”. Quan điểm này gần giống với quan điểm của Mai
Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn, nhưng bổ sung thêm một số điểm về chủ thể có quyền lực.8

6
7

Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1998, tr. 728.
Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn: Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002, tr. 261.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

5

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay


Ban Công tác lập pháp thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (hiện Ban này đã được
giải thể) có đưa ra khái niệm “giám sát dưới góc độ ngôn ngữ thông thường được hiểu là:
việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác qua đó có được
nhân định về hoạt động của chủ thể này”.9
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm giám sát được giải thích:
“Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”.10
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 tại các điều 1, 29, 30 và 31 cũng không định
nghĩa trực tiếp giám sát là gì. Tuy nhiên, có thể hiểu, trước tiên, giám sát là một chức
năng luật định, tức là gắn với quyền hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được
bảo đảm bởi một số hình thức hoạt động và công cụ, cách làm đặc thù của HĐND.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau,
nhưng các quan niệm trên đều đề cập tới nội dung cơ bản: giám sát là việc theo dõi, xem
xét, kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực hiện chưa đúng những điều đã
quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được
những mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng
và đầy đủ.
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là trả lời cho câu hỏi ai là người
có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá về một việc đã thực hiện
đúng hoặc sai những điều đã quy định.11
Tóm lại, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp dụng của
nó rất rộng, muốn có khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát bao giờ cũng gắn với một
chủ thể xác định, chẳng hạn như giám sát của Quốc hội, giám sát của HĐND, giám sát
của nhân dân.
8

Đặng Đình Tân (Chủ biên): Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính

trị Quốc gia, 2006, tr. 14 – 15.
9
Ban Công tác lập pháp: Báo cáo khoa học đề tài đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng quy trình giám sát của
Quốc hội, các cơ quan Quốc hội và Đại biểu Quốc hội, Hà Nội, 2006, tr.14.
10
Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.
11

Lê Nhị: Phân biệt quyền giám sát với quyền hành pháp trong bộ máy Nhà nước, Báo điện tử Phú Yên,

[truy cập
ngày 19/02/2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

6

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Căn cứ vào yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những quy định của
Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật khác,
Hoạt động giám sát của HĐND có thể hiểu như sau: Giám sát của HĐND là tổng thể các
hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các ban của HĐND và các Đại biểu HĐND
nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, pháp luật từ đó đưa ra các kết luận và phương án
xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.

1.2.2 Đặc điểm chủ thể và đối tượng tham gia trong hoạt động giám sát
1.2.2.1 Đặc điểm chủ thể giám sát
Theo quy định tại Điều 57 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực HĐND, giám
sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện hoạt động giám sát bao gồm : HĐND (một tập thể các
đại biểu HĐND tại kỳ họp), Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, đại biểu HĐND.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, Thường trực HĐND chưa phải là
chủ thể của hoạt động giám sát, mới chỉ là người đôn đốc, kiểm tra các hoạt động của
UBND cùng cấp cũng như vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở địa
phương.12 Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể giám sát của HĐND
ngày càng được mở rộng và quy định chặt chẽ hơn.
1.2.2.2 Đặc điểm đối tượng giám sát
Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, đối tượng
giám sát của HĐND bao gồm:
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp (Điều 58)
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ
quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp
( Khoản 2 Điều 58)
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
dân ở địa phương ( Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55).
12

Điều 36, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

7

SVTH: Vủ Thị Diễm My



Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND
rất phong phú và đa dạng bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, đơn vị kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương. Hiện nay, pháp luật
không phân cấp giám sát giữa HĐND các cấp, điều đó không có nghĩa là HĐND mỗi cấp
thực hiện thẩm quyền giám sát như nhau đối với mọi hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát. Đối tượng, phạm vi, mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và
sự phân cấp, tính chất của mối quan hệ giữa HĐND với đối tượng chịu sự giám sát.
Chẳng hạn với UBND do mối quan hệ chấp hành của cơ quan này với HĐND mà phạm
vi, mức độ giám sát của HĐND rất lớn bao trùm mọi hoạt động của UBND và khả năng
xử lý lớn đối với quyết định, hành vi và cả nhân sự của UBND. Nhưng với TAND,
VKSND thì hoạt động giám sát của HĐND chủ yếu ở việc xem xét tính pháp chế của các
bản án đã được giải quyết. Kết quả giám sát của HĐND với Tòa án chỉ có thể là đề nghị.
Nếu có hậu quả pháp lý nào đó đối với Tòa án chỉ là hậu quả gián tiếp không xuất phát từ
thẩm quyền của HĐND.
1.2.3 Mục đích giám sát của Hội đồng nhân dân
Bất cứ hoạt động có ý chí nào của con người cũng đều mang tính mục đích rõ rệt
và việc xác định một cách chính xác những mục đích cần đạt được của hoạt động là điều
quan trọng nhất vì đó là điều kiện và cơ sở đầu tiên để định hướng tất cả.

 Nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát phải
thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật, nghị quyết của
HĐND. Mọi hoạt động vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều phải được xử lý nghiêm
minh.
Để thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước đã phân công và phân
cấp hoạt động quản lý nhà nước cho những cơ quan trong bộ máy nhà nước những chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Những cơ quan này

sử dụng quyền lực nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nhằm đạt tới nhiệm vụ
chính trị mà Nhà nước đã xác định trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế xã hội.
Nhiệm vụ của những cơ quan này là phải tuyệt đối chấp hành và tuân theo những
quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng và tác động của những lợi ích cá nhân hoặc lợi ích cục bộ của các
nhóm lợi ích khác nhau hoặc xung đột với nhau trong một cơ quan, một tổ chức hoặc
thậm chí một nhóm cộng đồng xã hội mà những cá nhân, cơ quan, tổ chức thực thi quyền
lực Nhà nước có xu hướng lạm dụng quyền lực, vi phạm những quy định của Hiến pháp
GVHD: Nguyễn Nam Phương

8

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

và pháp luật để đạt tới những lợi ích của cá nhân hoặc cục bộ. Chính vì vậy, trong hoạt
động quản lý nhà nước từ xưa tới nay đều phải có những quy định của pháp luật, những
thiết chế và tổ chức để đặt những cơ quan nhà nước luôn luôn nằm trong sự kiểm tra,
giám sát của Nhà nước và của nhân dân nhằm mục đích chống lại xu hướng lạm dụng
quyền lực Nhà nước, chống lại những hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo
cho những cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công vụ phải tuân theo những quy
định của pháp luật.
Từ đó có thể nhận thấy người làm công tác giám sát không phải chỉ có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cao mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, vì những kết
luận của hoạt động giám sát có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích, uy
tín của cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát. Nếu có một sơ suất dù nhỏ trong
quá trình tiến hành hoạt động giám sát thì cá nhân và cơ quan chịu sự giám sát vốn là
những cơ quan và những con người rất thành thạo trong việc sử dụng quyền lực Nhà

nước như một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội sẽ phản ứng lại cơ quan giám sát hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của họ.

 Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa hợp lý trong tổ chức và hoạt động
quản lý của các cơ quan chịu sự giám sát và kiến nghị những biện pháp khắc phục một
cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.
Với những quy định của Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước đã xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước và xác định cả những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Tuy nhiên, cùng với sự vận động và
phát triển của kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn thực tiễn hoạt động quản lý của Nhà
nước có nhu cầu phải luôn luôn tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển cao của hoạt động quản lý. Những
quy định của pháp luật thường chậm hơn những biến đổi và đòi hỏi của hoạt động thực
tiễn, do đó ngay cả những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước cũng cần được sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời.
Hoạt động giám sát không chỉ nhằm phát hiện những hành vi vi phạm Hiến pháp
và pháp luật của các cơ quan chịu sự giám sát mà còn nhằm phát hiện những điểm chưa
hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát và kiến nghị
những giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó. Kết quả
của hoạt động giám sát là một trong những nguồn thông tin quan trọng cung cấp căn cứ

GVHD: Nguyễn Nam Phương

9

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay


thực tiễn cho việc sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.

 Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa phù hợp với thực tiễn đời sống xã
hội trong những quy định của pháp luật và kiến nghị những biện pháp khắc phục một
cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.
Mặc dù khi xây dựng các văn bản luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật
khác, các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng luật đã
tuân theo quy trình rất nghiêm ngặt và khoa học, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn những
dự tính đó mới được kiểm nghiệm và bộc lộ những điểm chưa phù hợp hoặc chưa đáp
ứng đúng nhu cầu của đời sống xã hội cần phải được phát hiện và bổ sung kịp thời.
Những kết quả của hoạt động giám sát đặc biệt là những kết quả trong việc giám
sát việc thi hành các văn bản pháp luật là một trong những nguồn thông tin quan trọng,
cung cấp cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội ở Việt Nam giúp cho các nhà hoạch định
chính sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo ở
tất cả các khâu: từ xác định nhu cầu lập pháp tức là xác định sự cần thiết phải ban hành
một văn bản luật đến việc xác định những mục đích cần đạt được của dự án và tính khả
thi của dự án luật đó.
Như vậy, giám sát không chỉ nhằm một mục đích duy nhất là theo dõi giám sát,
xem xét đánh giá tính hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt động của các đối tượng chịu sự
giám sát mà hoạt động giám sát cùng một lúc có thể đem lại nhiều kết quả phục vụ cho
công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật, phục vụ cho việc không ngừng
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
1.2.4 Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân
1.2.4.1 Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Đối với các cơ quan Nhà nước này, giám sát của HĐND được thực hiện thông qua
việc: Tại các kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, UBND, TAND và
VKSND phải báo cáo công tác trước HĐND. HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan

này thông qua việc xem xét các báo cáo công tác tại kỳ họp. Thông qua việc xem xét,
thảo luận các báo cáo công tác, HĐND nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, toàn diện về
hoạt động của các cơ quan. Từ đó đánh giá chính xác, khách quan kết quả thực hiện
GVHD: Nguyễn Nam Phương

10

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước theo quy định của Pháp luật và Nghị
quyết của HĐND.
Khi xem xét các báo cáo công tác, HĐND phải tập trung làm sáng tỏ tính chính
xác và thực tiễn của các báo cáo công tác nhằm xác định đúng thực trạng của tình hình
được nêu ra, vấn đề cần tập trung giải quyết, kết quả đạt được cùng những khó khăn, yếu
kém. Đây là một phương thức giám sát quan trọng giúp HĐND nhận thông tin chính thức
từ phía cơ quan đó.13
Chất vấn tại kỳ họp là một hình thức chất vấn trực tiếp, có hiệu quả cao. HĐND
xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân,
các thành viên khác của UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp. Thông qua chất
vấn, HĐND xem xét trách nhiệm cá nhân của những người được chất vấn.14
1.2.4.2 Giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
Nghị quyết của HĐND ban hành nhằm triển khai thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của cấp uỷ, phản ánh ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Nghị quyết của HĐND có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng
phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Do đó giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của
HĐND là một nội dung không thể thiếu trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp

nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện
Nghị quyết, đảm bảo cho Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện có những văn bản của UBND cùng cấp,
Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND thì HĐND xem xét, quyết định bãi bỏ một phần
hoặc toàn bộ văn bản đó.
1.2.4.3 Giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương
Đây là quá trình HĐND xem xét việc áp dụng pháp luật trong tổ chức và hoạt
động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền giám sát. Vì vậy phạm vi
giám sát của HĐND trong lĩnh vực này rất rộng. Trên thực tế pháp luật của Nhà nước,
13

Tham luận của Thường trực HĐND tỉnh Phú Thọ: Nâng cao hiệu quả giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân, Báo
điện tử Đại biểu nhân dân, 2012, [truy cập
ngày 10/01/2013].
14
Điều 41, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

11

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Nghị quyết của HĐND có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực hay không không chỉ
thông qua hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, thi hành bảo đảm đúng đắn, phù

hợp, kịp thời mà còn phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện có hợp hiến, hợp pháp
hay không? Có hiệu quả hay không? Do vậy giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa
phương là một nội dung giám sát của HĐND, nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm
pháp luật trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng này để từ đó nhanh chóng có biện
pháp ngăn chặn, đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TRONG LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM
1.3.1. Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp 1946 quy định về HĐND tại chương V: “Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính”. Vị trí tính chất, chức năng, tổ chức và hoạt động của HĐND chưa được
Hiến pháp quy định cụ thể. Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, Hiến pháp quy định: “
HĐND quyết định các vấn đề thuộc về địa phương mình. Những nghị quyết ấy không
được trái với chỉ thị của cấp trên. Theo Điều 62 thì: “Một đạo luật cụ thể sẽ định rõ
những chi tiết tổ chức các HĐND và Ủy ban hành chính”. Nhưng do điều kiện của đất
nước trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, mà thời kỳ đó
đã không có một đạo Luật tổ chức HĐND và Ủy ban hành chính nào được ban hành. Bởi
vậy, trên thực tế cách thức tổ chức quyền hạn và hoạt động của HĐND vẫn được thực
hiện theo quy định của Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân
xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 quy định tổ chức chính quyền
nhân dân thành phố, thị xã, khu phố.
Nhìn chung, theo tinh thần của Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77 thì trong tổ chức
và hoạt động của chính quyền nhân dân đã có sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn,
quyền và trách nhiệm pháp lý của HĐND các cấp được quy định khá chi tiết. Đồng thời
vai trò giám sát của Ủy ban hành chính cấp trên đối với HĐND cấp dưới cũng được chú
trọng, cơ quan hành chính cấp trên không những có quyền giải tán HĐND cấp dưới mà
còn có quyền thủ tiêu hoặc giao về sửa chữa hay chuẩn y quyết định của HĐND cấp
dưới.15

15


Điều thứ 8, 38, Sắc lệnh số 63/SL về việc tổ chức các Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do Chính phủ Lâm
thời ban hành ngày 23/11/1945.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

12

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

1.3.2. Hiến pháp năm 1959
Cùng với Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính lần đầu tiên được ban hành vào năm 1962, đánh dấu một sự đổi mới căn bản trong
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta.
Theo Hiến pháp 1959 đơn vị hành chính của nước ta không còn ở cấp bộ, nước
chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành
phố, thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn. Khác với Hiến pháp năm 1946 chỉ có cấp tỉnh
và cấp xã mới có HĐND, Hiến pháp mới quy định tất cả các đơn vị kể trên đều thành lập
HĐND. Nhiệm kỳ của mỗi khóa HĐND cấp tỉnh là ba năm, nhiệm kỳ của HĐND cấp
huyện, cấp xã là hai năm. Lần đầu tiên HĐND các cấp được xác định là cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân. Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc của HĐND được quy định trong mục bốn
Chương II Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính năm 1962. Theo điều
28 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962: “ Tùy theo nhu cầu
công tác, HĐND có thể thành lập các Ban của HĐND”. Mặc dù đã đề cập về việc thành
lập các Ban, nhưng luật lại chưa quy định cụ thể, đầy đủ về cơ cấu tổ chức, trật tự hình
thành nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các ban của HĐND và các cơ quan Nhà

nước ở địa phương. Dường như mô hình tổ chức các Ban tùy vào sự vận dụng của từng
địa phương, dẫn đến hoạt động giám sát thực sự chưa được chú trọng nhiều, hiệu quả hoạt
động giám sát của các Ban HĐND còn thấp.
1.3.3 Hiến pháp năm 1980
Trước khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989 có hiệu lực thì HĐND ở tất cả
các cấp không có trụ sở, không có con dấu, không có ai hoạt động chuyên trách, không
có Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND…Vì vậy, UBND cùng cấp đã trở thành cơ quan hoạt
động thường xuyên của HĐND.
Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 quy định: “HĐND đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở địa phương động
viên và tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền, tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; góp phần xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Hoạt
động giám sát của HĐND đã có nhiều đổi mới tuy nhiên vẫn mang tính hình thức, hiệu
quả chưa cao. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng hơn nữa quyền hạn của
GVHD: Nguyễn Nam Phương

13

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

UBND, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989 quy định: Chủ tịch UBND triệu tập kỳ
họp HĐND, điều hòa phối hợp với hoạt động của các Ban thuộc HĐND, dự kiến chương
trình và chuẩn bị các điều kiện cho kỳ họp HĐND…Vì không có thực lực nên HĐND
không có thực quyền là lẽ đương nhiên. Hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động
giám sát nói riêng mang tính hình thức, vì giữa hai kì họp, HĐND không thể giám sát

được UBND trong việc thực hiện nghị quyết của mình cũng như các văn bản của các cơ
quan nhà nước cấp trên. Tại kỳ họp, do không được thẩm tra trước nên các báo cáo, các
dự án, đề án do UBND trình không được các đại biểu thảo luận, chất vấn sôi nổi. Mặt
khác trong các cuộc bầu cử, chúng ta thường chú trọng tới cơ cấu mà chưa coi trọng tới
tiêu chuẩn, năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu. Vì vậy, hoạt động chất vấn của đại
biểu thường rất tẻ nhạt. Hoạt động giám sát của HĐND nói chung mang tính hình thức,
hiệu lực và hiệu quả thấp.
1.3.4 Hiến pháp năm 1992
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức HĐND và UBND năm
1994, để cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp 1992 về HĐND thì:
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, hoạt động của HĐND nói chung
và hoạt động giám sát nói riêng từng bước được nâng cao. Theo quy định của các luật nói
trên HĐND ở cả ba cấp đều có chức danh Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND. Từ đây việc
triệu tập kỳ họp HĐND, điều hòa phối hợp hoạt động của các Ban thuộc HĐND được
chuyển giao cho Thường trực HĐND ở cấp tỉnh và cấp huyện, Chủ tịch và Phó chủ tịch
HĐND ở cấp xã. Việc chủ tọa các kỳ họp HĐND từ đây đi vào nề nếp, ổn định. Các kỳ
họp HĐND không phải bầu ra đoàn chủ tịch lâm thời như các kỳ họp trước đây. Việc
Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND triệu tập và chủ tọa các kỳ họp trong suốt nhiệm kỳ của
HĐND là điều kiện thuận lợi để bảo đảm tính ổn định, khoa học trong việc điều khiển
các phiên họp trong đó có việc nghe và thảo luận các báo cáo của UBND, TAND,
VKSND cùng cấp cũng như các báo cáo thẩm tra, điều khiển việc chất vấn và trả lời chất
vấn của đại biểu. Hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp từng bước được nâng cao.
Mặt khác, các Luật HĐND và UBND nói trên cũng quy định ở cấp tỉnh và cấp
huyện có Thường trực HĐND. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, để thông qua Thường
trực, HĐND thực hiện quyền giám sát thường xuyên của mình đối với UBND,TAND,
VKSND cùng cấp cũng như các cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội… ở địa phương để đảm bảo cho nghị quyết của HĐND và các văn bản pháp luật của

GVHD: Nguyễn Nam Phương


14

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

cơ quan Nhà nước cấp trên được thực hiện. Từ đây HĐND có thêm hình thức giám sát
mới, giám sát thường xuyên thông qua hoạt động giám sát của Thường trực HĐND.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, đất nước ta đang có những bước chuyển
mình mạnh mẽ, với nhiều thành công, thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách
thức. Để thích ứng với hoàn cảnh lịch sử mới, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 vào năm 2001. Đẩy mạnh cải cách trong tổ chức bộ máy nhà Nước theo hướng
làm trong sạch, vững mạnh chính quyền địa phương, Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2003 ra đời với nhiều quy định mới tiến bộ. Đặc biệt, Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 đã dành riêng Chương III với 24 Điều từ Điều 57 đến Điều 81 để quy định về
hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu
HĐND
Từ sau khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật hoạt
động giám sát của HĐND ngày càng được quan tâm hơn và có hiệu quả hơn, vai trò của
HĐND với việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương ngày càng được khẳng định, góp
phần nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử lập Hiến và lập pháp ở nước ta các quy định
về HĐND vừa được kế thừa đồng thời lại có sự sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mỗi bản
Hiến pháp tuy được ban hành trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định và thực hiện những
nhiệm vụ riêng phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của từng thời kỳ cách mạng. Song tất cả các
bản Hiến pháp đều khẳng định vai trò quan trọng của HĐND trong bộ máy tổ chức Nhà
nước, đặc biệt là tầm quan trọng của hoạt động giám sát.
1.4 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.4.1 Khái niệm hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân

Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm hiệu quả được hiểu là: kết quả như yêu cầu
của việc làm mang lại. Nhưng theo từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa “Hiệu quả là kết
quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định”.16 Trong khi đó các nhà quản
lý hành chính lại cho rằng: Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành chính, là sự
so sánh giữa các chi phí đầu tư với các giá trị của đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối
thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra – đầu vào.17

16

Từ điển Lepetit Lasousse, 1999, Paris, tr. 57.
Đoàn Đình Anh: Làm gì để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân?, Báo điện tử Đại biểu nhân dân,
2012, [truy cập ngày 05/01/2013].
17

GVHD: Nguyễn Nam Phương

15

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Như vậy, xác định hiệu quả một hoạt động kinh tế thường cho chúng ta những
con số chính xác và cụ thể, nhưng với bất kỳ hoạt động xã hội nào nói chung và hoạt
động giám sát nói riêng, để tính được hiệu quả đạt được rất khó khăn và phức tạp. Bởi
loại hoạt động này chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định lượng. Do đó,
cách tính hiệu quả của một hoạt động xã hội tốt nhất chúng ta phải vận dụng phương
pháp tính hiệu quả kinh tế (tất nhiên chỉ tương đối). Theo cách tiếp cận này, “hiệu quả
chính là chỉ số so sánh giữa kết quả thu về với chi phí, công sức bỏ ra”

Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát của HĐND, có một điểm đặc biệt cần phải
xét nó trong mối quan hệ với hiệu lực giám sát của HĐND. Hiệu quả cao hay thấp phụ
thuộc vào việc HĐND thực hiện chức năng giám sát của mình theo quy định của pháp
luật đến đâu cũng như những kết luận kiến nghị từ hoạt động giám sát có được các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh hay không. Để đảm bảo hiệu lực, hoạt
động giám sát cần phải có chất lượng, nghĩa là phải đưa ra những kết luận đề xuất đúng
đắn. Trong mối quan hệ giữa chất lượng và hiệu lực giám sát thì chất lượng giám sát là
tiền đề bảo đảm hiệu lực, nhưng để đảm bảo hiệu lực giám sát còn cần sự tự giác chấp
hành nghiêm chỉnh của các chủ thể bị giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút
ra từ hoạt động giám sát. Đồng thời cần có các biện pháp xử lý đối với các chủ thể không
chấp hành nghiêm các kết luận đề xuất đó. Một khi chất lượng và hiệu lực giám sát được
đảm bảo thì đương nhiên hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt hơn. Như vậy, giữa hiệu lực
và hiệu quả giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được hiệu quả giám sát
thì trước hết, thì HĐND phải thực hiện đúng chức năng giám sát như luật định và đảm
bảo cho các kiến nghị, đề xuất của mình được thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy nhiên vì tính
hiệu quả hoạt động giám sát của một chủ thể, bên cạnh đảm bảo về mặt hiệu lực, phải
tính toán những đầu tư, chi phí (thời gian, vật chất, nguồn lực lao động…). Từ sự phân
tích trên hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân được hiểu như sau: Hiệu quả giám sát
của Hôị đồng nhân dân là hiệu lực thi hành các kiến nghị của hoạt động giám sát, đem lại
kết quả phù hợp với mục đích giám sát, với những chi phí hợp lí về thời gian, trí lực, vật
lực, nguồn lực lao động... cho hoạt động giám sát.18
1.4.2. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân
*Một là: Các quy định về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân, bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho HĐND thực hiện
18

Hồ Thị Hưng, Trường chính trị Nghệ An: Xác định hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân,
[truy cập ngày 03/01/2013].


GVHD: Nguyễn Nam Phương

16

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

quyền năng của mình. Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền
hạn....của các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng
giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức. Điều này đã được chứng
minh trong thực tiễn phát triển của luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Nhưng từ năm năm 2003, luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã cụ thể,
chi tiết hoá chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân nên trong thời gian vừa qua đã
đem lại nhiều kết quả đáng kể. Như vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân thì đòi hỏi quan trọng nhất là phải ban hành đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh
vực giám sát cho HĐND nói riêng và toàn bộ hoạt động của Hội đồng nhân dân nói
chung.19
*Hai là: Tổ chức bộ máy hoạt động của Hội đồng nhân dân
HĐND là cơ quan hoạt động không thường xuyên, cùng với đặc điểm đại biểu
HĐND hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân. Hơn nữa HĐND là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa
phương, về mặt tổ chức lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để
thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân
dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi thực tế cho thấy bất kỳ một
cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm việc nhịp
nhàng và dễ mang lại hiệu quả.
*Ba là: Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của Đại
biểu HĐND

Suy cho cùng, đại biểu HĐND là nguồn gốc của mọi vấn đề liên quan đến chất
lượng và hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Trong cac tổ
chức yếu tố con người mới là những thực thể tạo ra các hoạt động có mục đích. Do vậy,
bên cạnh đảm bảo về mặt số lượng, trình độ am hiểu pháp luật, người đại biểu cần phải
có năng lực bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám sát. Các đại biểu
dân cử phải có đủ tâm và đủ tài. Bởi người làm công tác giám sát, ngoài công nhận cái
đúng còn phải chỉ rõ và đề ra các kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho
được cái tiêu cực, trái pháp luật; để phát hiện cái sai của người khác, của các ngành chức
năng. Như vây, người đại biểu nhân dân phải có quan điểm trình độ, bản lĩnh vững vàng,

19

Ngô Bắc Tiến, Trang Thông tin điện tử Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang: Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, [truy cập ngày 03/01/2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

17

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

có cánh nhìn sáng suốt và phương pháp làm việc khoa học, hợp lý. Phải có bản lĩnh giám
nói thẳng, nói thật, không nể nang né tránh, phải vì lợi ích của dân, của nhà nước.20
*Bốn là: Điều kiện vật chất, chi phí hoạt động giám sát của HĐND
Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, cần phải đầu tư chi phí
và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát. Trong đánh giá hiệu quả giám sát của
HĐND, cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này.21

Thứ nhất, phải tăng đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND theo yêu cầu
của nội dung hoạt động. Nếu có đầu tư thoả đáng sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả
giám sát của HĐND. Chẳng hạn ở những địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao
rất khó khăn, công việc giám sát chủ yếu lại diễn ra ở cơ sở nên cần có chế độ kinh phí
bồi dưỡng cho cán bộ trực tiếp xuống giám sát, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn giám sát
trong thời gian làm việc ở cơ sở…
Thứ hai, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát phải tối ưu, nghĩa là chỉ đủ mức
cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Không phải bao giờ và ở đâu, hễ cứ tăng
đầu tư chi phí thì khi đó và ở đó công tác giám sát có hiệu quả. Ngược lại, nhiều khi chỉ ở
mức kinh phí hạn hẹp nhưng nếu tổ chức thực hiện tốt, tìm ra những hình thức, phương
pháp thích hợp thì cũng có thể mang lại hiệu quả cao.
Như vậy, khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào nói chung và giám sát nói
riêng, đều đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợp lý, tối ưu.
1.4.3 Tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND
Để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cần có những tiêu chí nhất định. Mỗi
tiêu chí được xem là một căn cứ để xác định hiệu quả giám sát trên một phương diện
khác nhau. Vì vậy, để đánh giá đúng hiệu quả giám sát cần phải xác định đúng các tiêu
chí cần thiết.
Do nội dung giám sát của HĐND rất đa dạng nên có những nhận định đánh giá
mang tính chất định tính nhất định, đồng thời có những đánh giá kết luận mang tính chất
định lượng. Vì vậy, xác định tiêu chí để đánh giá hiệu quả là một việc làm rất khó khăn.
Xuất phát từ quan niệm về hiệu quả giám sát của HĐND, bước đầu xin nêu một số tiêu
chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND như sau:
20

Trần Hữu Đức: Nâng cao chất lượng giám sát của nhân dân, Bản tin Hội đồng nhân dân và đoàn đại biểu Quốc hội
Nghệ An, tháng 1/2006, tr.19.
21
Đoàn Đình Anh: Làm gì để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân?, Báo điện tử Đại biểu nhân dân,
2012, [truy cập ngày 05/01/2013].


GVHD: Nguyễn Nam Phương

18

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Thứ nhất là: Tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát so với
trước khi có hoạt động giám sát
Để đánh giá hoạt động của cơ quan Nhà nước nói chung và hoạt động giám sát nói
riêng, trước hết cần phải căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là tiêu
chí đầu tiên cần phải xem xét, bởi tất cả các hoạt động của cơ quan, đơn vị suy cho cùng
không ngoài mục đích nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương ngày càng phát triển.
Đồng thời thông qua giám sát, HĐND không những chỉ có quyền kiến nghị với UBND,
với các ngành có liên quan mà có thể kiến nghị với Trung ương về việc đưa ra những chủ
trương, chính sách cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy,
muốn biết hoạt động giám sát của HĐND có mang lại hiệu quả hay không, chúng ta phải
có những biện pháp so sánh tình hình kinh tế - xã hội của địa phương sau khi có hoạt
động giám sát với trước khi hoạt động có giám sát. Nếu sau chương trình giám sát hàng
năm của HĐND, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có những chuyển biến tích cực,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, thì điều đó cho thấy, hoạt động giám sát của
HĐND đã mang lại hiệu quả và ngược lại.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương không hoàn toàn chỉ do sự tác
động tổng hợp của nhiều yếu tố quan trọng khác. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả giám sát
của HĐND theo tiêu chí này cũng ở mức độ tương đối.22

 Thứ hai là: Mức độ đạt được mục đích yêu cầu giám sát

Cũng giống như các hoạt động khác, khi tiến hành giám sát, HĐND phải xác định
đúng mục đích của hoạt động giám sát được thể hiện ở nhiều cấp độ phạm vi khác nhau.
ở cấp độ chung, mục đích của giám sát là việc bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh
bạch liên tục của từng cá nhân trong bộ máy Nhà nước nói chung, trên cơ sở tuân thủ
thường xuyên, nghiêm chỉnh các quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của họ
theo luật định. ở cấp độ thứ hai, tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng
đối tượng bị giám sát, HĐND đề ra những mục đích giám sát cụ thể khác nhau.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, HĐND xây dựng chương
trình giám sát hàng năm và thực hiện chương trình đó theo những mục đích đề ra. Do đó
22

Trần Văn Tân, Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Quãng Nam: Một số tiêu chí đánh giá hiệu
quả của Hội đồng nhân dân, />[truy cập ngày 02/01/2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

19

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND, chúng ta phải xem xét mức độ đạt được của
mục đích, yêu cầu giám sát. Bởi mục đích của giám sát là điều mà mọi thành viên khi tiến
hành giám sát đều hướng tới và mong muốn đạt được. Vì vậy, mục đích đã trở thành tiêu
chuẩn, thước đo cho việc đánh giá hiệu quả giám sát, là phạm vi cho việc đánh gia kết
quả thực tế.
Tuy nhiên với cách xác định này, mục đích đề ra cho từng cuộc giám sát phải phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định cho đối tượng bị giám sát

và phải phù hợp với nghị quyết của HĐND, cũng như với yêu cầu thực tiển đề ra.23

 Thứ ba là: Các kết quả đạt được do tác động của hoạt động giám sát
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND là
phải căn cứ vào kết quả thực tế do tác động giám sát mang lại. Muốn vậy, kết thúc mỗi
cuộc giám sát, HĐND phải xác định được các kết quả trong cuộc giám sát đó. Chẳng hạn,
nếu giám sát lĩnh vực xây dựng cơ bản thì phải ngăn chặn được vấn đề thất thoát vốn Nhà
nước, nếu giám sát vấn đề thu thuế thì phải đánh giá được số phần trăm thất thu, thất nộp
và doanh số mức thu cho ngân sách Nhà nước phải được tăng lên... Làm tốt được điều đó
là một trong những yếu tố quan trọng đẩy lùi tính hình thức trong hoạt động giám sát của
HĐND. Hơn nữa, HĐND có phạm vi giám sát rộng, những biến đổi do sự tác động giám
sát của HĐND nhiều khi không chỉ phát sinh trực tiếp từ đối tượng bị giám sát mà còn
ảnh hưởng đến các đối tượng liên quan. Do đó, để xác định được những kết quả thực tế từ
tác động của giám sát, đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, cụ thể, đồng thời phải có
những phương pháp đúng đắn để thu thập nhiều nguồn thông tin và tư liệu khác nhau.24

 Thứ tư là: Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra
Nếu theo cách tiếp cận “hiệu quả chính là chỉ số so sánh giữa kết quả thu về với
chi phí bỏ ra”, thì khi đánh giá hiệu quả phải tính đến những chi phí để đạt được kết quả
đó. Chi phí bao gồm: chi phí về vật chất, tinh thần cũng như số lượng người tham gia,
thời gian tiến hành... Tất cả những phí tổn cho việc giám sát đều cần ở mức thấp nhưng
phải đủ đảm bảo cho các chủ thể giám sát phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ và năng lực của
mình để đạt được những kết quả ở mức cao nhất. Điều này có nghĩa là, phải biết tiết

23

Hồ Thị Hưng, Trường chính trị Nghệ An: Xác định hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân,
[truy cập ngày 03/01/2013].
24
Trần Văn Tân, Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Quãng Nam: Một số tiêu chí đánh giá hiệu

quả của Hội đồng nhân dân, />[truy cập ngày 02/01/2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

20

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

kiệm, không chi phí bừa bãi và phải biết lựa chọn những phương pháp ít tốn kém để đạt
được mục đích đề ra.
Mặc dù vậy, giám sát là một hoạt động chủ yếu mang tính xã hội nên để tính kết
quả thu về so với chi phí bỏ ra là điều rất khó khăn, phức tạp. Bởi yếu tố vừa định lượng
vừa định tính không chỉ thể hiện trong kết quả thu về mà ngay cả trong đầu tư, chi phí bỏ
ra. Cho nên, khi căn cứ vào tiêu chí này để đánh giá hiệu quả giám sát thì cũng chỉ tính
toán ở mức độ tương đối. Vấn đề quan trọng phải biết được đặc thù của công tác giám sát
để vận dụng cho phù hợp.
Trong hoạt động giám sát, tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã hội. Có
những cuộc giám sát nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại lợi ích thiết thực
nhưng dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Một số lĩnh vực nếu được giám
sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị - xã
hội chung. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí kinh phí để xem xét hiệu quả giám sát của
HĐND, phải xem xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của công tác giám sát.25
Với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, HĐND đã góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm thực thi Hiến pháp, pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân,

bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương và chức năng giám sát việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân thì chức năng giám sát có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Thông qua hoạt động
giám sát chúng ta có thể kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự phù hợp về các quy định của
pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống và những chủ trương biên pháp mà
HĐND đã quyết nghị; giúp chúng ta phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc và kịp thời
có những giải pháp tháo gỡ để thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động. Hoạt động giám
sát còn là cơ sở để thực hiện công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một cách
chính xác, bảo đảm các nghị quyết ban hành có chiều sâu, sát thực tiễn, phù hợp với tâm
tư, nguyện vọng của cử tri.

25

Hồ Thị Hưng, Trường chính trị Nghệ An: Xác định hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân,
[truy cập ngày 03/01/2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

21

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
2.1. CƠ SỞ PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
hoạt động giám sát của HĐND được đảm bảo thực hiện thông qua hoạt động giám sát của
HĐND tại các kỳ họp, hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, hoạt động giám sát
của các Ban của HĐND và hoạt động giám sát của đại biểu HĐND.
2.1.1. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp
HĐND chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, có vai
trò quyết định đối với sự phát triển của chính quyền địa phương. Bởi vậy hiệu quả hoạt
động của HĐND luôn là vấn đề được quan tâm, chú trọng. Điều 8 Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 ghi nhận “Hiệu quả hoạt động của HĐND được bảo đảm bằng hiệu
quả của các kỳ họp HĐND, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, các
Ban của HĐND và của các đại biểu HĐND”. Xuất phát từ vị trí, tính chất, chức năng của
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân dân ở
địa phương, từ bản chất dân chủ trong cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nước, nên dù ở bất
kỳ giai đoạn nào kỳ họp HĐND vẫn luôn được xác định là một hình thức hoạt động quan
trọng nhất của HĐND. Ngay trong sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức chính
quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính
quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu phố đã có nhiều quy định về kỳ họp HĐND. Đó là
hội nghị định kỳ gồm các phiên họp của toàn thể (đa số) các đại biểu HĐND để bàn bạc
và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương được nêu ra trong chương trình
của phiên họp. HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của mình
thông qua kỳ họp ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết
định của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có ý nghĩa bắt buộc.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

22

SVTH: Vủ Thị Diễm My



Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Theo Điều 48 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND họp thường lệ
mỗi năm 2 kỳ (trước đây 3 tháng một kỳ). Ngoài kỳ hợp thường lệ, HĐND còn tổ chức
các kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường theo đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu.
Thường trực HĐND quyết định triệu tập kì họp thường lệ của HĐND chậm nhất là
20 ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc
kỳ họp. Kỳ họp HĐND được tiến hành (được coi là hợp lệ) khi có ít nhất 2/3 tổng số đại
biểu HĐND tham dự.
Tại kỳ họp, HĐND nhân dân thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số các công
việc quan trọng của địa phương thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bầu ra Thường trực
HĐND, UBND ...và thực hiện hoạt động giám sát đối với UBND, TAND, VKSND cùng
cấp. Nếu giám sát của Thường trực, các Ban và đại biểu HĐND là thường xuyên thì giám
sát tại kỳ họp là hình thức giám sát theo định kỳ của HĐND. Nó mang tính chất tổng hợp
toàn diện đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Theo Điều 1
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì: “HĐND thực hiện quyền giám sát đối với
hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc
thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương”. Như vậy, đối tượng chịu sự giám sát của HĐND rất rộng, bao quát toàn bộ hoạt
động của địa phương.
Tại kỳ họp theo quy định tại Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003
HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau:
Một là, xem xét báo cáo công tác của thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND
cùng cấp. Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công việc của
mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó HĐND có thể kiểm soát tình
hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản pháp luật cũng như Nghị quyết cảu
HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân người đứng đầu
UBND và các ban ngành về công tác của họ trước HĐND.

Hai là, xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND và các
thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng
VKSND, Chánh án TAND cùng cấp. Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt quan trọng,
thẻ hiện quyền lực của cơ quan dân cử ở địa phương. Tại kỳ họp, chất vấn là nội dung thu
hút được sự quan tâm đông đảo của nhân dân. Thông qua chất vấn, các đại biểu thể hiện
GVHD: Nguyễn Nam Phương

23

SVTH: Vủ Thị Diễm My


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay

trách nhiệm của mình đối với cử tri. Đồng thời, qua việc trả lời chất vấn, xác định rõ
trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Theo quy định Điều 61 Luật tổ chức HĐND và
UBND 2003 thì tại kỳ họp, đại biểu HĐND ghi những nội dung chất vấn, người bị chất
vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND để Thường trực HĐND
chuyển đến người bị chất vấn. Người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung
mà đại biều chất vấn và xác định trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Nếu Đại biểu HĐND
không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị HĐND tiếp tục thảo luận. HĐND
ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Ba là, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, Nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc
hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp. Việc quy định thẩm quyền xem xét
văn bản quy phạm pháp luật của HĐND như hiện nay, một mặt giảm bớt gánh nặng công
việc cho Quốc hội, mặt khác góp phần đảm bảo tính thống nhất cao của pháp luật. HĐND
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nắm vững tình hình của địa phương về mọi
mặt. Có thể nói, hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của HĐND có vai trò rất

quan trọng. Qua hoạt động này, mới loại bỏ được những văn bản sai trái, đảm bảo tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật.
Bốn là, thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết. Trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, xét thấy cần thiết phải xác minh, làm rõ một sự việc nào
đó thì HĐND có thể thành lập Đoàn giám sát.
Năm là, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu. Đây là công
cụ quan trọng giúp đảm bảo sự giám sát của HĐND. Với quy định này khẳng định sức
mạnh của nhân dân – được thể hiện qua các đại biểu HĐND. Nó chứng tỏ rằng, nhân dân
có quyền mạnh tay nếu các công bộc – các quan chức không vì lợi ích của họ.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm là: Thường trực HĐND,
các Ban HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Mặc dù theo quy định của
pháp luật có nhiều chủ thể có quyền đặt ra vấn đề bất tín nhiệm nhưng việc trình HĐND
xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc thẩm quyền của Thường trực HĐND.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp là hình thức giám sát quan
trọng nhất, giám sát theo định kỳ. Nó mang tính chất tổng hợp, toàn diện đối với tất cả
các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Mặt khác cũng tại kỳ họp các báo cáo,

GVHD: Nguyễn Nam Phương

24

SVTH: Vủ Thị Diễm My


×