Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại án lệ cơ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 31 (2005-2009)
ĐỀ TÀI:

ÁN LỆ - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giáo viên hướng dẫn :
TS. PHAN TRUNG HIỀN
Bộ môn Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện :
NGUYỄN HỒ QUỐC MINH
MSSV: 5054828
LUẬT THƯƠNG MẠI 2_K31

Cần Thơ, 04/2009


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG
*** ¥ ***
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………



MỤC LỤC
-¥PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁN LỆ.......................................4
1.1 Án lệ - một hình thức pháp luật...................................................................4
1.1.1 Tập quán pháp .......................................................................................4
1.1.2 Tiền lệ pháp............................................................................................4
1.1.3 Văn bản quy phạm pháp luật................................................................5
1.2 Án lệ là gì ? ...................................................................................................5
1.2.1 Án lệ và tiền lệ pháp...............................................................................6
1.2.2 Đặc điểm của án lệ .................................................................................7
1.2.3 Ưu nhược điểm của án lệ .......................................................................8
1.3 Nguồn của luật là gì ?...................................................................................9
1.3.1 Các nguồn của pháp luật Việt Nam ......................................................9
1.3.2 Án lệ có phải là nguồn của luật không ? .............................................16
1.3.3 Mối quan hệ của án lệ với các nguồn khác của pháp luật..................17
1.3.4 Mối quan hệ của án lệ với giải thích pháp luật...................................18
1.4 Án lệ trong các hệ thống pháp luật............................................................19
1.4.1 Các hệ thống pháp luật trên thế giới...................................................19
1.4.1.1 Hệ thống dân luật La Mã– Đức (The Romano–Germanic Civil
Law System):.............................................................................................19
1.4.1.2 Hệ thống luật chung của Anh – Mỹ. ............................................22
1.4.2 Án lệ trong hệ thống Thông luật ở Anh – Mỹ.....................................23
1.4.3 Án lệ trong hệ thống luật Dân sự ở Pháp............................................24
1.4.4 Án lệ trong luật quốc tế .......................................................................25
1.4.5 Án lệ trong pháp luật Việt Nam ..........................................................26
Chương 2 NGHIÊN CỨU ĐỂ ÁP DỤNG ÁN LỆ Ở VIỆT NAM ..................28
2.1 Xác định án lệ theo điều kiện Việt Nam ....................................................28
2.2 Lý do để áp dụng án lệ ở Việt Nam ...........................................................29
2.2.1 Lý do chủ quan ....................................................................................29
2.2.2 Lý do khách quan ................................................................................33

2.3 Các điều kiện áp dụng án lệ ở Việt Nam ...................................................36
2.3.1 Vấn đề công bố bản án ở Việt Nam.....................................................36
2.3.2 Vấn đề giải thích pháp luật của Tòa án ..............................................41
2.3.3 Hoàn thiện hệ thống pháp luật để áp dụng hiệu quả .........................42


2.3.4 Vai trò hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của TANDTC......46
PHẦN KẾT LUẬN ..............................................................................................53
Phụ lục..................................................................................................................56
1. Dân sự ...........................................................................................................56
2. Hình sự.........................................................................................................59
3. Thương mại .................................................................................................64
4. Hành chính ..................................................................................................69


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn

PHẦN MỞ ĐẦU
-¥Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, hội nhập khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống, đặc biệt về kinh tế là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc
gia nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển của đất nước. Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế nói trên. Quá trình hội nhập khu vực và thế giới tạo ra tiền đề cho
sự ra đời một khung pháp lý chung của cộng đồng trong các lĩnh vực hình sự, dân
sự, thương mại, đầu tư, sở hữu...Quá trình này đòi hỏi mỗi quốc gia phải đạt được
những vấn đề sau: tham gia đầy đủ và toàn diện các công ước và hiệp ước đa
phương, thể chế hoá nội dung các công ước, hiệp định quốc tế vào nội luật, xây
dựng và hoàn thiện các luật và chế định tương đương với nước khác, xây dựng và
tăng cường hệ thống thực thi pháp luật. Như vậy, việc tham gia vào các tổ chức
quốc tế và khu vực có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động xây dựng và áp dụng

pháp luật của mỗi quốc gia. Các quốc gia khi ban hành các đạo luật điều chỉnh về
một lĩnh vực nào đó thì không thể không tính đến những quy định pháp luật trong
các lĩnh vực này ở các quốc gia có liên quan.
Hoạt động hợp tác khu vực và quốc tế là cơ sở cho việc điều chỉnh pháp luật.
Nhưng với tư cách là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật cũng có những
ảnh hưởng, tác động nhất định đến các hoạt động kinh tế, hợp tác... trong một quốc
gia nói riêng và giữa các quốc gia trong cộng đồng nói chung. Pháp luật tạo ra một
“hành lang pháp lý” cho mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp...
Có thể nói pháp luật là một công cụ không thể thiếu trong việc duy trì một trật tự
pháp luật theo đúng ý chí cuả nhà làm luật. Pháp luật là một công cụ bảo vệ quyền
lợi của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, phòng ngừa mọi hành vi vi
phạm.
Trong những năm qua, chúng ta đã có những cố gắng to lớn trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế. Việc tham gia
ngày càng nhiều của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế cũng như ký và gia nhập với
số lượng ngày càng tăng các điều ước quốc tế song phương và đa phương thể hiện
mong muốn của Việt Nam muốn hợp tác với tất cả các quốc gia. Chẳng hạn, chúng
ta đã có những nỗ lực to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật về đầu tư nước ngoài nói riêng, trong đó phải kể đến lần sửa đổi, bổ sung
của luật đầu tư nước ngoài năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp luật
GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-1-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
về đầu tư nước ngoài của Việt Nam nhìn chung được đánh giá là khá thông thoáng,
hấp dẫn, tiếp cận gần với thông lệ và tập quán quốc tế trong lĩnh vực này. Luật đầu

tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000 đã có một số quy định nhằm tháo gỡ kịp
thời những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các
doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng quyền tự chủ trong tổ
chức, quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Với những yêu cầu mang tính cấp thiết phải thay đổi và phát huy hơn nữa về
mọi mặt của đất nước. Và một trong những điều quan trọng hàng đầu, mang tính
quyết định đó là phải có bộ máy nhà nước chặt chẽ với một hệ thống luật pháp hiện
đại, thông thoáng. Đó chính là nền tảng, tạo sự yên tâm thu hút đầu tư vào Việt
Nam.
Pháp luật với vị trí và vai trò vốn có của nó là một công cụ chủ yếu của nhà
nước để quản lý nhà nước và xã hội; các quy định của pháp luật được đặt ra là để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một định hướng nhất định; thông qua việc đặt ra,
thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hành vi, quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể pháp luật. Trong quá trình vận
động đất nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật là việc làm rất quan trọng. Như ta biết rằng, hệ thống pháp luật của nước
phát triển hay đang phát triển vẫn có những “ khiếm khuyết ” nhất định. Vấn đề đặt
ra là làm thế nào để khắc phục những khiếm khuyết đó. Và ở đa số các nước trên
thế giới, câu trả lời là việc áp dụng án lệ
Việc nghiên cứu để thấy giúp cho chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn nữa
về vai trò và giá trị của án lệ nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước ta
trong giai đoạn hội nhập và phát triển, phù hợp với các quy định của Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu xoay quanh việc tìm hiểu về án lệ, cơ sở lý luận và thực
tiễn, ở Việt Nam,và những điều kiện có thể áp dụng án lệ ở Việt Nam. Từ đó đề
xuất những kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình thừa nhận án lệ ở Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cần đạt được là giá trị và vai trò của án lệ trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam không có văn bản chính thức nào

thừa nhận án lệ.Vì vậy, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu nhằm đưa ra những lý do
khách quan lẫn chủ quan để có thể áp dụng án lệ ở Việt Nam
Phương pháp ngiên cứu

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-2-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Bài viết được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Chủ Nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương
pháp tổng hợp phân tích với cách nghiên cứu trực tiếp đối chiếu so sánh một cách
khách quan và trung thực. Qua đó, giúp tác giả có cái nhìn khái quát về vấn đề án lệ
ở Việt Nam để từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của án lệ trong việc hoàn
thiện pháp luật.
Cơ cấu đề tài
Luận văn được chia làm 3 phần: lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần
nội dung bao gồm ba chương, trong đó:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của án lệ
Chương 2: Nghiên cứu để áp dụng án lệ ở Việt Nam
Sau cùng em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của thầy Phan Trung Hiền đã
giúp em hoàn thành đề tài luận văn và mong được sự đóng góp để hoàn thiện đề tài
này từ quý thầy cô, các bạn sinh viên và những người có cùng mối quan tâm đến
vấn đề lý luận và thực tiễn án lệ.

GVHD: TS.Phan Trung Hiền


-3-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁN LỆ
1.1 Án lệ - một hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật nói chung được hiểu là cách thức mà giai cấp thống trị
(lực lượng cầm quyền) sử dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình thành pháp luật.
Để thực hiện được điều đó giai cấp thống trị phải tìm cách hợp pháp hóa ý chí của
mình thành ý chí nhà nước. Thông qua nhà nước (các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền) ý chí đó được cụ thể hóa thành pháp luật, hệ thống qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung đối với mọi người trên qui mô toàn quốc.
Trong lịch sử đã có ba hình thức được giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý
chí của giai cấp mình thành pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản qui
phạm pháp luật.
1.1.1 Tập quán pháp
Tập quán pháp là hình thức xuất hiện sớm nhất và đã được sử dụng nhiều
trong các nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản hình
thức này vẫn được sử dụng ở mức độ đáng kể, nhất là ở các nhà nước có chế độ
quân chủ. Hình thức này được sử dụng bằng cách nhà nước phê chuẩn hoặc thừa
nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị, để nâng chúng thành pháp luật. Như vậy cơ sở hình thành pháp luật là tập
quán. Nhưng các tập quán nếu xét về nguồn gốc, nhìn chung đều được hình thành
một cách tự phát, chậm thay đổi và có tính cục bộ ( trong phạm vi hẹp ). Vì vậy, về
mặt nguyên tắc hình thức tập quán pháp không có khả năng thể hiện được bản chất
của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, trong số các tập quán đã được hình thành
và còn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, có những tập

quán tiến bộ thể hiện truyến thống và đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong việc
hình thành các quy phạm pháp luật, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đối
với các tập quán đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn tôn trọng và tạo điều kiện cho
chúng phát huy tác dụng. Trong nhiều trường hợp nhà nước tổ chức nghiên cứu và
đưa chúng thành nội dung của các quy phạm pháp luật. Đồng thời nhà nước luôn
chú trọng xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật mới để hướng dẫn, điều chỉnh các
quan hệ xã hội, tác động, thu hẹp dần phạm vi ảnh hưởng của các tập quán lạc hậu,
tiến tới xóa bỏ chúng.
1.1.2 Tiền lệ pháp
GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-4-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật được áp dụng chủ yếu ở các nước thuộc
hệ thống Ănglo-sắcxông gồm Mỹ, Anh và một số nước nằm trong hệ thống thuộc
địa Anh trước đây. Tiền lệ pháp là quyết định xét xử trước đây của Tòa án hoặc cơ
quan hành chính được sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự
xảy ra sau này. Đặc trưng cơ bản của tiền lệ pháp thể hiện ở tính khuôn mẫu bắt
buộc của nó. Việc áp dụng tiền lệ pháp đòi hỏi sự đối chiếu các tình tiết trong vụ
việc đang xem xét với các tình tiết của vụ việc tương tự đã được giải quyết để từ đó
có thể áp dụng hình phạt hoặc cách giải quyết đã có. Việc áp dụng hình thức tiền lệ
pháp có nghĩa là thừa nhận vai trò của Tòa án trong việc hình thành các chế định và
quy phạm pháp luật. Ở các nước theo hệ thống Ănglo-sắcxông, tiền lệ pháp là hình
thức pháp luật có vị trí quan trọng. Ở Anh, Mỹ toàn bộ các tiền lệ pháp hợp thành
một bộ phận cấu thành quan trọng của luật pháp dưới tên gọi chung là common law.
Trước đây tiền lệ pháp là nguồn chủ yếu của hình luật và dân luật của Anh.

1.1.3 Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức phổ biến nhất, phát triển nhất. Văn
bản qui phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
theo thủ tục trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực đời sống.
Ngoài ra ở các nước Hồi giáo, bên cạnh các văn bản pháp luật do nhà nước
ban hành còn có sự song hành của luật hồi giáo. Trong một số đạo luật, bộ luật các
nước hồi giáo cho phép các cơ quan có thẩm quyền của mình áp dụng các quy phạm
pháp luật Hồi giáo để giải quyết những vấn đề mà nhà nước pháp luật chưa điều
chỉnh.
1.2 Án lệ là gì ?
Theo Từ điển Black’s Law thì, án lệ (precedent) có hai nghĩa:
“Một là sự làm luật bởi toà án trong việc nhận thức và áp dụng những quy
định mới trong khi thi hành công lý. Hai là một vụ việc đã được quyết định mà cung
cấp cơ sở để quyết định cho những vụ việc sau liên quan đến các sự kiện hoặc vấn
đề tương tự.
Trong pháp luật, án lệ là một vụ việc đã được xét xử hoặc quyết định của toà
án được xem như sự cung cấp quy định hoặc quyền lực cho quyết định của một vụ
việc giống hoặc tương tự xảy ra về sau, hoặc cho một vấn đề tương tự của pháp luật,
hoặc khi nếu các sự kiện là khác nhau thì nguyên tắc chi phối vụ việc đầu tiên có thể
áp dụng được cho các sự kiện khác nhau chút ít.

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-5-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh



Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Một án lệ là một quyết định của toà án chứa đựng trong nó một nguyên tắc.
Nguyên lý cơ bản giống như mẫu mà phần có căn cứ đích xác của nó thường được
gọi là nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ thể. Một
quyết định cụ thể là bắt buộc đối với các bên, nhưng nó là bản tóm tắt của nguyên
tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ thể mà chỉ có nó có hiệu
lực pháp luật.
Cũng có thể nói một cách khái quát là, một vụ việc trở thành án lệ vì quy
định chung như vậy là cần thiết đối với quyết định thực tế có thể được đưa ra là sự
biến dạng trong những trường hợp phụ.
Từ điển này còn giải thích: án lệ bắt buộc là án lệ mà toà án bắt buộc phải
tuân theo, ví dụ, toà án cấp thấp hơn bị giới hạn bởi một cách áp dụng của một toà
án cấp cao hơn trong một vụ xét xử tương tự. Án lệ để giải thích là án lệ chỉ có thể
được áp dụng cho một quy định pháp luật hiện đã có rồi. Án lệ gốc là án lệ tạo ra và
áp dụng một quy định mới của pháp luật. Án lệ có sức thuyết phục là một án lệ mà
toà án có thể hoặc là tuân theo hoặc là từ chối, nhưng điều khoản của nó phải được
tôn trọng và cân nhắc cẩn thận.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu án lệ là quyết định hoặc lập luận, nguyên tắc
hoặc sự giải thích pháp luật do toà án đưa ra khi giải quyết một vụ việc cụ thể được
nhà nước thừa nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để toà án dựa vào đó đưa ra quyết định
hoặc lập luận để giải quyết vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết
tương tự. Án lệ được coi là nguồn của pháp luật cũng bao gồm nhiều loại như: án lệ
bắt buộc, án lệ để giải thích, án lệ gốc.
1.2.1 Án lệ và tiền lệ pháp
Như phần trên đã nêu lên khái niệm, tiền lệ pháp là việc làm luật của tòa án
trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình xét xử trên cơ
sở những vụ việc đã được quyết định trước đây cho những trường hợp hoặc vấn đề
tương tự. Và theo định nghĩa, án lệ (case-law) là tập hợp các vụ việc đã được xét xử
của cơ quan tư pháp trong quá trình xét xử.
Như vậy, về mặt bản chất, án lệ cũng chính là tiền lệ pháp vì đều xuất phát từ

cơ quan tư pháp và được hình thành qua quá trình xét xử . Trước thời kỳ chinh phục
nước Anh của người Norman, những vùng khác nhau trên nước Anh lại áp dụng các
hệ thống pháp luật khác nhau. Luật Dane được áp dụng ở miền Bắc, luật Mercian ở
miền trung và luật Wessex ở miền Tây và miền Nam. Đến khi William lên ngôi vua
nước Anh năm 1066, ông đã thiết lập một chính quyền tập trung và bắt đầu tiêu
chuẩn hóa luật. Các đại diện của Nhà Vua đi đến các địa phương và giải quyết các

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-6-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
tranh chấp theo luật lệ địa phương. Sau đó họ bắt đầu thảo luận về các tập quán
khác nhau của các địa phương cũng như những kinh nghiệm trong quá trình xét xử.
Cuối cùng họ chọn lọc những vụ việc hợp lý và xây dựng nguyên tắc tiền lệ - stare
decisis. Theo nguyên tắc này, bất kỳ nơi nào phát sinh những vấn đề mang tính chất
pháp lý thì khi đưa ra quyết định phải tuân theo những trường hợp tương tự đã giải
quyết trước đây. Và nguyên tắc này đã dẫn đến sự hình thành thông luật (common
law) năm 1250, tức luật hình thành từ các quyết định tư pháp chứ không phải do cơ
quan lập pháp ban hành. Những nguyên tắc của thông luật đã được sử dụng cho đến
ngày nay trong đó có án lệ (được biết đến như thông luật). Và như vậy, trên cơ sở
tiền lệ (stare decisis) được hình thành này, hệ thống thứ bậc của tiền lệ cũng hình
thành và áp dụng cho các hệ thống tòa án. Theo đó, thẩm phán khi đưa ra phán
quyết phải tuân thủ theo các phán quyết của tòa án cấp trên trong cùng hệ thống.
Đây chính là án lệ hay cũng chính là tiền lệ pháp.
Như vậy, tiền lệ pháp và án lệ là hai tên gọi chỉ cùng một khái niệm. Theo
đó, tiền lệ pháp (hay án lệ) chỉ do tòa án ban hành theo những trình tự nhất định

1.2.2 Đặc điểm của án lệ
Cũng như các khái niệm khác, án lệ cũng có những đặc điểm riêng. Và có thể
dựa vào đó để phân biệt chúng với các nguồn khác của pháp luật.
Thứ nhất, án lệ có mối quan hệ mật thiết với thẩm phán vì án lệ là do thẩm
phán sáng tạo ra và để giải quyết các vụ việc cụ thể mà thẩm phán phải đối mặt.
Mặc dú án lệ được xem là nguồn của pháp luật nhưng ở nhiều nơi và nhiều lĩnh vực
nó vẫn có giá trị thấp hơn luật thành văn. Có quy định như vậy là để tránh cho các
thẩm phán lạm quyền dẫm chân lên thẩm quyền của nhà làm luật. Một bản án dù
được tuyên bởi một thẩm phán dù tài ba đến mấy cũng không thể trở thành án lệ nếu
nó không thông qua một số trình tự nhất định. Điều này để chỉ ra rằng án lệ không
được rút ra một cách đơn giản từ các bản án, và không phải sáng tạo pháp luật của
bất kỳ tòa án nào cũng có thể trở thành án lệ. Từ đó có thể thấy quy phạm được sáng
tạo bởi thẩm phán rất đặc biệt, nó vừa giải quyết các vụ việc cụ thể vừa có khả năng
khái quát hóa vì nó có tính tiềm tàng để mở rộng đến các vụ việc tương tự.
Thứ hai, án lệ phải có tính nhắc lại. Đây là một đặc tính quan trọng để một
bản án trở thành án lệ. Tất nhiên việc nhắc lại này phải được thực hiện theo một
trình tự và thủ tục chặt chẽ, án lệ là các bản án được đem ra làm mẫu và được áp
dụng nhiều lần và trở thành lệ.
Thứ ba, án lệ có tính bắt buộc. Nếu một bản án được đem ra sử dụng cho
trường hợp tương tự nhưng chỉ với tính chất tham khảo thì đó không phải là án lệ.

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-7-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Một quyết định hoặc một bản án được xem là án lệ nghĩa là nó có tính chất bắt buộc

đối với các vụ án tương tự về sau, các thẩm phán sau này không thể không áp dụng
theo khuôn mẫu này.
1.2.3 Ưu nhược điểm của án lệ
Theo các nước trong hệ thống Thông luật và một số nước khác coi án lệ là
một nguồn của luật pháp thì án lệ chính là sự tạo điều kiện dễ dàng cho thẩm phán
làm việc vì họ sẽ không phải đi tìm giải pháp cho từng vụ một. Áp dụng án lệ là một
sự ra quyết định phù hợp với các quyết định trước đó, trong trường hợp tương tự bởi
các cấp xét xử cao hơn. Đó cũng chính là một việc làm để tiết kiệm thời gian, tiền
bạc, công sức của thẩm phán và đương sự vì các quyết định này khó có thể sửa chữa
thông qua phúc thẩm. Cuối cùng, việc áp dụng án lệ là thể hiện tinh thần đoàn kết
và tôn trọng lẫn nhau giữa các thẩm phán vì việc áp dụng án lệ chính là sự tôn trọng
quyết định của các thẩm phán khác và biểu lộ sự mong muốn được giải quyết các vụ
việc trong một trật tự nhất định.
Án lệ giúp thổi một luồng sinh khí vào “thân xác” khô khan và bất động của
những bản văn pháp lý, nhờ đó các đạo luật có được cuộc sống sinh động gắn liền
với thực tiễn. Án lệ cũng giúp tạo ra sự an toàn pháp lý cho công dân và sự ổn cố
của xã hội khi mọi hành vi của các thành viên trong xã hội đều được thực hiện trong
khuôn khổ ứng xử đã được xác lập như một tiền lệ. Khi xảy ra tranh chấp, các tòa
án mặc nhiên tôn trọng tiền lệ đó và phân xử tranh chấp dựa trên khuôn khổ đã hiện
hữu.
Bên cạnh đó hoạt động xét xử của toà án luôn đòi hỏi phải thích ứng với sự
thay đổi của đời sống xã hội. Mỗi khi các điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, làm
cho pháp luật trở lên không còn thích hợp nữa, thì trước khi chờ đợi các nhà làm
luật sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp, đòi hỏi thẩm phán phải hết sức sáng tạo
trong giải thích và áp dụng pháp luật để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, án lệ
nhiều khi phải giải thích pháp luật vượt ra ngoài phạm vi, ý nghĩa ban đầu của các
quy phạm pháp luật để bảo vệ công lý và công bằng, đảm bảo cho bản án có tình, có
lý. Như vậy, trước khi thực hiện cải cách, sửa đổi pháp luật, án lệ có một vai trò
quan trọng trong việc thử nghiệm và đi tiên phong trong việc cải cách đó.
Tuy nhiên, khi áp dụng án nghĩa là ta sử dụng vụ việc đã được quyết định mà

cung cấp cơ sở để quyết định cho những vụ việc sau liên quan đến các sự kiện hoặc
vấn đề tương tự. Điều này sẽ làm hạn chế khả năng sáng tạo của Tòa án trong quá
trình xét xử. Không những vậy, án lệ chỉ hợp lý trong một khoảng thời gian nào đó

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-8-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
nhưng với sự phát triển của xã hội thì án lệ sẽ không còn phù hợp nữa. Do đó dẫn
tới việc sai sót trong xét xử khi áp dụng án lệ đó.
1.3 Nguồn của luật là gì ?
“Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử
dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng
vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế” 1. Nguồn của pháp luật
bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ yếu (nguồn cơ bản) và
nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt
Nam hiện nay, cần phải quan tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó,
trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi
vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải
thích pháp luật”; “nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại
của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp
các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào
đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế” 2. Tuy nhiên, sự phân chia
này chỉ có tính chất tương đối.
1.3.1 Các nguồn của pháp luật Việt Nam
Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam

+ Đường lối, chính sách của Đảng
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật
bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản
để thực hiện những mục tiêu, phương hướng này. Và những mục tiêu, phương
hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật
và tổ chức thực hiện trong thực tế. Nội dung các quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều
phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính sách của Đảng. Về mặt lý luận,
đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể là nguồn nội dung mà không thể là nguồn
hình thức của pháp luật; song, trong thực tế có lúc nó cũng được coi là nguồn hình
thức của pháp luật như việc áp dụng thẳng Nghị quyết 10 và Chỉ thị 100 của Đảng
về khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở một số địa phương trước đây. Nói chung,
việc áp dụng thẳng đường lối, chính sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội là
một hạn chế cần khắc phục, vì về mặt nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng
1
2

trích trong bài “Về khái niệm nguồn của pháp luật ”, Tạp chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30
trích trong bài “Về khái niệm nguồn của pháp luật ”, Tạp chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

-9-

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện nghiêm chỉnh đối với các đảng

viên và các tổ chức đảng. Và dĩ nhiên, đường lối, chính sách đó chỉ có thể có giá trị
bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với toàn xã hội khi nó được Nhà nước thể
chế hoá thành pháp luật.
+ Nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất nước
Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một
trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều
hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban
hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường (thị
trường lao động, thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài
chính...); cụ thể hoá các chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập...;
sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều
hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa
bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh tế - xã hội
+ Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của
pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì, “Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Quy định này của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ
quyền nhân dân; tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của
học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.
Các loại nguồn hỗn hợp
Bên cạnh các nguồn nội dung kể trên, còn có các nguồn vừa là nguồn nội
dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Đó là các nguồn cơ bản sau:
+ Các nguyên tắc chung của pháp luật

Đây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá
trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ là
nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm
1999 thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 10 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Hình sự ...”. Quy định này xuất phát từ một nguyên tắc chung của pháp luật là
không ai bị coi là có tội nếu tội đó không được quy định trong luật hình. Hoặc quy
định của Điều 130 của Hiến pháp năm 1992 rằng, “khi xét xử, thẩm phán và hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm tính
độc lập của toà án.
Song, có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức
của pháp luật. Ví dụ, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này được
coi là nguồn nội dung của pháp luật vì các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh
vực được ban hành ra nhằm thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ
cho sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội, xoá
đói, giảm nghèo... Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật, nguyên tắc này đòi
hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế phải tuỳ từng trường
hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt hại, có trường hợp chỉ yêu cầu bồi
thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp lại phải yêu cầu bồi thường cả
những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.
+ Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL)
Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp

luật, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý
thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là
văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật
định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác
nhau. Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là Hiến pháp, đạo
luật gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo luật và các nghị quyết của
Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội...
VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật, thể
hiện trí tuệ của tập thể nên tính khoa học tương đối cao. Các quy định của nó được
trình bày thành văn nên thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và được
thực hiện thống nhất ở phạm vi rộng; nhờ vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế. Hơn nữa, VBQPPL cũng có
thể đáp ứng được kịp thời các yêu của cuộc sống nên nó được coi là loại nguồn hình
thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật nước ta hiện nay. Tuy nhiên,
VBQPPL không phải là loại nguồn hình thức duy nhất của pháp luật bởi VBQPPL
vẫn có những điểm hạn chế nhất định cần được khắc phục như: các quy định của nó
thường mang tính khái quát cao nên nhiều khi không dự kiến được hết các tình
GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 11 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
huống, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống để điều chỉnh, vì thế có
thể dẫn đến tình trạng thiếu pháp luật hoặc tạo ra những lỗ hổng, khoảng trống trong
pháp luật. VBQPPL có tính ổn định tương đối cao nên nhiều khi kém linh hoạt hơn

các nguồn khác. Quy trình xây dựng và ban hành VBQPPL cũng lâu dài và tốn kém
hơn một số nguồn khác.
VBQPPL không chỉ là nguồn hình thức mà còn có thể là nguồn nội dung của
pháp luật, bởi, nếu xét về nội dung thì các quy định trong các văn bản có giá trị
pháp lý cao hơn lại có thể trở thành nguồn nội dung cho các văn bản có giá trị pháp
lý thấp hơn. Chẳng hạn, các quy định của Hiến pháp là nguồn nội dung của tất cả
các VBQPPL khác vì các quy định trong các văn bản ấy được xây dựng, ban hành
dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, trong nhiều trường hợp là sự cụ thể hoá,
chi tiết hoá nhằm thực hiện Hiến pháp trong thực tế... Hoặc một đạo luật nào đó có
thể trở thành nguồn nội dung cho các nghị định hướng dẫn thi hành nó.
+ Các điều ước quốc tế
“Theo cách tiếp cận của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký kết giữa
các quốc gia và các quy định của luật quốc tế hiện hành thì điều ước quốc tế được
xác định là thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các
chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả
thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có
quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện
đó” 3. Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia
nhập thực tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta.
Nó là nguồn nội dung trong trường hợp các quy định của nó được chuyển hóa thành
các quy định trong các VBQPPL.
Ví dụ : Việc chúng ta gia nhập Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã dẫn đến việc ban hành Luật Bình đẳng giới trong
đó có nhiều nội dung là sự cụ thể hóa các quy định của Công ước này. Nhiều quy
định của các điều ước quốc tế khác đã được chuyển hóa thành các quy định trong
các đạo luật của Việt Nam, nhất là khi chúng ta đã gia nhập WTO.
Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường hợp
nó được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải quyết các vụ việc
xảy ra trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa nhận trong Luật Ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta.

3

Giáo trình Luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.
26.

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 12 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Nói chung, trong lĩnh vực luật quốc tế thì điều ước quốc tế là nguồn cơ bản,
chủ yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp luật quốc gia, vai trò của điều ước
quốc tế ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng cao hơn, nhất là trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay. Điều đó được thể hiện rõ trong các quy định được nêu trong
nhiều VBQPPL hiện hành của nước ta là: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà
CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn
bản này thì tuân theo các quy định của điều ước quốc tế đó”.
+ Phong tục tập quán
Có nhiều quan niệm khác nhau về phong tục tập quán, song dưới góc độ coi
nó là một dạng quy phạm xã hội thì có thể hiểu phong tục tập quán là những cách
ứng xử hay những thói quen ứng xử hoặc những quy tắc xử sự chung được hình
thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực
hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể
bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Theo từ điển Black’s Law thì tập quán (custom) là “thực tế mà bằng sự thừa
nhận chung và lâu dài đối với nó, thói quen không thay đổi đã trở thành có hiệu lực
như pháp luật”. Sau đó, Từ điển này đề cập đến một số loại tập quán như: tập quán

thông thường là một tập quán chỉ được thực hiện trực tiếp thông qua sự môi giới của
các sự thoả thuận để nó được chấp nhận và được làm theo trong trường hợp cá biệt
của cá nhân như là pháp luật thông thường giữa các bên trong những thoả thuận
này - cũng còn được gọi là phong tục; tập quán chung có hai nghĩa, một là một tập
quán thịnh hành khắp đất nước và tạo nên một trong các nguồn của pháp luật của
đất nước, hai là một tập quán mà được công nhận và tuân theo trong thương mại;
tập quán pháp luật là tập quán được thực hiện như là một quy định bắt buộc của
pháp luật, không phụ thuộc vào một thoả thuận nào của các chủ thể liên quan đến nó
- thường là sự thu hẹp của tập quán; tập quán địa phương là tập quán chỉ thịnh hành
ở một số địa phương nhất định như là một thành phố hoặc một tỉnh và tạo thành
nguồn của pháp luật chỉ trong địa phương đó - cũng còn được gọi là tập quán đặc
biệt, tập quán riêng biệt. Từ điển này còn đề cập đến cụm từ tập quán và phong tục
(custom and usage) và giải thích đó là những quy định, những thực tiễn chung đã
được công chúng công nhận thông qua thói quen không thay đổi và thói quen
chung.
Theo quan niệm trên thì tất cả các loại tập quán như tập quán thông thường,
tập quán chung, tập quán pháp luật và tập quán địa phương đều có thể trở thành
nguồn của pháp luật.

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 13 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Phong tục tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn hình
thức của pháp luật. Những phong tục tập quán tiến bộ, tốt đẹp, phù hợp với ý chí
của Nhà nước, được Nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn nội dung của pháp luật.

Ví dụ, việc Nhà nước thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên đán, phong tục Giỗ tổ
Hùng Vương ngày 10 tháng 3 âm lịch đã dẫn đến quy định cho phép người lao
động, cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên... được nghỉ làm việc, học tập trong
những ngày này.
Ngoài ra, trong một số lĩnh vực, các quy tắc và quan niệm đạo đức chính
thống, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng có thể trở thành nguồn nội dung
của pháp luật. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con cái, của ông bà
và các cháu, của vợ và chồng, của các thành viên khác trong gia đình với nhau trong
pháp luật hôn nhân và gia đình là sự thể chế hóa các quan niệm đạo đức truyền
thống, là sự thừa nhận các quy tắc đạo đức thịnh hành trong xã hội;...
Ngược lại, có những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu, phản tiến bộ khiến
Nhà nước ban hành VBQPPL nhằm xóa bỏ, loại trừ dần chúng khỏi đời sống xã hội.
Ví dụ, sự tồn tại của phong tục đốt pháo gây lãng phí tiền bạc, tai nạn thương tâm
dẫn đến việc Nhà nước ban hành quy định cấm sản xuất và đốt pháo để loại trừ
phong tục này.
Phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật trong những trường hợp
nó được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế. Việc thừa
nhận phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật đã được thể hiện cụ thể
trong một số đạo luật của nước ta. Ví dụ, Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận
thì có thể áp dụng tập quán;... Tập quán... không được trái với những nguyên tắc
quy định trong Bộ luật này”; hoặc theo Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
thì, “trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản
sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật này thì
được tôn trọng và phát huy”.
Trong loại nguồn này còn bao gồm cả các tập quán quốc tế đã được thừa
nhận và áp dụng tại Việt Nam như các tập quán thương mại quốc tế.
Nói chung, phong tục tập quán chỉ được coi là nguồn thứ yếu của pháp luật
Việt Nam bởi các quy định của nó chủ yếu tồn tại dưới dạng bất thành văn nên
thường chỉ được hiểu một cách ước lệ, thiếu rõ ràng, cụ thể, khó bảo đảm cho việc

hiểu và áp dụng thống nhất trong phạm vi rộng. Song, ưu điểm của phong tục tập
quán là hình thành từ thực tiễn cuộc sống, từ những thói quen ứng xử hàng ngày nên
rất gần gũi với nhân dân và thường được nhân dân tự giác thực hiện. Vì vậy, phong
GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 14 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
tục tập quán có thể góp phần bổ sung cho chỗ thiếu của pháp luật, khắc phục những
lỗ hổng của pháp luật nên cần được tiếp tục sử dụng cùng với các VBQPPL. Điều
cần thiết hiện nay là phải có hình thức xác định cụ thể những tập quán được Nhà
nước thừa nhận để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất và bảo đảm
công bằng xã hội.
Trên đây là các loại nguồn đã được chính thức thừa nhận trong pháp luật và
trong thực tế ở nước ta. Ngoài ra, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 còn nêu “nghiên cứu về khả năng khai thác,
sử dụng án lệ,... và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn
thiện pháp luật”. Theo tinh thần của Nghị quyết này, thì trong tương lai, pháp luật
Việt Nam có thể có thêm hai nguồn sau:
+ Án lệ hay các quyết định, bản án của tòa án
Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước thuộc hệ thống
thông luật. Nó có một số ưu điểm sau: đề cập đến các vụ việc đã xảy ra trong thực tế
mà không phải là những giả thuyết có tính lý luận về những tình huống có thể xảy
ra trong tương lai, vì vậy, nó thường phong phú và đa dạng hơn pháp luật thành văn;
góp phần bổ sung cho những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn và
khắc phục được tình trạng thiếu pháp luật; tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật

được dễ dàng, thuân lợi hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, án lệ vẫn chưa được
thừa nhận một cách chính thức; song, nếu theo tinh thần của Nghị quyết số 48 thì
trong tương lai gần, án lệ có thể được coi là một trong các nguồn hình thức của pháp
luật nước ta. Vấn đề cần phải nghiên cứu ở nước ta hiện nay là những bản án loại
nào và của toà nào có thể trở thành án lệ? Chủ thể, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thừa
nhận nó ra sao? Nếu một bản án được thừa nhận là án lệ thì phần nào trong bản án
sẽ bị bắt buộc phải tuân theo hoặc phải tôn trọng? Đây là những câu hỏi mà các nhà
chuyên môn, các nhà hoạt động thực tiễn phải trả lời. Theo quan điểm em, đó nên là
các bản án của Toà án nhân dân tối cao.
+ Quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp
Loại nguồn dự kiến này mới chỉ được đề cập đến trong Nghị quyết số 48 nói
trên mà dường như chưa có tiền lệ ở Việt Nam và cũng chưa được thừa nhận chính
thức về mặt Nhà nước. Chỉ mới có quy định của các tổ chức chính trị - xã hội là đã
được thừa nhận một cách gián tiếp trong một số văn bản. Ví dụ, Pháp lệnh Cán bộ,
công chức năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2003) đã thừa nhận một cách gián
tiếp rằng quy định của các tổ chức chính trị - xã hội cũng có thể được thừa nhận là

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 15 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
một trong các nguồn hình thức của pháp luật thông qua việc thừa nhận những người
do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội cấp xã... cũng là cán bộ, công chức. Theo đó, những cán bộ, công chức thuộc
loại này nếu vi phạm kỷ luật của các tổ chức đó thì khi xử lý họ, quy định của các tổ

chức đó cũng sẽ được viện dẫn và áp dụng.
Đối với các quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp thì vấn đề cần làm sáng tỏ
cả về mặt lý luận và thực tiễn là quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp nào có thể
được thừa nhận là một trong các loại nguồn của pháp luật? Đó là những quy tắc điều
chỉnh những quan hệ xã hội nào, về những vấn đề gì? Nói chung, đây là vấn đề khá
mới mẻ, cần phải được cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định thừa nhận nó là một
trong các loại nguồn của pháp luật nước ta.
1.3.2 Án lệ có phải là nguồn của luật không ?
Thuật ngữ án lệ jurisprudence được hiểu là sự thận trọng trong pháp
luật,trong xét xử (juris là pháp luật, là xét xử; prudence là sự thận trọng). Chính vì
vậy mà các nước theo hệ thống Thông luật, án lệ cũng được xem là tương đồng với
sự thận trọng của Luật gia. Án lệ cũng có thể được gọi với một tên khác trong các
học thuyết, các giáo trình về luật học là tiền lệ pháp.
Trong hệ thống Thông luật trước đây, và ngày nay cũng có ở hệ thống luật
Dân sự, án lệ được chỉ rõ là tập hợp các khuôn mẫu xét xử, là các quyết định pháp
lý của các tòa tối cao, hoặc là tập hợp các cách thức giải quyết một vụ việc cụ thể
nào đó của các tòa án trong một ngành luật đã được xác định. Sẽ không sai khi nói
rằng đôi khi các thẩm phán sáng tạo ra luật. Việc sáng tạo này có thể xảy ra trong
lúc giải thích điều luật mà họ phải áp dụng, hoặc là khi giải quyết vụ việc trong bối
cảnh có sự không rõ ràng về luật áp dụng hoặc luật còn trống chưa điều chỉnh.
Quyền sáng tạo luật của thẩm phán đã dẫn đến những hiệu quả pháp lý về việc hình
thành nên án lệ.
Tuy nhiên án lệ có phải là nguồn của luật hay không thì vẫn là vấn đề còn
nhiều tranh cãi.
Theo nhiểu học thuyết cổ điển, có hai lý lẽ chính được đưa ra để từ chối trao
cho án lệ một vai trò là nguồn của luật. Thứ nhất, những người theo quan điểm này
cho rằng sự thiếu vắng một quy phạm điều chỉnh trong hệ thống văn bản pháp luật
có thể tạo nên “ tiền lệ” xét xử, tuy nhiên những tiền lệ này chỉ là một hướng dẫn
giúp cho các thẩm phán tìm ra phương hướng xét xử hợp lý. Việc xét xử trong
trường hợp thiếu quy phạm điều chỉnh này chỉ đơn giản là việc thẩm phán đưa ra


GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 16 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
phán quyết theo lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của mình chứ không phải là sự
sáng tạo ra khuôn mẫu xét xử. Thứ hai là án lệ có thể bị sửa đổi bất cứ lúc nào bởi
một văn bản luật.
Tuy nhiên quan điểm này không phải lúc nào cũng được ủng hộ vì án lệ được
xem là một phương tiện hữu hiệu giúp đỡ cho hoạt động của thẩm phán, vì vậy
không thể không coi nó là nguồn pháp luật. Theo các nước trong hệ thống Thông
luật và một số các nước khác coi án lệ là một nguồn của luật pháp thì án lệ chính là
một nguồn hợp pháp của luật như là luật thành văn và tập quán.
1.3.3 Mối quan hệ của án lệ với các nguồn khác của pháp luật
* Mối quan hệ giữa án lệ và luật thành văn
Mối quan hệ giữa án lệ và luật thành văn ban đầu đã được nhìn nhận như một
sự trái ngược và thù địch. Có nhiều quan điểm cho rằng luật thành văn đã bị cạnh
tranh bởi án lệ, còn án lệ đã bị đánh bại bởi luật thành văn, vì luật thành văn luôn
luôn có thể phá vỡ án lệ ngay cả những án lệ ổn định nhất. Tuy nhiên án lệ vẫn được
xem là nguồn quan trọng của pháp luật và có mối quan hệ mật thiết với văn bản
pháp luật. Việc cạnh tranh thật sự hay tiềm ẩn giữa luật thành văn đã được xoa dịu
đi bằng tính hợp tác và tính bổ sung được chấp nhận bởi cả hai bên. Một án lệ được
sử dụng lâu dài có thể được xem như một sự nghiệm thu ngầm của nhà làm luật,
thậm chí như là sáp nhập, hòa trộn với luật thành văn và trở thành một phần của các
văn bản pháp luật được thẩm phán giải thích. Sự pháp điển hóa một án lệ là dấu
hiệu hợp tác giữa hai nguồn này. Đồng thời việc giải thích hợp lý một quy phạm

pháp luật có đa nghĩa nhưng chỉ theo một nghĩa trong một thời gian dài cũng được
coi là án lệ và đó chính là sự bổ sung cho nhau của hai mặt này. Vì vậy mà trong
các thang bậc nguồn, có nhiều luật gia đi đến đặt cho án lệ và luật thành văn trên
cùng một sơ đồ và có giá trị ngang bằng nhau.
* Mối quan hệ giữa án lệ và tập quán pháp
Án lệ có nhiều nét tương đồng với tập quán pháp và cũng bao gồm các yếu tố
như: áp dụng nhiều lần và sự nhắc lại cần thiết. Đồng thời cũng có thể thấy trên thực
tế, một án lệ được áp dụng nhiều và được công nhận rộng rãi thì cũng có thể trở
thành tập quán pháp. Thêm vào đó, nếu một tập quán pháp được tòa án thừa nhận
rộng rãi trong hoạt động xét xử của mình thì tập quán đó cũng có thể được xem là
đã trở thành một án lệ.
* Mối quan hệ giữa án lệ và học thuyết
Điều này hơi khó nhìn nhận vì không phải lúc nào các học thuyết cũng được
coi là nguồn của pháp luật. Tuy nhiên, án lệ và học thuyết lại luôn có mối quan hệ

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 17 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
qua lại với nhau. Bởi vì án lệ xuất hiện theo sự tiếp cận mang tính cá nhân xuất phát
từ thẩm phán, mà thẩm phán cũng là một luật gia, một con người nên không thể
không bị ảnh hưởng bởi một học thuyết nào đó. Vì vậy có thể nói học thuyết cũng
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên án lệ. Ngoài ra, việc nghiên cứu
án lệ cũng là một công tác quan trọng của tác giả học thuyết. Thông qua đó, án lệ
này được phân tích, được so sánh với các án lệ khác, được bình luận đôi khi là chỉ
trích, và được cân nhắc, đánh giá sự ảnh hưởng của nó. Từ đó, án lệ trở nên hoàn

chỉnh hơn và rõ ràng hơn. Hơn nữa, các học thuyết cũng đóng góp vào việc làm
sáng tỏ mối quan hệ của án lệ với các nguồn khác
1.3.4 Mối quan hệ của án lệ với giải thích pháp luật
Trong nhiều trường hợp, luật làm ra không được khúc chiết, rõ ràng gây ra
những khó khăn trong vấn đề áp dụng. Muốn hiểu rõ ý định của các nhà lập pháp
hoặc là tầm mức hiệu lực của các tập quán, cần phải có một sự giải thích về những
điều luật, những tập quán chưa rõ hoặc tối nghĩa đó. Và như lệ thường, toà án sẽ
đảm trách việc giải thích pháp luật trong khi xét xử các vụ kiện mỗi khi gặp phải
một điều luật tối nghĩa, hoặc khi các điều luật mâu thuẫn nhau, hoặc khi các tập
quán không được rõ ràng. Chính đường lối giải thích và áp dụng luật pháp của toà
án cho một sự kiện pháp lý, nếu ở các nước thông luật, sẽ được xem là một án lệ, và
án lệ này sẽ được đối chiếu áp dụng cho các trường hợp tương tự sau.
Ở Việt Nam, vấn đề giải thích pháp luật như trên, không phải và đã chưa tạo
ra án lệ. Vì án lệ còn cần nhiều điều kiện khác, như sự công nhận của nhà nước và
án lệ, như bản án của toà án nào thì được xuất bản trong tập án lệ, và nội dung bản
án đó phải liên quan đến vấn đề pháp luật trong một vụ việc cụ thể;… Và Việt Nam
đã không công nhận án lệ là một nguồn luật trong hệ thống pháp luật. Dù rằng có
quan diểm cho rằng, Việt Nam có án lệ, và đã công nhận án lệ, như theo quy định
tại điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:” Trong trường hợp pháp luật không
quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có
tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật…”. Việc thừa nhận áp dụng
tập quán và áp dụng quy định tương tự của pháp luật không có nghĩa, hay đồng
nghĩa với việc Việt Nam thừa nhận áp dụng án lệ, vì tập quán không là án lệ; và áp
dụng quy định tương tự của pháp luật càng không phải là án lệ- mục tiêu của áp
dụng pháp luật tương tự là đi tìm các quy phạm chứa giả định tương tự sự kiện xảy
ra để giải quyết nó bằng các quy phạm đó, còn mục tiêu của vịêc áp dụng tiền lệ
pháp (án lệ) là đi tìm các vụ án bằng cách so sánh các tình tiết vụ án nới những sự

GVHD: TS.Phan Trung Hiền


- 18 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
kiện đã xảy ra, nếu có sự tương tự giữa hai vụ án đó, thì sẽ áp dụng pháp quyết của
vụ án trước cho vụ án sau.
Như vậy, vậy giái thích pháp luật ở Việt Nam không tạo ra án lệ.
1.4 Án lệ trong các hệ thống pháp luật
Trước tiên, ta sẽ tìm hiểu về các hệ thống pháp luật trên thế giới
1.4.1 Các hệ thống pháp luật trên thế giới
Cộng đồng quốc tế hiện nay có hơn 239 quốc gia và mỗi nước có những luật

pháp riêng điều chỉnh hoạt động của cư dân và các mối quan hệ với bên ngoài.
Những hệ thống luật pháp quốc gia khác nhau đó có thể tập trung trong hai loại lớn
là hệ thống Dân luật và hệ thống Luật chung. Bên cạnh đó, cũng có hệ thống luật
Islam giáo đang được nhiều nước áp dụng.
Cũng cần lưu ý rằng tuy có ba hệ thống luật pháp chính là hệ thống Dân luật, hệ
thống Luật chung và hệ thống Luật pháp Islam giáo, trong thực tế vẫn có những
“biến tấu” đa dạng trong cùng một hệ thống, hoặc có nước vừa theo hệ thống này
vừa theo hệ thống kia. Ví dụ trong hệ thống Dân luật, có dân luật kiểu La Mã, dân
luật kiểu Đức, dân luật kiểu Châu Mỹ La Tinh. Trong lúc đó, hệ thống luật của Nhật
và Nam Phi thì lại có đặc điểm của cả hai hệ thống. Chưa kể rằng, tại một số nước
Phi Châu hiện nay, vẫn còn áp dụng luật phong tục của các bộ lạc từ thời hoang sơ.
1.4.1.1 Hệ thống dân luật La Mã– Đức (The Romano–Germanic Civil
Law System):
Đây là hệ thống luật pháp có lịch sử lâu đời nhất và cũng có ảnh hưởng nhiều
nhất đến các hệ thống luật pháp khác. Hệ thống này thường được gọi là hệ thống
Dân luật (Civil Law) hay hệ thống luật lục địa (Continental Law).

Lịch sử hình thành
Về phương diện lịch sử, hệ thống Dân luật xuất hiện từ năm 450 trước Tây
lịch, khi La Mã áp dụng hệ thống luật được ghi trong “ 12 bảng luật”. Nhưng sự
kiện có ý nghĩa nhất trong lịch sử phát triển của hệ thống Dân luật là công tác pháp
điển (chọn lựa, sắp xếp, đơn giản hóa) tất cả luật pháp La Mã được thực hiện dưới
thời Hoàng Đế Justinian (483 – 565). Sau khi được pháp điển, luật La Mã được
mang tên Bộ Dân luật (tiếng La tinh: Corpus Juris Civilis), ban hành năm 534. Đây
có thể xem là công trình luật pháp thành văn quan trọng đầu tiên của lịch sử loài
người. Khi những bộ tộc Đức (Germanic) xâm lăng đế quốc phía Tây Châu Âu, một
số qui định của luật La Mã đã được thay thế bằng luật bộ tộc Đức. Tuy nhiên, vì
tinh thần của luật Đức là căn cứ vào yếu tố cá nhân, không căn cứ vào yếu tố lãnh
thổ, nên dân chúng của đế quốc La Mã cũ cùng con cháu họ vẫn được phép sử dụng

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 19 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
luật La Mã. Giáo hội Công giáo La Mã cũng góp phần quan trọng trong việc duy trì
luật pháp La Mã cũ vì giáo luật, tức là luật dùng trong các Toà án của giáo hội, đã
được xây dựng theo luật La Mã.
Vào thế kỷ thứ 11 và 12 (thường gọi là thời Trung cổ), khi tìm được nguyên
văn Bộ Dân luật Corpus Juris Civilis, các học giả bắt đầu nghiên cứu và giải thích,
hiện đại hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình xã hội thời đó . Nơi
nổi tiếng nhất trong việc nghiên cứu, truyền bá Bộ dân luật La Mã này là các trường
đại học ở vùng Bắc nước Ý trong đó nổi tiếng nhất là trường Đại học Bologna. Từ
trường đại học này, các nhà luật học của các nước Châu Âu đã trở về nước của họ,

gieo rắc tư tưởng và nội dung của Dân Luật La Mã. Họ mở trường luật ở Paris,
Oxford, Prague, Heidelburg, Copenhague; họ làm luật sư cho giáo hội, cho các vua
chúa, và cho các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung theo
một nội dung , luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ Dân Luật của
nước họ xây dựng trên nền tảng chung là luật La Mã. Vào thời kỳ đầu của thời kỳ
phục hưng thế kỷ 13 – 14) ở Châu Âu, người ta đã dùng thuật ngữ Jus Common (là
luật chung) để chỉ luật của nước Châu Âu vì cùng có chung nền tảng là luật La Mã,
giáo luật, cùng các lời giải thích, bình luận của các chuyên gia luật La Mã.
Vào thời Phục hưng, nền kinh tế Châu Âu cũng bắt đầu phát triển sau một
thời gian dài trì trệ. Sự xuất hiện của các đô thị kéo theo sự thành lập chợ búa, hội
chợ thương mại, ngân hàng; sự phát triển nhanh chóng của hàng hải và giao dịch
thương mại đường dài đã mở ra những trung tâm thương mại lớn và nhu cầu phải có
luật pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh. Cả Luật La Mã và Luật bộ tộc của Đức
đều không đáp ứng được yêu cầu của hoạt động thương mại. (luật La Mã thì chủ
trương một đế quốc cai trị mọi người, luật bộ tộc Đức thì chỉ phù hợp với xã hội
nông nghiệp). Do đó, các thương gia đã tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh theo tập
quán của họ, lập ra tòa án riêng (gọi là toà chân đất, pepoudrous court ) để xét xử
việc kinh doanh giữa họ với nhau theo tiêu chuẩn thực tế và công bằng. Sau một
thời gian, những tập quán, qui tắc này được các tòa án của Nhà nước và giáo hội
chấp nhận, gọi là luật của thương gia (Law Merchant); được xem là luật quốc tế áp
dụng trong kinh doanh qua biên giới các quốc gia. Những nội dung của luật thương
gia cũng vượt biển qua áp dụng ở Anh, tuy rằng từ trước đó, Anh quốc đã không
chấp nhận luật La Mã. Nhiều qui định của luật thương gia ngày xưa hiện nay đã
được chấp nhận, đưa vào Công ước của Liên Hiệp Quốc về bán hàng quốc tế
(CISG) năm 1980.
Đến thế kỷ 16 và 17, trung tâm của luật học châu Âu được chuyển đến Pháp
và Hà Lan. Với tinh thần khoa học sáng suốt và ý thức quốc gia, giới luật học châu
GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 20 -


SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


Đề tài : Án lệ, cơ sở lý luận và thực tiễn
Âu đã tập trung nổ lực để xây dựng nền luật pháp quốc gia theo tinh thần của luật
La Mã cũ, mà theo họ không phải là do một quyền lực cao siêu nào đặt ra, mà chỉ là
những lẽ phải tự nhiên ( Universal law of nature). Hai bộ luật quốc gia có giá trị của
thời này là Bộ Dân Luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân Luật Đức năm 1896 . Bộ dân
Luật Pháp được đề cao và mô phỏng ở Hà Lan, Bỉ, Ba Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, La Tinh America, Phi Châu, Nam Sa mạc Sahara, Đông dương, và Indonesia.
Bộ Dân Luật Đức thì được theo ở Ao, Tiệp Khắc, Hy Lạp, Hungary, Thụy Sĩ , Nam
Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật, Hàn Quốc.
Đặc điểm của Dân Luật Pháp:
Bộ Dân Luật Pháp thường được gọi là Bộ Luật Napoléon do vai trò lãnh đạo
quan trọng của vị Hoàng Đế này đối với công việc soạn thảo. Nội dung của Bộ Dân
luật này phản ánh những tư tưởng cơ bản của cuộc Cách Mạng Pháp 1789: quyền tư
hữu, tự do ký kết hợp đồng và gia đình theo chế độ phụ hệ. Bộ Luật này cũng cố ý
phá vỡ chế độ phong kiến bằng cách hạn chế diện tích đất đai mua bán, di chúc và
thừa kế.
Đặc điểm thứ hai của Bộ Dân Luật Pháp là rõ ràng, trong sáng, dễ đọc và dễ
hiểu đối với tất cả mọi người.
Đặc điểm thứ ba là các nhà soạn luật đã nhận thức rằng họ không thể nào dự
liệu được mọi khả năng xảy ra; do đó, họ chỉ đưa ra những nguyên tắc tổng quát chứ
không đưa ra những qui định cụ thể.
Đặc điểm của Dân Luật Đức
Bộ Dân luật Đức được ban hành sau Bộ luật của Pháp sau gần một thế kỷ.
Một phần là do nước Đức được thành lập trễ, một phần khác là do sự làm việc quá
mức cẩn thận của nhóm các nhà luật học Đức do Frederick Carl Von Savigny
(1779 – 1869 ) lãnh đạo ( kéo dài việc nghiên cứu hơn 20 năm ).

Đặc điểm của Bộ Dân luật Đức là căn cứ sít sao theo bộ luật La Mã Corpus
Juris Civilis về tinh thần cũng như cách sắp xếp. Văn phong của Bộ Luật Đức có ưu
điểm là chính xác và kỹ thuật. Họ cũng sáng chế ra nhiều thuật ngữ đặc biệt về pháp
lý để sử dụng trong luật. Mỗi khái niệm pháp lý đều được định nghĩa và dùng một
cách nhất quán trong suốt Bộ luật. Về kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật luôn luôn
dùng cách tham chiếu lẫn nhau giữa các điều nên giúp cho bộ luật trở thành ngắn
gọn, và là một thể thống nhất, hợp lý. Khác với bộ Dân luật Pháp muốn trở thành
một quyển cẩm nang pháp luật cho mọi người, bộ Dân luật Đức được soạn thảo theo
tinh thần sách chuyên dùng cho giới chuyên môn.
Tóm tắt về hệ thống Dân Luật

GVHD: TS.Phan Trung Hiền

- 21 -

SVTH: Nguyễn Hồ Quốc Minh


×