Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại HOẠT ĐỘNG bào CHỮA THEO TIẾN TRÌNH cải CÁCH tư PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2006 - 2010

Đề Tài:

HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA THEO TIẾN TRÌNH
CẢI CÁCH TƯ PHÁP

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S Mạc Giáng Châu
Bộ môn Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Hà Thị Tuyết Hồng
MSSV: 5062251
Lớp: Thương Mại 1 - K32

Cần Thơ, 4/2009


LỜI CẢM ƠN
-----Sau bốn năm học tập tại trường Đại học Cần Thơ, em đã được quý thầy,
cô trong trường, trong khoa tận tình hướng dẫn và truyền đạt những kiến thức
giúp em vững tin bước vào đời.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả thầy, cô giảng dạy trong khoa Luật,
trường Đại học Cần Thơ, những người đã hết sức tận tâm truyền đạt kiến thức
chuyên môn và kinh nghiệm cuộc sống trong suốt quá trình học tập tại trường.


Qua đó, em có được nền tảng tri thức vững chắc cho tương lai. Nhất là sự giúp
đỡ tận tình của Cô Mạc Giáng Châu – cán bộ giảng dạy bộ môn Tư pháp, người
trực tiếp hướng dẫn, cung cấp những kiến thức và những tài liệu cần thiết cho
em trong suốt thời gian qua để hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.

Cần Thơ, ngày 22 tháng 4 năm 2010
Sinh viên thực hiện

Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

LỜI MỞ ĐẦU
-----1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật để góp phần bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đang ra sức thực hiện. Bởi lẽ,
con người là vốn quý của tự nhiên và của xã hội. Bảo vệ con người là mục tiêu của các
thiết chế Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền công dân
là tiêu chí đánh giá sự văn minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Trong những năm
qua, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực, tiếp sau việc tham
gia chính thức vào WTO - tổ chức thương mại toàn cầu thế giới, việc Việt Nam trở
thành ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc là một mốc
quan trọng, hết sức có ý nghĩa trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
của đất nước ta, khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Song song với việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng chăm lo xây

dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì
nhân dân, xây dựng một hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc phát triển các quyền tự
do dân chủ của công dân. Trong đó, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là một trong các quyền quan trọng của công dân khi họ tham gia với tư cách là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời, đây cũng là một nguyên tắc đặc thù của
luật tố tụng hình sự. Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ
vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giải quyết vụ án một cách chính xác,
khách quan, toàn diện và đầy đủ. Gắn liền và bảo đảm cho quyền bào chữa được thực
hiện trên thực tế chính là hoạt động bào chữa. Hoạt động này được thực hiện bởi người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa. Có thể nói hoạt động bào chữa xuất hiện
đồng thời với việc buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng
hình sự cho thấy hoạt động bào chữa chưa được bảo đảm thực hiện, nhiều Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn xem nhẹ, tình trạng oan sai vẫn tồn tại.
Trước tình hình đó, Đảng và Nước ta đã đề ra nhiều chính sách, chủ trương,
đường lối phù hợp và đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Trong đó, đáng quan tâm là

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới”, đây là Nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị đề cập một cách

toàn diện về nhiệm vụ cải cách tư pháp đề ra những định hướng, quan điểm chỉ đạo,
biện pháp cụ thể đối với cống tác tư pháp. Có thể nói, Nghị quyết 08 đã đem lại “sinh
khí mới” cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng
hình sự. Cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Nó vừa góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo đảm tính
công khai, khách quan, chính xác, vừa góp phần phòng chống oan sai, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp và tự do của công dân. Nghị quyết đã bước đầu thực hiện chủ trương
“tranh tụng” trong các phiên tòa, góp phần khắc phục tình trạng oan sai ngày một tăng
như hiện nay. Đây là chuyển biến mạnh mẽ cũng như là cơ sở cho hoạt động bào chữa
được thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả nhất. Nước ta đã và đang hòa mình sâu
rộng vào nền trường quốc tế. Điều này đòi hỏi các hoạt động pháp lý về hoạt động bào
chữa cũng phải đáp ứng yêu cầu hội nhập, đáp ứng những Công ước mà ta đã ký kết.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết 08 chỉ mới tập trung giải quyết những vấn
đề bức xúc nhất mang tính chất đặt nền móng cho tiến trình cải cách. Trong những
năm tới, công tác tư pháp còn đứng trước nhiều thách thức hơn, tình hình tội phạm tiếp
tục diễn biễn phức tạp, có chiều hướng gia tăng về thủ đoạn tinh vi, có tổ chức và nguy
hiểm hơn. Vì vậy, đòi hỏi công tác tư pháp phải tiếp tục được cải cách mạnh mẽ, toàn
diện, có hệ thống. Kế thừa và phát triển ở tầm cao mới của Nghị quyết 08, Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Định hướng nổi bật của Nghị quyết này xác định việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp, phải xoay quanh việc đổi mới tổ chức Tòa án và hoạt
động xét xử. Bên cạnh đó, Nghị quyết xác định rõ vị trí của người bào chữa, luật sư
trong hoạt động tố tụng, nhất là thực hiện “tranh tụng” trong xét xử. Đổi mới hoạt
động xét xử theo hướng tranh tụng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ
quyền công dân đồng thời hạn chế oan sai, làm oan người vô tội trong tố tụng hình sự.
Thế nhưng cho đến nay, dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những bước
tiến phù hợp với tinh thần cải cách, đảm bảo cho hoạt động bào chữa được thực hiện,
cũng như mở rộng hơn nữa về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
của người bào chữa nhưng hoạt động bào chữa vẫn chưa có những bước đột phá, chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa chưa có những chuyển biến mạnh mẽ đúng như tinh

thần cải cách mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Quyền bào chữa và việc được đảm bảo
thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại, nhiều khó khăn trở ngại.
Vì thế, vấn đề về hoạt động bào chữa cần được sự quan tâm hơn nữa nhằm làm
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

rõ thực trạng hiện tại về việc bảo đảm cho hoạt động bào chữa được thực hiện cũng
như đưa ra những thành tựu, hạn chế và phương hướng góp phần hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả hoạt động bào chữa, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là khâu
đột phá trong cải cách tư pháp, phù hợp với tình hình đổi mới hiện nay. Đây cũng
chính là lý do người viết chọn vấn đề “Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư
pháp” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nhiên cứu cơ sở lý luận, phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tiễn hoạt động bào chữa, mang tính chất tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm và những vấn đề liên quan đến hoạt động bào chữa theo tinh thần cải
cách tư pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu các vấn đề chung về hoạt động bào chữa trong bối cảnh cải cách tư
pháp. Làm rõ những thành tựu và khó khăn của hoạt động bào chữa từ những quy định
của pháp luật, cũng như từ thực tiễn. Từ những khó khăn, vướng mắc đó đề ra phương
hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa trong tiến trình cải

cách, bảo vệ quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đồng thời là bên đối
trọng với bên buộc tội, để từ đó Hội đồng xét xử có một bản án chính xác, khách quan,
không làm oan người vô tội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiếp cận và làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của đề tài, người viết
sử dụng một số phương pháp sau:
- Lịch sử;
- So sánh;
- Lô - gích;
- Thống kê;
- Phân tích tổng hợp, đối chiếu, thu thập tài liệu.
5. Kết cấu của đề tài
Luận văn ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì
nội dung chính của luận văn gồm ba Chương, cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động bào chữa và tiến trình
cải cách tư pháp. Trong chương này tác giả đề cập đến các vấn đề về cơ sở lý luận
như: Khái niệm về hoạt động bào chữa, người bào chữa, đặc điểm về bào chữa, người
bào chữa; khái niệm cải cách tư pháp, vấn đề cải cách tư pháp về hoạt động bào chữa;
cơ sở lý luận về quyền bào chữa, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, bản chất pháp
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp


lý của hoạt động bào chữa. Từ đó, tạo cở sở cho người viết nghiên cứu các vấn đề
pháp lý ở chương 2.
- Chương 2: Nội dung của hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp.
Trong chương này, người viết tập trung nghiên cứu các vấn đề theo quy định pháp luật
hiện hành liên quan đến hoạt động bào chữa đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp như:
Quyền bào chữa trong bối cảnh nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng, vị trí của
người bào chữa trong cải cách tư pháp
- Chương 3: Một số vấn đề tồn tại và phương hướng hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả hoạt động tranh tụng. Đối với nội dung của chương 3, tác giả khái quát một số
thành tựu, phân tích một số tồn tại và từ đó đưa ra các phương hướng hoàn thiện hoạt
động bào chữa trong tố tụng hình sự về lý luận, theo quy định của pháp luật và trong
hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực
tiễn áp dụng luật, từ đó đưa ra các kiện nghị hoàn thiện pháp luật. Việc nghiên cứu đề
tài về hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp là một phần cố gắng nhằm
góp phần làm rõ hơn nội dung về hoạt động bào chữa trong cải cách hiện nay của nước
ta. Nhưng với sự hiểu biết có hạn, năng lực trình bày còn non kém nên bài viết còn
nhiều thiếu sót và thời gian nghiên cứu có hạn, vì vậy mà rất cần có sự hướng dẫn, chỉ
dạy của quý thầy, cô và sự góp ý, xây dựng của các bạn.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA VÀ
TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
-----Để đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề về hoạt động bào chữa theo tiến
trình cải cách tư pháp, cần xác định rõ những vấn đề cơ sở lý luận về những khái niệm
về hoạt động bào chữa, về tiến trình cải cách tư pháp, lý luận về quyền bào chữa. Từ
đó, tạo cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu những vấn đề mang tính pháp lý về hoạt
động bào chữa trong tố tụng hình sự, cũng như trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện
nay.
1.1. Những khái niệm cơ bản về hoạt động bào chữa và tiến trình cải cách tư
pháp
Cải cách tư pháp đã được thực hiện trong nhiều năm qua, nâng cao hiệu quả
hoạt động bào chữa là một trong những nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách
tư pháp. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung về cải cách tư
pháp, cũng như về hoạt động bào chữa. Vì vậy, cần phải có những khái niệm chung về
những vấn đề trên.
1.1.1. Khái niệm về hoạt động bào chữa
Hoạt động bào chữa là hoạt động được thực hiện người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo và người bào chữa. Họ được pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ, nhằm
đảm bảo cho họ thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi của người bị tình nghi.
Những khái niệm xung quanh hoạt động bào chữa là những khái niệm về bào chữa,
quyền bào chữa, về người bào chữa cần được làm rõ.
1.1.1.1. Khái niệm về bào chữa và quyền bào chữa
 Khái niệm
Trong lịch sử pháp luật đã thừa nhận nhiều cách bào chữa khác nhau, nhưng ở
những chế độ khác nhau, quan điểm giai cấp sẽ không giống nhau, trong mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử thì có các quan niệm khác nhau về vấn đề bào chữa.
Ở thời cổ đại xa xưa, khi có một người bị nghi ngờ là phạm tội thì họ được bào
chữa bằng cách trói chân, trói tay rồi quẳng xuống nước mà không chìm thì họ được

coi là vô tội hoặc nhúng tay vào nước sôi mà không bị bỏng thì cũng được coi là vô
tội. Cách bào chữa mong manh theo ý trời này đối với số phận con người thật chất là
lời buộc tội họ hùng hồn nhất, vì dù có vô tội họ cũng cầm chắc trong tay một bản án

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

kết tội, khó có thể bào chữa được (1). Sống trong cộng đồng, một xã hội có tổ chức, con
người đôi khi không tránh khỏi những sai lầm, những hành vi trái với tập tục, quy tắc,
chuẩn mực sống của cộng đồng, và một khi đã vi phạm những quy tắc chung đã được
mọi người công nhận thì sẽ bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế. Đương nhiên là họ
không dễ dàng chấp nhận sự buộc tội đó và để bác lại sự buộc tội họ sẽ dùng lý lẽ, đưa
ra chứng cứ để bảo vệ chính họ thoát khỏi hay được giảm nhẹ tội mà họ đã gây ra.
Ở Việt Nam, trải qua một thời kỳ dài đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Việt
Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa ra đời đã thừa nhận cho con người khi bị buộc tội được
quyền bảo vệ cho mình bằng hoạt động bào chữa, hoặc nhờ người khác bảo vệ cho
mình. Hoạt động bào chữa ngày một hoàn thiện, phù hợp với kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự. Bào chữa là một trong những hoạt
động đặc trưng của tố tụng hình sự, là hình thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm
đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Để xây dựng một xã hội công
bằng văn minh thì yêu cầu đặt ra đối với cơ quan tiến hành tố tụng trước hết là phải
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, trong đó
không thể không kể đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Hoạt động bào chữa này được hiểu cụ thể qua các quan niệm xung quanh vấn đề
bào chữa.
Thứ nhất, hành vi bào chữa được thực hiện bởi các chủ thể: người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa” (Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Thứ hai, bào chữa là dùng lí lẽ, chứng cớ để bên vực cho một đương sự nào đó
thuộc một vụ án hình sự(2) . Để xác định tình trạng vô tội của bị cáo trước phiên tòa.
Nội dung của việc bào chữa có thể là bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc tội, tranh
luận từng điểm buộc tội, xuất trình chứng cứ làm giảm nhẹ tội cho bị can.
Thứ ba, bào chữa bằng lí lẽ là đưa ra những căn cứ để giải quyết đúng sai, phải
trái, lí lẽ phải xác đáng. Bào chữa bằng cách đưa ra chứng cứ cụ thể như lời nói, việc
làm, vật làm chứng, tài liệu…để làm sáng tỏ điều gì có thật. Từ những lí lẽ và chứng
(1)

Xem: Họ vẫn chưa bị xem là có tội - Nxb Pháp lý 1989 - Vũ Đức Khiển, Phạm Xuân Chiến, trang 50

(2)

Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn –
2005, trang 90.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng



Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

cứ đưa ra để chứng minh, làm cho thấy rõ sự thật, là đúng sự việc hoặc lí lẽ dùng suy
luận lô-gich vạch rõ một điều gì đó là đúng.
Thứ tư, mục đích cuối cùng của hành vi bào chữa chính là xác định tình trạng
vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý cho người bị tình nghi bị cho là có một hành
vi phạm pháp luật hay có căn cứ cho rằng người này đã vi phạm pháp luật hình sự.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về bào chữa như sau: “bào
chữa chính là dùng lý lẽ, đưa ra chứng cứ chứng minh cho sự không có tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan
tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự”.
 Đặc điểm về quyền bào chữa
Thứ nhất, chủ thể của quyền bào chữa là người bị tình nghi. Theo quy định tại
Chương IV của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 những người tham gia tố tụng cụ thể
là:
 Người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án
là: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
 Người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý là: người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch.
 Người tham gia tố tụng để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố tụng
khác là: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Người bị tình nghi là người bị cơ quan Nhà nước có thẩm cho là có hành vi vi
phạm hay có căn cứ xác định người đó vi phạm pháp luật hình sự. Một hành vi không
mặc nhiên bị xem là phạm tội vì nó gây tổn hại hay sai trái. Một hành vi chỉ cấu thành
tội phạm thật sự khi hành vi đó vi phạm một cách cụ thể đạo luật hình sự, hành vi đó

được điều chỉnh bởi pháp luật hình sự. Trong phạm vi là người bị tình nghi, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra nhằm tìm ra sự thật.
Người bị tình nghi có thể bị bắt giữ, hoặc bị áp dụng các biện pháp như bắt người khẩn
cấp… Như vậy, có thể khẳng định trong những người tham gia tố tụng nêu trên chỉ có
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị tình nghi. Đối với người bị tạm giữ, ngay
từ khi bị tạm giữ, mặc dù chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, người bị tạm giữ có
quyền trình bày về những tình tiết, vấn đề liên quan đến việc mà họ bị nghi thực hiện
tội phạm (Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) (3). Qua quá trình điều tra, nếu có
đủ cơ sở để xác định khởi tố vụ án và lúc này người bị tạm giữ sẽ trở thành bị can,
(3)

Người bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

theo khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự thì: “bị can là người bị khởi tố về vụ án
hình sự”, dù đã bị khởi tố nhưng bị can vẫn chưa bị xem là có tội vẫn còn trong giai
đoạn chứng minh, tìm chứng cứ và cho đến lúc xét xử thì bị cáo vẫn chưa bị xem là có
tội, vấn đề có tội hay không vẫn còn phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án trong quá
trình xét xử. Khoản 1 Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Bị cáo là người đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là tên gọi của cùng

một người trong các giai đoạn khác nhau trong quá trình tố tụng. Bị can, bị cáo vẫn là
người bị tình nghi nhưng lúc này sự tình nghi đối với họ cao hơn, có phần chắc chắn
hơn. Một người thực hiện hành vi phạm tội nếu họ chưa bị tòa án kết án thì họ chưa bị
coi là có tội. Ngay cả khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án và kết án bị cáo phạm vào một
tội nào đó quy định tại Bộ luật hình sự và áp dụng hình phạt đối với họ thì cũng không
vì thế mà cho rằng họ đã là người bị coi là có tội, mà chỉ khi nào bản án có hiệu lực
pháp luật thì họ mới bị coi là có tội, “không ai bị xem là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 Bộ luật tố
tụng hình sự). Nguyên tắc này đòi hỏi các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng phải tạo điều kiện để bị cáo và người bào chữa cho bị cáo được sử
dụng các biện pháp do luật định để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoặc
giảm bớt trách nhiệm bồi thường thiệt hại và những gì có lợi cho bị cáo.
Khác với những người tham gia tố tụng khác, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội
này thường gắn với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc phải chịu trách nhiệm
hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường hợp buộc
tội đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn có những trường hợp
buộc tội oan. Do vậy, họ được quyền bào chữa là một yêu cầu khách quan trong hoạt
động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách
quan. Có thể nói buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở đâu có sự buộc tội (hay
bị tình nghi) thì ở đó có bào chữa. Những người tham gia tố tụng khác không bị buộc
tội hay đúng hơn là không có sự tình nghi liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên
vấn đề bào chữa không đặt ra cho họ, họ chỉ là những người có quyền và lợi ích liên
quan trong vụ án. Nếu những quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm thì họ có quyền
bảo vệ bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật nhưng đó không phải là hoạt
động bào chữa, quyền và lợi ích đó được bảo vệ bởi người bảo vệ quyền lợi của đương
sự (Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự) và như vậy bào chữa chỉ thuộc về đối tượng bị
tình nghi hay chính là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thứ hai, quyền bào chữa chỉ xuất hiện trong tố tụng hình sự. Một đặc điểm đặc
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu


8

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

trưng của thuật ngữ “bào chữa” là chỉ dùng trong tố tụng hình sự. Vì bản chất của
quyền bào chữa là chỉ bảo vệ cho người bị tạm giữ, bị can ,bị cáo, người bị kết án.
Ngoài ra, một người bị coi là có lỗi hành chính, lỗi kỹ luật, lỗi dân sự thì họ có quyền
gọi là quyền bảo vệ mà không gọi là quyền bào chữa. Trong các tranh chấp dân sự thì
các chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm, họ đều cho rằng phần đúng thuộc về
mình. Đối với các tranh chấp dân sự chỉ có yếu tố lỗi chứ không có yếu tố có tội. Có
tội là khái niệm chỉ thuộc tính của chủ thể mà ở đây là con người, là tính từ chỉ tính
chất của một sự vật, hiện tượng; người có tội hay bị coi là có tội là sự đánh giá của xã
hội đối với một con người, cũng như ta thường nói người này tốt, người kia xấu. Tuy
nhiên sự đánh giá một con người có tội chỉ có Tòa án mới có quyền, ngoài Tòa án
không một cơ quan hay một cá nhân nào có quyền này. Vì vậy không thể dùng khái
niệm “quyền bào chữa” chung chung để ám chỉ cả “quyền bảo vệ” của đương sự và tất
nhiên cũng không thể đồng nhất khái niệm “quyền bào chữa” trong tố tụng hình sự với
“quyền bảo vệ” quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong mối quan hệ giữa
“quyền bảo vệ” quyền và lợi ích hợp pháp của công dân với “quyền bào chữa” trong tố
tụng hình sự là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, nội hàm của chúng không thể
đồng nhất với nhau.
Thứ ba, quyền bào chữa là một trong các bộ phận cấu thành quyền công dân để
bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Người bị tình nghi là người chưa bị xem là có tội
nên họ vẫn được bảo đảm các quyền công dân, tuy nhiên sẽ có những hạn chế nhất

định như họ đang bị tạm giữ. Quyền công dân là một quyền Hiến định nên cần phải có
cơ chế bảo đảm cho người bị tình nghi được thực hiện các quyền công dân của họ và
đó là quyền bào chữa, quyền này tạo cơ sở để họ được bảo đảm thực hiện các quyền
công dân của mình. Vì vậy, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng quyền bào chữa của
mình đưa ra các tình tiết và chứng cứ chứng minh cho sự không có tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm pháp lý của mình trong tố tụng hình sự trước Cơ quan tiến hành tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm người bào chữa
 Khái niệm
Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại Chương IV Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng
đặc biệt. Tuy nhiên cho đến nay trong lí luận và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có
khái niệm chính thức và thống nhất về người bào chữa.
Như đã phân tích ở trên, quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nhằm bảo vệ
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những người này được quyền sử dụng các biện
pháp do pháp luật quy định để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình và bình đẳng với
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa (Điều
19 Bộ luật tố tụng hình sự). Nhưng trong thực tế, do hạn chế về trình độ hiểu biết về
pháp luật nên họ không thể thực hiện một cách đầy đủ các quyền đó (như các quyền:
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, quyền có

ý kiến về bản cáo trạng, quyền yêu cầu mời thêm nhân chứng,…). Những quyền nói
trên dễ trở thành hình thức, ít có hiệu quả nếu không có sự giúp đỡ của người bào chữa
bởi vì người bào chữa là người am hiểu pháp luật và có nhiều kinh nghiệm vận dụng
pháp luật trong thực tiễn xét xử để đảm bảo công lý. Chính vì vậy có thể khẳng định
công việc của người bào chữa là thực hiện công việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, đó là trách nhiệm là nghĩa vụ của người bào chữa.
Mục đích sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình là bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ họ khỏi sự vi
phạm có thể có từ phía những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
khác. Khi tham gia tố tụng hình sự, trong phạm vi được pháp luật cho phép người bào
chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện các hành vi tố tụng khác nhau nhằm bảo vệ
cho người bị buộc tội một cách có hiệu quả. Khi làm công tác bào chữa, người bào
chữa luôn chú trọng thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân; bảo vệ sự thật và pháp luật, nên họ không coi nhẹ một nhiệm vụ nào
trong hai nhiệm vụ đó. Nếu chỉ chú trọng đến quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo mà coi nhẹ pháp luật và sự thật thì dễ đi đến chỗ ngụy biện thậm chí gian dối,
xuyên tạc sự thật và pháp luật. Ngược lại, nếu chỉ chú trọng bảo vệ pháp chế thì dễ đi
đến việc biến mình thành “công tố” buộc tội tại phiên tòa.
Người bào chữa tham gia tố tụng với chức năng, nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong quá trình tố tụng, người bào chữa tìm ra những
chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ và giúp đỡ họ về những
vấn đề pháp lý cần thiết. Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can”. Sự tham gia tố tụng ngay từ khi khởi
tố bị can không những có lợi cho bị can trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ,
giúp đỡ họ những vấn đề pháp lý cần thiết mà còn góp phần bảo đảm cuộc điều tra
khách quan, đầy đủ, chính xác…
Như vậy, việc người bào chữa tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào
cũng nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi, bảo vệ quá
trình tố tụng và không có quyền lợi liên quan. Tuy nhiên, người bào chữa không
đương nhiên tham gia tố tụng, mà khi được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người

đại diện hợp pháp của họ lựa chọn (khoản 1 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

2003) và được cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp giấy chứng nhận
người bào chữa, thì mới xuất hiện người bào chữa tham gia tố tụng hình sự. Trong
trường hợp đặc biệt do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định (khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003), nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời người bào chữa thì các Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử
người bào chữa và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa
cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội, đồng thời để được tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa thì phải được Cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng
nhận bào chữa.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người bào chữa trong tố
tụng hình sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố
tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; giúp người bị tạm giam,bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
 Đặc điểm về người bào chữa
Thứ nhất, người bào chữa phải được chấp nhận tham gia tố tụng bởi người bị
tình nghi và Cơ quan tiến hành tố tụng:
Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo. Các chủ thể này được quyền sử dụng tất cả các biện pháp gì mà pháp luật
không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án. Bào chữa là một
trong những chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình tiến hành giải quyết
vụ án hình sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Trong thực tiễn vì những lý do khác nhau nên không phải bất cứ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả. Quá trình
giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều vấn đề pháp lý của luật nội dung cũng như của
luật tố tụng như hành vi truy tố có dấu hiệu tội phạm hay không, lỗi cố ý hay vô ý,
chứng cứ của bên buộc tội có hợp lý hay không,... Do vậy, pháp luật tạo điều kiện cho
họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng việc có thể nhờ người khác bào chữa cho
mình. Quyền nhờ người khác bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình, và
ngay khi đã nhờ người khác bào chữa thì điều này cũng không làm mất đi quyền tự
bào chữa của họ. Thông thường sự tham gia của người bào chữa phụ thuộc vào ý chí
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ có thể trực tiếp mời người bào chữa hoặc ủy
quyền cho người thân của mình mời người bào chữa, đương nhiên người bào chữa
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

phải được các Cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì mới được
tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên,

trong một số trường hợp các Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ cử người bào chữa quy định
tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Trong những trường hợp sau
đây, nếu bị can, bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào
chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên
của tổ chức mình:
a)Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được
quy định tại Bộ luật hình sự;
b)Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.”
Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là quyền của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo chứ không phải là nghĩa vụ. Cho nên ngay khi các Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ
định người bào chữa thì họ vẫn có quyền từ chối, việc bào chữa chỉ định cũng cần sự
thể hiện ý chí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa được cử cho họ (Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự). Vậy bất luận
người bào chữa tham gia tố tụng trong trường hợp được mời hay được chỉ định từ phía
Cơ quan tiến hành tố tụng đều phải được sự đồng ý nhất chí của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, người bào chữa là người không có quyền và lợi ích trong vụ án hình
sự:
Người bào chữa là một trong những người tham gia tố tụng, có địa vị pháp lý
riêng, không phụ thuộc vào địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Từ
“tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. Người bào chữa chỉ góp phần
hỗ trợ cho hoạt động tư pháp, giúp cơ quan tiến hành tố tung xử lý và giải quyết vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định có tội,
những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của bị can,
bị cáo.
Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự cần thiết trước tiên bởi
vai trò của họ trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của những

người bị tình nghi, trong thực tế không chỉ bảo đảm tính dân chủ của luật tố tụng hình
sự Xã hội chủ nghĩa mà đi xa hơn nữa là chính vai trò của người bào chữa đã tạo ra
điều kiện để tố tụng hình sự đạt được những mục đích đặt ra trong đó có mục đích bảo
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quan niệm của luật
Việt Nam hiện nay người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng được hiểu là “người
bổ trợ tư pháp”, là người trợ giúp về mặt pháp lý. Vì vậy, việc người bào chữa tham
gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đó là mục đích quan trọng mà người bào
chữa muốn hướng đến, và đó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là vấn đề về đạo đức.
 Tiêu chuẩn của người bào chữa
Trong những người tham gia tố tụng nói trên thì luật sư là người bào chữa
chuyên nghiệp. Theo quy định của Luật Luật sư ngày 29/6/2006, người được hành
nghề luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện: “là công dân Việt Nam trung thành
với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử
nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có
sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư” (Điều 10 Luật Luật sư 2006). Ngoài ra, để
người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 hành nghề luật sư thì phải có chứng chỉ
hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư (Điều 11 Luật Luật sư 2006).
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng được xác

định là người bào chữa trong tố tụng hình sự. Để bảo đảm quyền và lợi ích của những
người tham gia tố tụng đồng thời để việc tham gia tố tụng của họ vào quá trình giải
quyết vụ án đạt hiệu quả, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có những quy định cụ thể về
các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, yêu cầu các cơ quan Tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải tôn trọng và thực hiện. Tuy nhiên,
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 lại chưa quy định về tư cách của người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Đối với bào chữa viên nhân dân, có thể nói chức danh bào chữa viên nhân dân ở
nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh 69 do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ban hành ngày 18/6/1949. Sắc lệnh này cho phép các bị can có thể nhờ một công dân
không phải là luật sư bênh vực cho mình trước các Tòa án, sau này gọi là các bào chữa
viên nhân dân. Theo quy định tại Nghị định Số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ
Tư pháp, điều kiện trở thành bào chữa viên nhân dân bao gồm: có quốc tịch Việt Nam,
không phân biệt đàn ông hay đàn bà, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa có can
án….Việc ban hành Sắc lệnh Số 69 thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt xuất thân, dân tộc, giai cấp…Tuy
nhiên, cho đến nay chế định bào chữa viên nhân dân vẫn chưa có quy định nào cụ thể
chi tiết về điều kiện, tiêu chuẩn để được công nhận là bào chữa viên nhân dân như
Nghị định 01 năm 1950 nói trên như thế nào cho phù hợp với tình hình hiện nay.
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp


Bằng hoạt động của mình người bào chữa góp phần bảo vệ các quyền cơ bản
của con người, thực hiện công bằng xã hội mà còn góp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức; góp
phần vào giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, góp phần thực hiện
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
1.1.2. Khái niệm về cải cách tư pháp
Nghị quyết 08-NQ/TW đã đặt nền móng đầu tiên về vấn đề cải cách tư pháp ở
tầm Nghị quyết. Đã qua tám năm thực hiện, chủ trương của Đảng đặt ra, chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một
khái niệm chính thức về cải cách tư pháp, cũng như xác định tầm quan trọng của vấn
đề này. Từ đó, đã dẫn đến những cách hiểu không thống nhất, vẫn còn những thiếu sót
không tránh khỏi, do vẫn chưa xác định đúng tầm quan trọng của vấn đề cải cách tư
pháp mà Đảng ta đã đặt ra. Trong tổng thể, những vấn đề về cải cách, không thể không
nói đến nội dung về hoạt động bào chữa và đây cũng là một trong những nội dung
trọng tâm của công tác cải cách
1.1.2.1. Khái niệm
Nói đến tư pháp là nói đến công tác xét xử và những hoạt động phục vụ hoặc
liên quan trực tiếp tới hoạt động xét xử. Tư pháp với nghĩa phán xử xuất hiện từ rất
sớm như là nhu cầu tất yếu của đời sống cộng đồng con người. Bởi lẽ, trong quá trình
hoạt động sản xuất, trao đổi sinh hoạt cùng nhau con người không tránh khỏi những
tranh chấp, họ cần được phán xử, giải quyết công bằng giữa các bên. Hay khi các bên
có tranh chấp mà không tự giải quyết được thì họ có nhu cầu tìm đến người mà họ cho
là vô tư khách quan, có khả năng đưa ra những kết luận đúng đắn, công bằng và được
các bên chấp nhận để nhờ phân xử. Tất nhiên, bên cạnh hoạt động xét xử của Tòa án,
hoạt động tư pháp còn bao gồm một số hoạt động khác như công tố, điều tra tư pháp,
giám sát tư pháp…các cơ quan thực hiện các hoạt động này đều là những bộ phận
thuộc Tòa án. Trong những năm đầu giành chính quyền, việc thực hiện quyền công tố
cũng do Tòa án thực hiện, mặc dù có sự phân công giữa Thẩm phán xét xử và Thẩm
phán buộc tội. Các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung
năm 2001) không quy định cụ thể về cơ quan tư pháp. Riêng Hiến pháp năm 1946 ở

chương VI có quy định riêng về cơ quan tư pháp bao gồm “Tòa án tối cao, các Tòa án
phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp” (Điều 63)
Trong pháp luật Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về quyền tư pháp.
Trên cơ sở phân tích nội hàm của khái niệm quyền tư pháp chúng ta có thể đưa ra khái

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

niệm cải cách tư pháp. Quyền tư pháp có thể được hiểu trên hai bình diện nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là quyền xét xử của hệ thống Tòa án nói riêng,
cũng như hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Bộ tư pháp, Thanh tra,…) và của hệ thống bổ trợ tư pháp (Tổ chức
Luật sư, Cơ quan Công chứng, Giám định,…).
Theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án và được thực hiện
bằng hoạt động tố tụng về Hiến pháp, Hình sự, Hành chính, Dân sự, Kinh tế,…để giải
quyết các xung đột của các mối quan hệ xã hội và đưa ra phán quyết nhân danh công
lý.
Cải cách tư pháp là một phạm trù chính trị - pháp lý mà từ trước đến nay vẫn
chưa có một khái niệm chính thức về cải cách tư pháp. Từ phân tích về quyền tư pháp
nêu trên có thể hiểu cải cách tư pháp cũng trên hai bình diện theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.

Theo nghĩa rộng, cải cách tư pháp là việc đổi mới toàn bộ hệ thống Tòa án, hệ
thống các cơ quan bảo vệ pháp luật và hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp, cũng như
những hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của ba hệ thống cơ quan này, đồng thời
hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan.
Theo nghĩa hẹp, cải cách tư pháp là đổi mới chỉ có hệ thống, hoạt động thực
tiễn của Tòa án và đội ngũ Thẩm phán, đồng thời hoàn thiện các quy định pháp luật
liên quan.
Dựa theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020”, có thể hiểu cải cách tư pháp là việc đổi mới toàn bộ
hệ thống Tòa án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật và hệ thống các cơ quan bổ trợ
tư pháp, cũng như hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của ba hệ thống này. Như
vậy, thống nhất hiểu các khái niệm “tư pháp”, “cải cách tư pháp” theo nghĩa rộng
cho phù hợp với tinh thần của Nghị quyết.
1.1.2.2. Tính tất yếu của quá trình cải cách tư pháp
Vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam đã được bàn và thực hiện trong nhiều năm
qua. Cụ thể từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng ta, chủ trương đổi mới toàn
diện đất nước được được đặt ra và triển khai, trong đó có đề cập đến “tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trọng tâm là cải
cách hành chính Nhà nước”. Vì vậy, cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan và cấp
thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về kinh tế, hệ thống chính trị…Vấn đề này
được ghi nhận trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp


NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
Thời gian qua, hệ thống cơ quan tư pháp đã góp phần quan trọng vào việc giữ
vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích của cả tổ chức, công dân. Nhưng thực tế, công tác này cũng còn một số hạn chế
về chính sách, chế định; tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động
của các cơ quan còn bất hợp lý; cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu và một bộ
phận còn yếu về trình độ, bản lĩnh chính trị, thậm chí một số còn suy thoái về đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn thiếu thốn, lạc
hậu, nhất là vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt giam giữ, truy tố, xét xử.
Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp hình sự đang đứng
trước nhiều thách thức. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu
quả ngày càng nghiêm trọng, nguy hiểm hơn cho xã hội: phạm tội có tổ chức, tội phạm
xuyên quốc gia, tội phạm trong các lĩnh vực về công nghệ, tội phạm liên quan đến ma
túy có chiều hướng gia tăng…Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh
tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng
tăng về số lượng và phức tạp đa dạng. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ
quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm.
Trong bối cảnh hiện nay, với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh
tế khu vực và quốc tế, pháp luật ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong
việc điều hòa mối quan hệ giữa hai yếu tố: tăng trưởng kinh tế và trật tự xã hội. Đòi
hỏi pháp luật cũng phải thay đổi.
Với những tồn tại, khuyết điểm nêu trên đòi hỏi cải cách tư pháp phải được tiến
hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.
1.1.2.3. Vấn đề cải cách tư pháp về hoạt động bào chữa
Nằm trong tổng thể các vấn đề về cải cách tư pháp, thì vấn đề đổi mới hoạt
động bào chữa cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm “nâng cao chất lượng tranh

tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”(4). Tranh
tụng là tranh luận làm rõ sự thật khách quan, chất lượng tranh tụng tốt làm nên phiên
tòa tốt. Đổi mới hoạt động xét xử theo hướng tranh tụng cần phải chú ý đến các vấn đề
sau: phải chú trọng đến quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự; tăng cường
(4)

Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

chế định luật sư bằng cách tăng số lượng và chất lượng của luật sư, cho họ tham gia từ
đầu của quá trình tố tụng với quyền được thu thập chứng cứ; công tố viên và luật sư
phải được phép tranh luận tự do tại phiên tòa, hỏi trực tiếp nhân chứng, bác bỏ vật
chứng… và dĩ nhiên, các ý kiến của họ phải được tôn trọng, xem xét thích đáng; việc
hỏi cung bị can chỉ được tiến hành khi có mặt của luật sư.
Để hoạt động tranh tụng thật sự đạt hiệu quả theo tinh thần cải cách, đòi hỏi
hoạt động trạnh luận giữa kiểm sát viên và người bào chữa phải ngày càng được nâng
cao cả về trình độ cũng như kỹ năng. Trong đó vai trò của người bào chữa đăc biệt
quan trọng, về phương diện Nhà nước: hoạt động bào chữa góp phần quan trọng cho
các hoạt động của hệ thống tư pháp khách quan; nhanh chống và đúng pháp luật, về
phương diện quyền công dân: hoạt động bào chữa góp phần bảo vệ một cách hữu hiệu

các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đảng và Nhà nước ta cũng chủ trương trong giai đoạn hiện nay cần nâng cao
vai trò của người bào chữa hơn nữa trong tiến trình tham gia tố tụng, bảo đảm vị trí
cân bằng của người bào chữa và bên công tố khi tham gia xét xử. Hoàn thiện cơ chế
bảo đảm để người bào chữa thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác
định rõ chế độ trách nhiệm đối với người bào chữa đặc biệt là đối với đội ngũ luật sư.
Những chủ trương của Đảng và Nhà nước là thật sự cần thiết để nâng cao vai trò cũng
như chất lượng hoạt động bào chữa.
1.2. Cơ sở lý luận về quyền bào chữa
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, là quyền Hiến
định. Quyền này ngày càng được mở rộng và bảo đảm thực hiện. Bản chất hoạt động
bào chữa là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi và góp phần
bảo vệ hoạt động tố tụng, cũng như bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm quyền
này chính là đảm bảo tính khách quan, công bằng của hoạt động tố tụng.
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là tất cả các quyền tố tụng mà pháp luật
quy định cho họ để bảo vệ họ trước mọi sự buộc tội và được họ sử dụng để bác bỏ sự
buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình. Việc bảo đảm quyền bào chữa không chỉ biểu hiện tính dân
chủ mà còn là điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng đạt kết quả cao.
Do tầm quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp quy định và là nguyên tắc cơ
bản trong Bộ luật tố tụng hình sự. Bất kỳ sự vi phạm nào về nguyên tắc này trong qua
trình giải quyết vụ án hình sự đều có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới hậu

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng



Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

quả xấu không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của
các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng và uy tín của Nhà nước nói chung
1.2.1.1. Luật Hiến pháp
Với tư cách là một đạo luật cơ bản của Nhà nước, Luật Hiến pháp quy định
những vấn đề quan trọng như bản chất Nhà nước, cách thức tổ chức quyền lực Nhà
nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân….Mang tính nguyên tắc và làm cơ sở cho các ngành luật khác trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong lĩnh vực Hiến pháp, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là một công dân đặc biệt. Và vấn đề về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được điều chỉnh dưới góc độ là phạm trù của quyền con người. Do vậy,
Luật Hiến pháp bảo đảm quyền bảo chữa của họ bằng việc quy định các quyền cơ bản
của họ. Đồng thời, Luật Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Việc Hiến pháp ghi nhận quyền bào chữa của họ càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của
chế định này.
Lịch sử xây dựng và trưởng thành của chính quyền nhân dân đã được đánh dấu
bằng bốn bản Hiến pháp, gọi theo năm ra đời: Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1959, Hiến
pháp 1980, Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001). Có thể thấy rằng quyền bào chữa
đều được bốn bản Hiến pháp quy định, chứa đựng trong chương “Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân”, riêng Hiến pháp 1946 là ở chương “Cơ quan tư pháp”.
Nhưng xuất phát từ điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau trong từng
thời kỳ mà mỗi Hiến pháp dành những quy định không giống nhau đối với quyền bào
chữa. Hiến pháp tiếp theo ra đời là sự kế thừa, phát triển những hạt nhân hợp lý của
các Hiến pháp trước và bổ sung thêm những quy định mới nhằm hoàn thiện chế định
pháp lý về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam kiểu mới, Hiến pháp 1946 quy
định về quyền của người bị cáo “người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn
luật sư” (Điều 67). Nhà nước bảo đảm cho người bị cáo bào chữa cho chính mình
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, việc
xét xử ở nước ta do vua quan phong kiến tiến hành, không có sự tham gia của người
bào chữa. Chỉ sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp ban hành Nghị
định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại tòa án
Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884, Toàn
quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội. Tiếp theo là
hàng loạt các Sắc lệnh về tổ chức luật sư được ra đời nhưng nổi bật là Sắc lệnh ngày
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

25/5/1930 về tổ chức Luật sư Đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này mở
rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ cho Tòa án Pháp mà cả trước Tòa án Nam án.
Cuộc Cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân
và lập ra nền dân chủ công hòa. Không lâu sau đó, Nhà nước ta đã cho ra đời bản Hiến
pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946 đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng định các quyền cơ
bản của người bị cáo, quyền được bào chữa.
Hiến pháp 1959 ra đời, quyền bào chữa của người bị cáo một lần nữa được ghi
nhận: “quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm” (Điều 101 Hiến pháp 1959). Khẳng
định quyền bào chữa luôn được bảo đảm, trước đây người bị cáo được quyền tự bào

chữa hoặc mượn luật sư bào chữa thay, nhưng không có một quy đinh nào nói về cơ
chế bảo đảm quyền này được thực hiện. Với quyền cơ bản này cùng với sự quan tâm
của Nhà nước và xã hội quyền bào chữa của bị cáo tiếp tục được thể hiện, phát triển ở
những Hiến pháp tiếp theo. Đến Hiến pháp 1980 thì “quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt
pháp lý” (Điều 133 Hiến pháp 1980). Quyền này tiếp tục được khẳng định theo hướng
vừa là quyền của công dân, vừa là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước bảo đảm thực
hiện. Quyền bào chữa ngày càng được mở rộng và cơ chế bảo đảm để thực hiện quyền
bào chữa. Quy định trên khẳng định sự cần thiết có một tổ chức luật sư để bảo vệ
quyền bào chữa cho bị cáo nói riêng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự khác tham gia tố tụng. Đồng thời là tiền đề cho việc thành lập tổ chức luật sư
ở nước ta. Từ đây, người bị cáo có thêm nhiều cơ hội hơn để bào vệ quyền lợi cho
mình thông qua tổ chức luật sư trên. Đối với luật sư đây là cơ hội để nâng cao và hoàn
thiện mình góp phần bảo vệ quyền lợi của bị cáo ngày một hiệu quả hơn.
Cho đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), ngoài việc kế thừa các
Hiến pháp trước thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình,
lại một lần nữa quyền bào chữa tiếp tục được khẳng định “Quyền bào chữa của bị can,
bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp đỡ bị cáo và các đương sự khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”
(Điều 132 Hiến pháp 1992). Quyền bào chữa trở thành một chế định hoàn chỉnh, với
nội dung toàn diện hơn đáp ứng nhu cầu nguyện vọng chung của xã hội, phù hợp với
công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phù hợp với sự pháp triển của
nền văn minh nhân loại.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng



Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

1.2.1.2. Pháp luật Tố tụng hình sự
Luật Tố tụng hình sự một ngành luật hình thức quy định trình tự, thủ tục thực
hiện các quy định của luật hình sự. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc Hiến định và là một trong những quyền cơ
bản, quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc
đặc thù trong tố tụng hình sự.
Trước đây, các văn bản pháp luật về quyền bào chữa chỉ coi quyền bào chữa là
của bị cáo, do vậy việc bào chữa chỉ có thể thực hiện ở giai đoạn xét xử. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong
việc từng bước hoàn thiện chế định quyền bào chữa và là một bước tiến lớn trong lịch
sử lập pháp tố tụng hình sự nước ta. Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy
định như sau: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ”. Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị cáo mà còn
thuộc về bị can. Ngoài việc quy định tương đối rõ ràng về quyền bào chữa, pháp luật
còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời thì không những chỉ bị can bị cáo được
bảo đảm quyền bào chữa của mình mà người bị tạm giữ cũng có quyền này: “người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của họ” (Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Ngay từ khi bị tạm giữ, mặc dù chưa bị khởi tố với tư cách là bị can thì họ vẫn được
pháp luật bảo vệ và cho phép họ có quyền bào chữa.

Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, họ có thể tự bào chữa cho mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến
thức pháp luật, kỹ năng bào chữa và có thể họ đang bị tạm giữ nên họ không thực hiện
được việc tự bào chữa có hiệu quả. Vì vậy, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật cho
phép họ được nhờ người khác bào chữa cho mình, thế nhưng không phải bất kỳ người
khác nào cũng có thể trở thành người bào chữa. Những người có thể trở thành người
bào chữa là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
bào chữa viên nhân dân (khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự). Không chỉ ghi nhận
quyền bào chữa của họ mà Bộ Luật còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến
hành tố tụng là phải bảo đảm cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình.
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

20

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

1.2.2. Bản chất pháp lý của hoạt động bào chữa
Khi tham gia tố tụng, người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền lợi cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo mà người bào chữa còn góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ những tình tiết liên
quan đến vụ án. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì phải tôn trọng sự
thật và tôn trọng pháp luật. Ngược lại, muốn góp phần vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật,giải quyết đúng đắn vụ án thì

phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ
án trên cơ sơ của pháp luật.
Bản chất pháp lý của hoạt động bào chữa bao gồm:
Thứ nhất, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện các quyền
mà pháp luật cho phép, để chống lại, bác bỏ sự buộc tội của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích của mình
trong vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế do hạn chế về kiến thức pháp luật hay do đang bị
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khó có thể tự mình
thực hiện quyền bào chữa, cho nên họ phải nhờ người khác bào chữa cho mình. Nhưng
cho dù là việc tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa cho mình thì cũng cùng với
mục đích là nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hoạt động bào chữa chỉ xuất hiện trong tố tụng hình
sự và điểm đặc trưng của thuật ngữ “bào chữa” là chỉ dùng trong tố tụng hình sự. Vì
vậy, bản chất của hoạt động bào chữa là bảo vệ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thứ hai, trong quá trình tham gia tố tụng thì hoạt động bào chữa của người bào
chữa không chỉ bảo vệ cho “thân chủ ” của mình mà thông qua đó, người bào chữa còn
góp phần làm sáng rõ những tình tiết của vụ án, bảo đảm vụ án hình sự được giải quyết
khách quan, đúng pháp luật, tránh những thiếu sót, sai lầm của người tiến hành tố tụng
ngay từ giai đoạn đầu tiên. Trong quá trình tranh luận tại phiên tòa, đôi khi trong
những câu hỏi của người bào chữa có thể làm bật ra những tình tiết gỡ tội cho bị cáo
hoặc có thể làm thay đổi tội danh, bởi lẽ khi tranh luận cùng Kiểm sát viên, người bào
chữa chỉ tập trung những tình tiết quan trọng có thể giúp cho thân chủ của mình theo
hướng tốt nhất có thể; thậm chí qua quá trình tranh luận còn phát hiện thêm tội phạm
mới, giúp các Cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sữa chữa những thiếu sót, làm rõ sự
thật, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

21


SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA THEO
TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
-----Lần đầu tiên, chủ đề tranh tụng được chính thức đặt ra tầm một Nghị quyết, có
tính chuyên đề về công tác tư pháp của Đảng trong mối quan hệ với việc thực hiên
chức năng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa đảm bảo tranh luận dân chủ với
người bào chữa, luật sư. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị ra đời, vị trí, vai trò của người
bào chữa ngày càng được nâng cao cả về mặt nhận thức từ phía cơ quan chức năng lẫn
quy định của pháp luật. Trong bối cảnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng công tác
tư pháp, quyền bào chữa luôn được mở rộng và bảo đảm thực hiện trên mọi phương
diện.
2.1. Quyền bào chữa trong bối cảnh nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bước đầu thể chế những quy định đáp ứng
yêu cầu cải cách. Đặc biệt, là những quy định về quyền bào chữa được mở rộng, hoạt
động tranh tụng dân chủ tại phiên tòa cũng như về những điều kiện đảm bảo cho người
bào chữa tham gia tranh tụng.
2.1.1. Tính thiết yếu của việc nâng cao hiệu quả của hoạt động bào chữa theo
hướng tranh tụng là chính
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đảng và Nhà nước quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo. Trong những năm qua Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã
có một số Nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước và pháp luật trong đó nhấn
mạnh đến đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong đó, đặc biệt là

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị “Về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết 08NQ/TW chủ trương đề cao vai trò tranh tụng tại tòa nói chung và tranh tụng hình sự
nói riêng; đây được coi là một điểm nhấn thành công trong tiến trình cải cách tư pháp,
tạo sự đổi mới về “chất” của công tác xét xử, góp phần nâng cao tính công bằng, khách
quan và đúng pháp luật của các phán quyết của Tòa án. Nghị quyết 49-NQ/TW tiếp
tục đề cập đến nội dung này nhưng yêu cầu phải áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng xét xử theo tranh tụng, đặc biệt khi Nghị quyết này khẳng định

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


Luận văn tốt nghiệp

Hoạt động bào chữa theo tiến trình cải cách tư pháp

“nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp”
Chủ trương mở rộng tranh tụng tại các phiên tòa là chủ trương đúng đắn, nâng
cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công việc của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên,
ở một số địa phương việc thực hiện chủ trương mở rộng tranh tụng còn mang tính hình
thức chưa đáp ứng được yêu cầu là các bản án, phán quyết của Tòa án chủ yếu phải
dựa trên kết quả tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Nhiều phán quyết của tòa án chủ yếu
dựa và bản cáo trạng của Viện kiểm sát, nhiều Thẩm phán, Kiểm sát viên khi thực hiện
xét xử, thực hành quyền công tố tại tòa còn theo “nếp cũ”, chưa kịp đổi mới tư duy, và
phương thức thực hiện.

Thực tiễn cho thấy về cơ bản, việc xét hỏi vẫn ở phía Hội đồng xét xử trong khi
Kiểm sát viên, luật sư còn khá thụ động. Trình tự đó gần như mặt định trách nhiệm xét
hỏi chính thuộc về Hội đồng xét xử nên phần bào chữa của luật sư chỉ mang tính hình
thức, những tác động của nó đến Hội đồng xét xử rất nhỏ trong khi đòi hỏi của cải
cách tư pháp là phán quyết của Hội đồng xét xử phải căn cứ vào lời khai, chứng cứ
trong quá trính xét xử.
Có thể khẳng định “căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” là
nguyên tắc không thể thiếu và tất yếu của các nước theo tố tụng tranh tụng. Còn các
nước theo tố tụng xét hỏi thì phán quyết của Tòa án dựa vào các căn cứ sau: hồ sơ vụ
án, giai đoạn xét hỏi và giai đoạn tranh tụng tại tòa. Căn cứ quan trọng nhất là hồ sơ vụ
án, sau đó đến giai đoạn xét hỏi và cuối cùng là giai đoạn tranh tụng. Trước đây Việt
Nam theo mô hình tố tụng xét hỏi, tuy nhiên do những hạn chế của mô hình tố tụng xét
hỏi như dễ vi phạm quyền con người, tính dân chủ trong tố tụng còn nhiều hạn chế và
do nhu cầu và tiếp thu những ưu điểm của các mô hình tố tụng trên thế giới, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 của Việt Nam theo mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp yếu tố tranh
tụng có nhiều tiến bộ, nhưng yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta vẫn rõ nét hơn và
song song đó vẫn tồn tại những hạn chế như: Tòa án vẫn xét hỏi chính trong quá trình
tranh luận, thực hiện việc chứng minh chứng cứ, ...và hiện nay để đáp ứng tinh thần
cải cách tư pháp, chúng ta có xu hướng thiên về tranh tụng nhiều hơn(5), nâng cao tầm
quan trọng của giai đoạn tranh tụng trong tố tụng xét hỏi, nhấn mạnh tính thẩm tra
công khai của phiên tòa, phán quyết của Tòa án phải dựa chủ yếu vào những chứng cứ,
tài liệu, ý kiến, tranh luận,… đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Điều này có
(5)

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

23


SVTH: Hà Thị Tuyết Hồng


×