Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại LY hôn có yếu tố nước NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.6 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH - THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007- 2011

LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Diệp Ngọc Dũng

Sinh viên thực hiện:
Đoàn Thị Trung Thu
MSSV: 5075303
Lớp: Luật Tư Pháp 3-K33

Cần Thơ, tháng
05/2011
n thơ, 11 /2010
1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................


................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................

2


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI
3
1.1. Ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài 3
1.1.1. Ly hôn
3
1.1.2. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
4

1.2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
6
1.2.1. Sự phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
qua các giai đoạn ở Việt Nam
6
1.2.1.1. Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
6
1.2.1.2. Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
11
1.2.2. Các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài
14
1.3. Đặc trưng của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
15
1.3.1. Đối tượng điều chỉnh của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
15
1.3.1.1. Yếu tố chủ thể
16
1.3.1.2. Khách thể của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
18
1.3.1.3. Yếu tố cư trú của các bên đương sự
19
1.3.2. Phương pháp điều chỉnh
19
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
22
2.1. Các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài
22

2.1.1. Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài
22
2.1.1.1. Điều kiện ly hôn
23
2.1.1.2. Trình tự, thủ tục ly hôn
25
2.1.1.3. Thời điểm có hiệu lực của ly hôn và hệ quả của ly hôn
32
2.1.2. Thực trạng của việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
35
2.2. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực thi các quy định về ly
hôn có yếu tố nước ngoài và hướng hoàn thiện
38
2.2.1. Thuận lợi và khó khăn
38
2.2.2. Hướng hoàn thiện
42
KẾT LUẬN 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, với chính sách hội nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền
đề thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội, và các mối quan hệ quốc tế cũng
được mở rộng. Nếu như trước đây việc kết hôn có yếu tố nước ngoài rất hiếm hoi, thì
ngày nay công dân Việt Nam đã có quan hệ kết hôn với công dân của hơn 40 nước trên

thế giới. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp Thành phố Cần Thơ sáu tháng đầu năm
2010 (từ 01/01/2010 đến 01/06/2010) thì đã có 193 trường hợp đăng ký kết hôn có yếu
tố nước ngoài trong đó kết hôn với Đài Loan là 106 trường hợp, Mỹ 50 trường hợp, Úc
08 trường hợp.
Số lượt kết hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, song thực tiễn cho thấy
không phải cuộc hôn nhân nào cũng mang đến hạnh phúc. Rất nhiều trường hợp các cô
gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc bị đánh đập, ngược đãi họ tìm cách bỏ
trốn về nước nhưng lại không tiến hành thủ tục ly hôn. Bên cạnh đó, có trường hợp
công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, sau khi người nước ngoài trở về
nước thì mất liên lạc, công dân Việt Nam muốn ly hôn để xây dựng cuộc sống mới,
nhưng không thể tiến hành ly hôn được do không đáp ứng được về mặt thủ tục. Ngoài
ra, hiện nay quy phạm điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài còn ít, chung
chung, hiệu quả mang lại không cao. Dẫn đến tình trạng hôn nhân hình thức tồn tại rất
nhiều, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân chưa được đảm bảo. Vấn đề đặt ra là:
Đối với những trường hợp đương sự muốn ly hôn nhưng không đáp ứng được về mặt
thủ tục sẽ giải quyết như thế nào? Làm thế nào để hoàn thiện hệ thống quy phạm điều
chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài, nâng tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế?
Chính từ những lý do trên, đã thôi thúc người viết chọn đề tài cho luận văn tốt
nghiệp là: “LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM” nhằm tìm hiểu, nghiên cứu một cách sâu sắc hơn những quy định của pháp luật,
thực trạng về vấn đề này và hướng giải quyết của Nhà nước ta. Và qua đó, người viết
cũng đưa ra những kiến nghị của bản thân về vấn đề này, nhằm góp phần vào việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, trong quá trình thực hiện người viết đã
tham khảo một số tài liệu nghiên cứu của các luật gia, các nhà khoa học đã nghiên cứu
vấn đề này, các lĩnh vực liên quan và thu thập thông tin trên Internet. Trên cơ sở đó,
người viết đã sử dụng một số phương pháp khoa học như: phương pháp duy vật biện
chứng, phân tích luật viết, so sánh, đối chiếu, liệt kê…nhằm bảo đảm cho việc nghiên
cứu được chính xác và hiệu quả hơn.

Với mục tiêu trên, ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn này
được thiết kế thành hai chương với nội dung như sau:

4


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI
Trong Chương này người viết thể hiện những lý luận chung về ly hôn cũng như ly
hôn có yếu tố nước ngoài, cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài trong đó có phần lịch sử của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài qua các thời kỳ
và sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành đối với quan hệ này. Bên cạnh đó, người viết
cũng đề cập đến các đặc trưng trong đối tượng cũng như phương pháp điều chỉnh quan
hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài, nhằm mang đến cái nhìn cơ bản cho vấn đề.
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Ở Chương này, người viết sẽ đi sâu phân tích về những quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài và thực trạng.
Nhằm giúp người đọc hiểu thêm về pháp luật, cũng như những thuận lợi và khó khăn
trong quá trình áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài trong
thực tế, để từ đó có hướng hoàn thiện cho phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Mặc dù, trong quá trình thực hiện luận văn đã có nhiều cố gắng nhưng do thời
gian nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo có hạn. Mặt khác, do kiến thức của người
viết còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế, do đó những ý tưởng
của luận văn này phần lớn mang tính lý thuyết và có thể không tránh khỏi những sai
lầm, thiếu sót. Tuy nhiên, người viết hi vọng những nội dung mình nghiên cứu trong
luận văn ít nhiều sẽ có ý nghĩa tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Khi
đó, người viết hi vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp để hoàn thiện luận văn này
nói riêng và vấn đề này nói chung.
Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng đã tận tình chỉ dẫn để người viết

hoàn thành luận văn này. Bên cạnh đó, cũng xin cảm ơn đến lãnh đạo, cán bộ Tòa án
nhân dân Thành phố Cần Thơ đã cung cấp số liệu thực tế, cũng như giúp đỡ người viết
trong thời gian thực tập tại Tòa.

5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1 Ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài:
1.1.1 Ly hôn:
“Ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”1.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn
nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu được của quan
hệ hôn nhân và gia đình. Thực hiện quyền tự do hôn nhân của cá nhân bao gồm quyền
tự do kết hôn nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn nhằm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi đời sống tình cảm, yêu thương giữa vợ chồng đã
hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm tạo lập cho xã hội những
gia đình - tế bào xã hội tốt đẹp đã không thể đạt được 2. Ly hôn nhằm giải phóng cho
vợ, chồng, các con và thành viên khác trong gia đình khỏi những xung đột, mâu thuẫn,
bế tắc trong đời sống gia đình bởi vì: “Thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm
“tan rã” những mối hôn hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối hôn hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã
hội văn minh”3
Quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân, do vậy, ngoài vợ chồng thì không ai
khác có quyền yêu cầu ly hôn. Nếu như kết hôn là cơ sở để hình thành một quan hệ vợ
chồng dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ thể, thì ly hôn là sự tự nguyện của ít nhất
một bên chủ thể làm cơ sở để chấm dứt quan hệ vợ chồng. Sự tự nguyện yêu cầu chấm
dứt hôn nhân của một bên hoặc cả hai bên sẽ làm cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm

quyền của Nhà nước xem xét cho phép ly hôn. Nói cách khác cơ sở pháp lý để tiến
hành ly hôn là ý chí tự nguyện của một hoặc cả hai bên vợ, chồng.
Trong một xã hội có giai cấp thì ly hôn cũng thể hiện tính giai cấp sâu sắc, phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội trong lịch sử phát triển của xã hội và ý chí của
Nhà nước. Nhà nước bằng pháp luật tôn trọng quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ
chồng, nhưng cũng bằng pháp luật kiểm soát quyền tự do ly hôn 4. Điển hình như, pháp
luật của nhà nước phong kiến, tư sản thường quy định hoặc cấm vợ chồng ly hôn, hoặc
đặt ra những điều kiện hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng. Hệ thống Luật hôn nhân và
gia đình của nước ta từ năm 1945, đặc biệt là từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1959,
1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vừa bảo đảm quyền tự do ly hôn chính
1
2

3

4

Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Đinh Thi Mai Phương, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2004, tr. 426.
Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong
thời kì hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2006, tr33.
Đinh Thi Mai Phương, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2004, tr. 427.

6


đáng của vợ chồng, vừa quy định căn cứ giải quyết cho ly hôn dựa vào bản chất của
quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan vỡ, không dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng.

Cơ sở pháp lý để chấm dứt một quan hệ vợ chồng bằng việc ly hôn thông thường
là một bản án do Tòa án có thẩm quyền tuyên (Trong một số trường hợp ly hôn có thể
thực hiện bằng một thủ tục hành chính do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Ví dụ, ở
một số nước như Đài Loan, Nhật Bản, trong trường hợp nếu vợ chồng thuận tình ly hôn
thì có thể đến cơ quan công chứng, hộ tịch để làm thủ tục công nhận sự thuận tình ly
hôn của họ). Có thể nói, nếu đăng ký kết hôn là cơ sở pháp lý xác định quan hệ vợ
chồng thì bản án ly hôn của Tòa án được coi là cơ sở pháp lý phổ biến chấm dứt quan
hệ hôn nhân. Việc Nhà nước can thiệp vào việc ly hôn không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích
cụ thể của các bên chủ thể trong quan hệ hôn nhân mà còn nhằm bảo vệ nhà nước và xã
hội. Như vậy có thể nói rằng mặc dù ly hôn là quyền tự do của các bên nhưng quyền tự
do ấy không nằm ngoài các quy định của pháp luật. Việc ly hôn chỉ có thể được tiến
hành khi nó hội đủ các căn cứ đã được quy định trong pháp luật5.
1.1.2. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
Ngày nay do sự phát triển của các mối giao lưu dân sự quốc tế, việc kết hôn không
chỉ bó hẹp giữa những người có cùng quốc tịch và cùng cư trú trên lãnh thổ một nước
mà còn được mở rộng hơn rất nhiều, có thể là sự kết hôn giữa những người khác quốc
tịch hay khác về nơi cư trú. Chính điều này là tiền đề cho sự đa dạng của pháp luật ly
hôn.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có một định nghĩa cụ thể như thế nào là quan
hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. Nhưng vì ly hôn là một phần trong quan hệ hôn nhân
nên ta có thể dựa vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Khoản 14
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải thích quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài như sau:
Theo Khoản 14 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài”.

Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 4 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 thì: “Các quy định của Chương này cũng được áp dụng đối với các quan hệ hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở
nước ngoài”.
5

Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong
thời kì hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2006, tr32.

7


Qua đây, ta nhận thấy rằng một quan hệ ly hôn được xem là có yếu tố nước ngoài
khi có một trong những dấu hiệu sau:
- Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài (bao gồm người có quốc tịch
nước ngoài và người không quốc tịch), người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ở đây,
dấu hiệu về quốc tịch; nơi cư trú của đương sự là cơ sở để xem xét yếu tố nước ngoài.
- Hai bên đương sự đều là công dân Việt Nam, nhưng căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt theo pháp luật nước ngoài. Trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài, thì chỉ
có sự kiện pháp lý xác lập, chấm dứt theo pháp luật nước ngoài được xem là có yếu tố
nước ngoài. Căn cứ xác lập theo pháp luật nước ngoài là trường hợp hai công dân Việt
Nam kết hôn với nhau theo pháp luật nước ngoài, sau đó lại về Việt Nam xin ly hôn;
căn cứ chấm dứt theo pháp luật nước ngoài là trường hợp hai công dân Việt Nam kết
hôn theo pháp luật Việt Nam, sau đó lại tiến hành ly hôn ở nước ngoài và theo pháp
luật nước ngoài. Ví dụ: Hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau theo pháp luật Việt
Nam, sinh sống tại Việt Nam, sau đó họ chuyển sang Mỹ sinh sống, giữa họ nẩy sinh
mâu thuẫn, họ nộp đơn sinh ly hôn tại Tòa án có thẩm quyền ở Mỹ, đây là trường hợp
ly hôn có yếu tố nước ngoài do căn cứ chấm dứt quan hệ theo pháp luật nước ngoài.
- Tài sản liên quan đến quan hệ đang ở nước ngoài. Trong trường hợp này vợ,
chồng đều là công dân Việt Nam nhưng tài sản liên quan đến quan hệ lại nằm ở một

nước khác. Ví dụ: Hai công dân Việt Nam xin ly hôn với nhau, trong thời kỳ hôn nhân
họ có mua được ngôi nhà tại Mỹ, đây là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, về nguyên tắc sau khi ly hôn tài sản này phải được phân chia cho hai vợ chồng.
Vì tài sản liên quan đến quan hệ đang tồn tại ở nước ngoài, do đó nó có yếu tố nước
ngoài.

Tóm lại, quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ có ít nhất một bên đương
sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc là công dân Việt
Nam với nhau mà căn cứ xác lâp, chấm dứt theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ ly hôn đang ở nước ngoài.
1.2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.2.1. Sự phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài qua các giai đoạn ở Việt Nam
Mỗi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống này đều trải qua một quá trình vận động
và phát triển, từ đơn giản đến phức tạp, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật điều
chỉnh về quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật
đó. Ở mỗi thời kỳ, ở mỗi giai đoạn với chính sách khác nhau thì pháp luật điều chỉnh
cùng một quan hệ cũng không giống nhau. Chính vì thế, để thấy được những ưu và
8


nhược điểm cũng như sự kế thừa của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh quan hệ
ly hôn có yếu tố nước ngoài qua các giai đoạn, ta sẽ lần lượt tìm hiểu những quy định
điều chỉnh quan hệ này qua các thời kỳ.
Ly hôn là một phần của quan hệ hôn nhân và gia đình nên khi xem xét đến sự phát
triển của ly hôn có yếu tố nước ngoài ta cần xem xét đến quá trình hoàn thiện của Luật
hôn nhân và gia đình, lấy đó làm cơ sở để phân kỳ lịch sử phát triển của pháp luật điều
chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó ta
có thể chia thành hai giai đoạn lớn: Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế, giai đoạn từ thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đến nay.

1.2.1.1 Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
 Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
Trước 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, quan hệ ly hôn thời
kỳ này được điều chỉnh bởi các quy phạm được quy định trong một số bộ luật dân sự,
tiêu biểu nhất là hai bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
Tại bộ Quốc Triều hình luật Điều 308 có ghi: “Phàm chồng đã bỏ lững vợ năm
tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng), thì mất
vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa, thì không theo
Luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại ngăn cản người khác lấy vợ mình thì phải tội biếm”6.
Trong Bộ luật Gia Long Điều 108 bên cạnh các trường hợp được dự kiến tương tự
như luật thời Lê thì bộ luật còn cho phép người vợ được chấm dứt quan hệ hôn nhân để
kết hôn với người khác trong trường hợp người chồng mất tích do loạn lạc. Việc ly hôn
thuận tình cũng được cho phép trong trường hợp vợ chồng không hợp tính tình7.
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kỳ là: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ. Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đã ban
hành Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ áp dụng ở Nam kỳ và ba thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng. Bộ dân luật Bắc kỳ được ban hành vào ngày 30/3/1931 theo Nghị
định của Thống sứ Bắc kỳ để thi hành trên toàn cõi Bắc kỳ từ ngày 01/07/1931 thay
cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật được ban hành năm 1939 thi hành
trên toàn Trung kỳ. Nhìn chung, về thực chất vẫn là phiên bản của Bộ luật Bắc kỳ có
sửa đổi, bổ sung một số điều cho phù hợp với các tỉnh Trung kỳ và triều đình Huế. Về
quan hệ hôn nhân và gia đình, các bộ luật này đã quy định về quyền và nghĩa vụ giữa
vợ, chồng; chế độ tài sản của vợ chồng; vấn đề nuôi con nuôi; quyền và nghĩa vụ giữa
cha, mẹ và con theo mô hình phương Tây8. Đối với quan hệ ly hôn thời kỳ này do được
xây dựng dựa theo khuôn mẫu Pháp đồng thời vẫn bảo vệ quyền và lợi ích của người
6
7

8


Vũ Văn Mẫu, Dân luật Việt Nam lược khảo, Sài Gòn 1962, tr. 559 và 560.
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam- Tập 1, Khoa Luật-Đại học Cần Thơ
2005, tr.68.
Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong
thời kì hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2006, tr.140.

9


chồng (Dân Luật giản yếu thiên thứ VI, Bộ luật dân sự Bắc kỳ Điều 116 đến 150; Bộ
luật dân sự Trung kỳ Điều 115 đến 147). Ly hôn sẽ được giải quyết theo những trường
hợp mà luật dự kiến. Tuy nhiên, dù chịu ảnh hưởng của luật Pháp cùng thời kỳ nhưng
luật Việt Nam lại thừa nhận khả năng ly hôn do sự thuận tình của vợ và chồng, điều mà
pháp luật của Pháp cùng thời kỳ không thừa nhận. Ngoài ra, Dân luật giản yếu còn ghi
nhận quyền xin ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng mất tích, như trong Bộ luật Gia
Long. Bên cạnh đó, quyền xin ly hôn được thừa nhận cho cả vợ và chồng; nhưng người
vợ không có quyền xin ly hôn vì lý do người chồng ngoại tình, trong khi người chồng
lại có quyền xin ly hôn với lý do người vợ ngoại tình9.
Trong thời kỳ này đã có những quy định điều chỉnh quan hệ ly hôn nhưng đối với
quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì chưa được đề cập một cách cụ thể, dù trong
thời gian này không ít quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được xác lập, đặc biệt là
giữa người Việt Nam với người Pháp.
Tóm lại, dựa vào những phân tích trên về quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
trong cổ luật Việt Nam trước 1945, ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ phong kiến xuất phát từ chính sách đối ngoại phong kiến
lúc bấy giờ và với chính sách kinh tế lạc hậu “ức thương”, “bế quan tỏa cảng” nên các
bộ luật này không điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Ở Việt Nam, nếu
nhìn rộng ra sẽ thấy trong thời kỳ này các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài không được luật quy định10 hoặc có quy định thì đó là các quy định cấm đoán
hoặc phải chịu hình phạt nếu có quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài11.

Điển hình như tại Điều 71 (22) Chương Cấm vệ, Quốc Triều hình luật quy định: “Nếu
kết vợ chồng với người nước ngoài phải lưu đi châu xa, đôi vợ chồng ấy phải ly dị và
bắt trở về nước”12.
Thứ hai, trong thời kỳ Pháp thuộc, nước ta đã có quan hệ rộng rãi hơn với các
nước như Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây nhưng “quan
hệ ngoại giao của nước ta vẫn còn bó hẹp, quan hệ ngoại thương cũng rất hạn chế,
chưa có ngoại thương song phương”13. Pháp luật trong thời kỳ này tuy có một số quy
định đề cập đến vấn đề hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng về thực chất
chủ yếu nhằm điều chỉnh vấn đề quốc tịch14.
Nhìn chung, quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ vẫn chưa được
điều chỉnh hay nói chính xác hơn là chưa cho phép điều chỉnh.
9

10
11
12

13

14

Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam- Tập 1, Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
2005, tr.68.
Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, tr.187.
Hoàng Việt luật lệ ( 1994), Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.285.
Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong
thời kì hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội- 2006, tr.142.
Nguyễn Lương Bích (2000), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
tr. 221.
Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong

thời kì hội nhập quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội- 2006, tr.142 và 143.

10


 Giai đoạn từ 1945-1959
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, chính thức khai sinh nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Là một nước dân chủ non trẻ vừa lột xác từ một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, phải đối mặt với nạn thù trong giặc ngoài, do đó Nhà nước ta
ít ban hành văn bản pháp luật riêng lẻ để điều chỉnh quan hệ dân sự, trong đó có quan
hệ hôn nhân gia đình.
Cho đến tháng 5 năm 1950, các vấn đề liên quan tới dân sự trong đó có quan hệ
hôn nhân và gia đình đều chịu sự điều chỉnh của các quy định được ghi nhận trong ba
Bộ luật dân sự: Dân pháp điển Bắc kỳ (1931), Dân pháp điển Trung kỳ (1936) và Pháp
quy giản yếu (1883). Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các bộ luật này là Sắc lệnh ngày
10 tháng 10 năm 1945. Sắc lệnh này quy định tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Việt Nam
để thi hành cho đến khi ban hành những bộ luật mới cho toàn cõi Việt Nam, trừ những
quy định đi ngược lại độc lập dân tộc và quyền lợi của nhân dân.
Trong giai đoạn này, có một văn bản pháp luật có giá trị cao nhất đầu tiên đề cập
gián tiếp đến quan hệ hôn nhân, đó là Hiến Pháp 1946. Bản Hiến pháp này được Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946. Tại Điều 9 Hiến
pháp quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là một
quy định rất tiến bộ thể hiện bản chất tốt đẹp của một xã hội văn minh.
Văn bản pháp lý riêng biệt đầu tiên đề cập đến lĩnh vực hôn nhân là Sắc lệnh 159SL được ban hành ngày 17/11/1950, quy định về vấn đề ly hôn. Trong Sắc lệnh này các
duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn và hiệu luật của việc ly hôn được quy định tuy không
nhiều nhưng tương đối cụ thể. Trong giai đoạn này các vấn đề liên quan đến kết hôn sẽ
tuân theo quy định của Sắc lệnh 97-SL ngày 22/05/1950, các vấn đề ly hôn sẽ tuân theo
quy định của Sắc lệnh 159-SL ngày 17/11/1950. Sắc lệnh 159-SL chủ yếu điều chỉnh
các quan hệ ly hôn trong nước, quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa được pháp

luật điều chỉnh. Khi quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài phát sinh thì thường rơi vào
trường hợp tạm đình chỉ và phải chờ sự hướng dẫn từ Tòa án tối cao.
Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài có một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn còn hết sức đơn giản, chưa tập hợp
thành hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các quan hệ. Ngoài các văn bản hướng dẫn
đường lối xét xử của Tòa án tối cao đối với các vụ việc có yếu tố nước ngoài thì pháp
luật chưa có quy định quy phạm điều chỉnh, Nhà nước ta chủ trương chưa ban hành văn
bản pháp luật riêng để điều chỉnh trực tiếp quan hệ hôn nhân và gia đình mà chỉ điều
chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong nước theo Hiến pháp 1946.
Thứ hai, trong thời gian này quan hệ hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa với các nước, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa, bắt đầu kiến lập và dần dần
11


được củng cố. Bên cạnh sự giúp đỡ về chính trị, kinh tế, khoa học kĩ thuật, các nước
còn tiếp nhận đào tạo nhiều công dân Việt Nam thuộc các ngành nghề khác nhau. Thời
kỳ này Việt Nam đã bắt đầu gửi sang Liên Xô và các nước Đông Âu nhiều công dân để
học tập, nghiên cứu, đồng thời Việt Nam cũng tiếp nhận chuyên gia, cán bộ của các
nước đến công tác, giúp đỡ và huấn luyện cho cán bộ Việt Nam. Trong bối cảnh đó, các
quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát sinh, đòi hỏi pháp luật điều chỉnh, tuy vậy
vấn đề điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa phải là một yêu cầu bức
xúc. Nhưng chính điều này đã tạo tiền đề cho việc xây dựng các quy phạm điều chỉnh
quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài trong những giai đoạn tiếp theo.
 Giai đoạn từ 1959-1986
Trong giai đoạn này, bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 11 ngày 31/12/1959 tiếp tục khẳng định và ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Xuất phát từ tình hình thực tế của quan hệ hôn
nhân và gia đình trong thời kỳ mới, Luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông
qua tại kỳ họp thứ 11 ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 02-SL

công bố ngày 13/01/1960 về quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật đã điều chỉnh quyền
và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con. Đối với quan hệ ly hôn Luật hôn
nhân và gia đình 1959 đã dành một chương (Chương V, từ Điều 25 đến Điều 33) để
quy định về điều kiện ly hôn, thủ tục ly hôn, cấp dưỡng và quyền trực tiếp nuôi con sau
ly hôn. Tuy nhiên, quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài vẫn chưa được điều chỉnh.
Thời gian này, đất nước bị chia làm hai miền nên quan hệ ly hôn chịu sự điều
chỉnh của hai văn bản khác nhau. Ở miền Bắc, quan hệ ly hôn chịu sự điều chỉnh của
Luật hôn nhân và gia đình 1959 và ly hôn được xem là một quyền tự do của công dân.
Ở miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành Luật gia đình ngày 02/01/1959,
luật này cấm đoán việc ly hôn.
Tóm lại, trong thời kỳ này pháp luật về ly hôn đã có những bước tiến quan trọng.
Trước tiên, quan hệ ly hôn đã được quy định trong một văn bản có giá trị pháp lý tương
đối cao - Luật hôn nhân gia đình 1959. Thứ hai, những quy định điều chỉnh quan hệ ly
hôn chi tiết hơn so với giai đoạn trước, bên cạnh đề cập đến các điều kiện ly hôn, thủ
tục ly hôn thì có thêm quy định về hạn chế ly hôn, căn cứ chia tài sản sau khi ly hôn,
quyền trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng. Tuy nhiên, do tình hình đất nước, các quy phạm
điều chỉnh quan hệ ly hôn chưa được đầy đủ, vẫn chưa có quy phạm điều chỉnh quan hệ
ly hôn có yếu tố nước ngoài dù trên thực tế vẫn có phát sinh quan hệ này. Khi quan hệ
ly hôn có yếu tố nước ngoài nẩy sinh, nếu trường hợp nước ta đã ký kết Hiệp định
tương trợ tư pháp với quốc gia đó thì tuân theo Hiệp định, ngược lại thì sẽ theo sự
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.

12


1.2.1.2 Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam trong giai đoạn này có thể thấy sự phát triển của nó qua các giai đoạn
sau:
 Giai đoạn từ 1986- 2000

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng nước ta
bước sang một thời kỳ mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trước những thay đổi to lớn của đất nước Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh.
Ngày 29/12/1986 Luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông qua, Luật
quy định nhiều vấn đề mới phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của đất nước. Tương tự như
Luật hôn nhân và gia đình 1959, Luật hôn nhân và gia đình 1986 cũng đã dành riêng
một chương để điều chỉnh quan hệ ly hôn. Điểm đáng chú ý là lần đầu tiên trong lịch sử
pháp luật hôn nhân và gia đình. Nhà nước đã dành một chương (Chương IX) trong Luật
hôn nhân và gia đình 1986 quy định về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài. Trong Chương này, quan hệ ly hôn đã được quy định tại Điều
53. Tuy nhiên, quy định này chỉ có thể được áp dụng sau bảy năm kể từ ngày Luật hôn
nhân và gia đình 1986 ra đời.
Để thi hành Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, theo đề nghị của Chính Phủ, ngày
02/12/1993 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh hôn nhân và gia đình
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (Pháp lệnh năm 1993). Trong pháp lệnh
đã quy định về pháp luật áp dụng trong trường hợp ly hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài (Điều 12); và thẩm quyền xét xử vụ án ly hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài (Điều 13).
Ngày 09 tháng 10 năm 1993 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số
517/NCPL của Tòa án nhân dân tối cao về việc ly hôn với một bên đang ở nước ngoài,
Công văn này đã góp phần tích cực trong việc điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài.
Bên cạnh đó còn có sự ra đời của một số văn bản pháp luật có liên quan như:
- Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa Án nước ngoài.
- Pháp lệnh thi hành án dân sự được Ủy ban thường vụ Quốc Hội thông qua ngày
21/4/1993.
- Bộ luật dân sự Việt Nam 1995.
- Luật quốc tịch Việt Nam 1998.

13


- Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 1998 của Chính Phủ về
đăng ký hộ tịch.
Tóm lại, qua nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ 1986-2000, ta có thể rút ra một số
nhận xét sau:
Các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài được ban
hành ngày càng nhiều, đồng thời các quy phạm được quy định trong những văn bản
pháp lý có giá trị tương đối cao như Luật hôn nhân và gia đình 1986, Pháp lệnh 1993.
Thêm vào đó, việc dành một chương riêng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
để quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là một bước phát
triển mới, một tiến bộ mới trong công tác lập pháp của nước ta về lĩnh vực này. Nó
không những thể hiện sự quan tâm của Nhà Nước đến vấn đề ly hôn có yếu tố nước
ngoài, mà còn phản ánh xu thế của thời đại là các quy định của pháp luật Việt Nam đã
bước đầu có những nội dung phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế và tập
quán quốc tế trong quan hệ hôn nhân.
Tuy các văn bản điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều
nhưng các quy định này vẫn còn rất chung chung, chỉ điều chỉnh một trong ba quan hệ
ly hôn có yếu tố nước ngoài (quan hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài) còn hai quan hệ khác (quan hệ ly hôn của công dân Việt Nam với nhau diễn ra ở
nước ngoài và quan hệ ly hôn của công dân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam) thì
chưa được điều chỉnh. Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng đã tiến hành ký kết nhiều Hiệp
định tương trợ tư pháp với nhiều nước như Ba Lan, Lào, Nga, Mông Cổ, Belarut góp
phần giải quyết quan hệ được hiệu quả hơn.
 Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Trước thực tế khách quan của các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng đa dạng và phức tạp, Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 đã được ban hành để điều chỉnh kịp thời các quan hệ đó.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thay thế cho Luật hôn nhân và gia đình 1986,
Pháp lệnh năm 1993, Nghị định số 184/CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị
định.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành một Chương (Chương XI) quy định
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chương này gồm bảy điều từ Điều
100 đến Điều 106 trong đó có Điều 104 quy định về việc ly hôn có yếu tố nước ngoài,
điều này đã xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật và xung đột
thẩm quyền trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. Sự ra đời của Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã đáp ứng được nhu cầu thực tế trong việc giải quyết quan hệ ly
hôn có yếu tố nước ngoài. Nó có phạm vi rộng hơn so với Luật hôn nhân và gia đình

14


năm 1986, Pháp lệnh năm 1993 bằng việc điều chỉnh quan hệ ly hôn giữa người nước
ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Trong thời gian này, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành có quy định điều chỉnh
quan hệ ly hôn có yếu có yếu tố nước ngoài được ban hành ngày càng nhiều như:
- Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hôn nhân
và gia đình năm 2000.
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài (NĐ68/CP) đã được Chính Phủ thông qua, trong đó quan hệ ly hôn
cũng được điều chỉnh (Điều 20).
- Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Tòa án nhân dân tối cao
về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân
sự, hôn nhân và gia đình hướng dẫn giải quyết đối với các trường hợp công dân Việt
Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã đi ra nước ngoài; đối với
trường hợp các bên đều là công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài theo pháp luật
nước ngoài, nay họ về Việt Nam xin ly hôn; và trường hợp công dân Việt Nam ở trong

nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài.
Ngoài ra, với sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật liên quan đã góp phần giải
quyết quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài được hiệu quả hơn như:
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.
- Luật tương trợ tư pháp năm 2007.
- Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Nhìn chung, so với các giai đoạn trước đây thì văn bản điều chỉnh quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn này không ngừng tăng về số lượng lẫn chất lượng,
phạm vi điều chỉnh rộng hơn. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật có liên quan được
ban hành đã góp phần hỗ trợ tích cực cho việc giải quyết quan hệ được chính xác và
hiệu quả hơn.
Tóm lại, pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đã được hình
thành và không ngừng phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Sự phát triển của pháp luật
điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đã phản ánh xu thế khách quan trong
quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Các quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài được điều chỉnh bằng những văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, đó là
Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra,
quan hệ này còn được điều chỉnh theo các Hiệp định song phương mà Nhà nước ta ký
kết với các nước. Các Hiệp định này đã đánh dấu những bước phát triển mới trong quan
hệ quốc tế giữa nước ta và các nước liên quan trong nhiều lĩnh vực góp phần mở rộng
quan hệ pháp lý quốc tế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của công dân, tạo môi trường
15


pháp lý thuận lợi trong việc hợp tác giải quyết nhiều vấn đề pháp lý phức tạp và đa
dạng, trong đó có quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
1.2.2. Các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ ly hôn có
yếu tố nước ngoài
Pháp luật điều chỉnh việc ly hôn đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng
và phát triển xã hội. Ly hôn cũng có những điểm tích cực trong việc thúc đẩy sự phát

triển của một xã hội dân chủ, văn minh. Nếu pháp luật điều chỉnh ly hôn không phù
hợp thì sẽ làm cho xã hội hỗn loạn và suy yếu. Ngược lại, nếu pháp luật ly hôn phù hợp
thì không những làm cho xã hội ổn định mà còn làm cho xã hội vững mạnh. Thấy được
tầm quan trọng đó Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy phạm để điều chỉnh quan hệ và
các quy phạm này đều nằm trong những văn bản có giá trị pháp lý cao như: Hiến pháp,
Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2005, Luật hôn nhân và gia đình 2000.
Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, trong đó quy định các
nguyên tắc cơ bản về mặt pháp lý đối với tất cả các vấn đề quan trọng của một đất
nước.
Hiến pháp 1992 có quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội; Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia đình; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng
bình đẳng; Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu
có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ; Nhà nước và xã hội không thừa
nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”15. Qua đây ta thấy rằng Nhà nước bảo hộ
quan hệ hôn nhân và gia đình, mọi người có quyền tự do kết hôn và có quyền ly hôn
nếu tình trạng hôn nhân trầm trọng và đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân ban đầu đã không đạt được.
Dựa trên cơ sở của Hiến pháp, thì Bộ luật dân sự cũng đã dành một Chương để
quy định các vấn đề có liên quan đến các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đây là
tiền đề quan trọng để xây dựng các quy phạm điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài.
Ngày 01/01/2005 Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực với những quy định về thẩm
quyền xét xử đối với quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài và những quy định về thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài là đóng góp rất quan trọng trong việc giải
quyết quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, đã dành một Chương để quy định các vấn đề
liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quy định
cụ thể về quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 104).


15

Điều 64 Hiến pháp 1992.

16


Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành những Nghị định để hướng dẫn việc thi
hành như: Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ về quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, cụ thể
quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài được quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định.
Ngoài ra, Nhà nước ta đã ký kết nhiều Điều ước quốc tế song phương trong đó ghi
nhận các nguyên tắc chọn pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài. Năm 2007, Luật tương trợ tư pháp ban hành với những hướng dẫn về ủy
thác tư pháp đã góp phần bổ sung vào hệ thống văn bản điều chỉnh quan hệ ly hôn có
yếu tố nước ngoài ngày càng đa dạng hơn.
Nhìn chung, trong những năm qua văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng, từ những
quy định chỉ mang tính định hướng (trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự 2005) phát triển
thành những quy định cụ thể, điều chỉnh trực tiếp quan hệ (Luật hôn nhân và gia đình
2000) cho thấy kĩ thuật lập pháp đã được nâng cao, việc áp dụng quy phạm điều chỉnh
quan hệ khả thi hơn, góp phần vào việc giải quyết quan hệ được nhanh và hiệu quả hơn.
Qua đó, nhận thấy rằng quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài chiếm một vị trí khá quan
trọng và Nhà nước ta cũng đã có sự quan tâm đối với quan hệ này.
1.3. Đặc trưng của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài
1.3.1. Đối tượng điều chỉnh của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
Cũng như các quan hệ khác mà ngành luật Tư pháp quốc tế điều chỉnh, thì đối
tượng điều chỉnh của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là những quan hệ phát sinh
trong quá trình ly hôn, có yếu tố nước ngoài.


1.3.1.1. Yếu tố chủ thể
Trong một quan hệ pháp luật, chủ thể đóng một vai trò quan trọng bởi vì: nó sẽ
xác định xem ai có quyền tham gia vào quan hệ đó. So với chủ thể của quan hệ ly hôn
trong nước, thì chủ thể của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài không chỉ là công dân
Việt Nam, mà có thêm chủ thể là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước
ngoài. Chính điều này, đã tạo nên nét riêng và phản ánh sự phức tạp của cho quan hệ ly
hôn có yếu tố nước ngoài, khi trong cùng một quan hệ lại có sự tham gia của nhiều
dạng chủ thể khác nhau.
Công dân Việt Nam là một trong những chủ thể cơ bản của quan hệ ly hôn có yếu
tố nước ngoài. Theo Điều 49 Hiến pháp 1992 thì: “Công dân nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Với quy định này, để xác định

17


chủ thể đó có phải là công dân Việt Nam hay không, người ta căn cứ vào quốc tịch mà
người đó được hưởng. Căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam.
“Người được xác định có quốc tịch Việt Nam, nếu có một trong những căn cứ sau
đây:
1. Do sinh ra theo quy định tại các điều 15, 16 và 17 của Luật này;
2. Được nhập quốc tịch Việt Nam;
3. Được trở lại quốc tịch Việt Nam;
4. Theo quy định tại các điều 18, 35 và 37 của Luật này;
5. Theo Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.”16
Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ ly hôn với người nước ngoài phải
có quyền năng chủ thể, tức là phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Công dân
Việt Nam khi tham gia quan hệ sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, mà cụ
thể là quy định trong Bộ luật dân sự 2005 về năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

Nhìn chung, những quy định về năng lực của chủ thể đối với công dân Việt Nam khi
tham gia quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài tương tự như đối với quan hệ ly hôn
trong nước.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng là chủ thể của quan hệ ly hôn có yếu
tố nước ngoài.
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”17
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch
Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống
và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”18
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm là công dân Việt Nam và người
có gốc Việt Nam nên việc xác định năng lực của chủ thể có điểm khác biệt so với chủ
thể là công dân Việt Nam. Trường hợp là công dân Việt Nam thì năng lực chủ thể sẽ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam; còn đối với trường hợp là người có gốc
Việt Nam thì năng lực chủ thể trước tiên là phải tuân theo pháp luật mà người đó mang
quốc tịch19, một số trường hợp thì năng lực chủ thể còn được xác định theo pháp luật
Việt Nam. Như vậy, đối với người có gốc Việt Nam khi tham gia quan hệ ly hôn có yếu
tố nước ngoài, họ có thể chịu sự điều chỉnh song song của pháp luật của nước mà mình
có quốc tịch và pháp luật Việt Nam về năng lực chủ thể khi tham gia quan hệ.
Chủ thể cuối cùng tham gia vào quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là người
nước ngoài.
16
17
18
19

Điều 14 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 4 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 1 Điều 762 Bộ luật dân sự 2005.


18


Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 không có định nghĩa cụ thể như thế nào là
người nước ngoài, nhưng có đề cập đến quốc tịch nước ngoài “Quốc tịch nước ngoài là
quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”20. Bên cạnh đó, Luật
quốc tịch cũng nói đến người nước ngoài cư trú ở Việt Nam: “Người nước ngoài cư trú
ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú
ở Việt Nam”21.
Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính Phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài có giải thích về “người nước ngoài” như sau: “Người nước ngoài là người
không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc
tịch”22.
Nói tóm lại, chủ thể là người nước ngoài sẽ bao gồm hai dạng: là công dân nước
ngoài; hoặc là người không quốc tịch23. Do đó, khi tham gia vào quan hệ ly hôn có yếu
tố nước ngoài thì việc xác định năng lực của chủ thể cũng sẽ khác nhau.
Đối với công dân nước ngoài, tương tự như trường hợp người Việt Nam định cư ở
nước ngoài khi tham gia vào quan hệ ly hôn việc xác định năng lực chủ thể trước tiên
sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, sau đó họ có
thể tiếp tục chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Đối với người không quốc tịch khi họ tham gia vào quan hệ ly hôn thì năng lực
chủ thể của họ sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi người đó cư trú, nếu người đó
không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Việt Nam24. Như vậy, nếu người không quốc
tịch cư trú ở một nước khác không phải là Việt Nam, thì năng lực chủ thể của họ sẽ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước đương sự đang cư trú và có thể chịu sự điều
chỉnh thêm của pháp luật Việt Nam; nếu nước đương sự cư trú là Việt Nam thì pháp
luật điều chỉnh chỉ là pháp luật Việt Nam.
Nói tóm lại, chủ thể tham gia vào quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đa dạng và

việc xác định năng lực của chủ thể khi tham gia vào quan hệ phức tạp hơn so với quan
hệ ly hôn trong nước. Cùng nằm trong một loại chủ thể (người Việt Nam định cư ở
nước ngoài; người nước ngoài) nhưng năng lực của chủ thể lại chịu sự điều chỉnh của
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, chính điều này đã tạo nên nét riêng của chủ thể
trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài mà quan hệ ly hôn trong nước không có
được.
1.3.1.2. Khách thể của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài

20
21
22
23

24

Khoản 1 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 5 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 1 Điều 6 Nghị định 68 năm 2002.
Khoản 2 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 “Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt
Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài”.
Khoản 1 Điều 760 Bộ luật dân sự 2005.

19


Cũng như quan hệ ly hôn trong nước khách thể của quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài cũng bao gồm quyền nhân thân và tài sản.
Khách thể là quyền nhân thân là sự mong muốn của các bên về việc chấm dứt
quan hệ hôn nhân đang tồn tại, trả hai người về tình trạng độc thân. Điều này tương tự
như quan hệ ly hôn trong nước, nhưng thay vì đối với quan hệ hôn nhân trong nước

pháp luật điều chỉnh chỉ là pháp luật Việt Nam còn quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài thì có thể là pháp luật Việt Nam, pháp luật nơi thường trú chung của vợ chồng
vào thời điểm xin ly hôn. Nói chung, pháp luật điều chỉnh đa dạng hơn so với quan hệ
trong nước.
Đối với khách thể là tài sản, do chủ thể đa dạng nên việc tạo lập tài sản trong thời
kỳ hôn nhân giữa hai người có thể ở một quốc gia, hai quốc gia hoặc nhiều quốc gia
khác nhau. Theo thông lệ chung, việc định danh tài sản sẽ theo quy tắc luật nơi có tài
sản. Chính vì thế, cùng một loại tài sản nhưng tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia nó
có thể là động sản hoặc bất động sản, điều này làm cho việc phân chia khối tài sản
chung của vợ chồng sau khi ly hôn trở nên phức tạp hơn nhưng lại là một nét đặc trưng
của quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
1.3.1.3. Yếu tố cư trú của các bên đương sự
Bên cạnh những đặc trưng về chủ thể, khách thể thì một đặc trưng nổi bật nhất
giúp phân biệt quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài với quan hệ ly hôn trong nước đó là
nơi cư trú của đương sự. Nếu như quan hệ ly hôn không có yếu tố nước ngoài các bên
đương sự thường cư trú trên cùng một lãnh thổ, thì trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài các bên đương sự có thể cư trú ở nhiều nơi khác nhau như:
Trường hợp công dân Việt Nam ly hôn với người nước ngoài, thì lúc này cả hai
đương sự có thể đang cùng cư trú ở Việt Nam; hoặc cùng đang cư trú ở nước ngoài;
hoặc một người đang ở Việt Nam còn người kia đang ở nước ngoài.
Trường hợp hai bên là người nước ngoài xin ly hôn thì có thể cả hai bên thường
trú tại Việt Nam; hay một bên thường trú ở Việt Nam còn người kia đang ở nước ngoài;
hoặc cả hai đang cùng ở nước ngoài nhưng tài sản liên quan đến quan hệ đang ở Việt
Nam.
Trường hợp hai bên là công dân Việt Nam xin ly hôn thì có thể một bên đang ở
Việt Nam còn một bên đang ở nước ngoài; hoặc cả hai đang ở nước ngoài.
Do các đương sự có thể cư trú ở nhiều nước khác nhau nên pháp luật áp dụng để
giải quyết quan hệ trong mỗi trường hợp cũng khác nhau. Điển hình như trường hợp
công dân Việt Nam ly hôn với người nước ngoài, nếu hai bên cùng cư trú ở Việt Nam
thì pháp luật Việt Nam sẽ điều chỉnh; nếu cả hai cùng ở nước ngoài thì pháp luật điều

chỉnh quan hệ ly hôn lúc này là luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng.

20


Nói tóm lại, khi có thêm yếu tố nước ngoài quan hệ ly hôn trở nên đa dạng và
phức tạp hơn so với quan hệ ly hôn trong nước. Với sự tham gia của nhiều dạng chủ thể
kéo theo sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khi một quan hệ ly hôn phát sinh
đã tạo nên những đặc trưng cho quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
1.3.2. Phương pháp điều chỉnh
Trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì phương pháp điều chỉnh là phương
pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hòa
và tác động tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
nhằm đảm bảo một trật tự pháp lý dân sự quốc tế ổn định trong điều kiện hội nhập hiện
nay.
 Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh gián tiếp) là
phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật của
một nước được chỉ định nhằm giải quyết các quan hệ phát sinh thông qua các quy phạm
xung đột pháp luật.
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống các
quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các Điều ước quốc tế
mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn định pháp
luật của nước nào cần phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ trong một tình
huống thực tế25.
Như vậy, quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết cụ thể quyền và nghĩa vụ
của các bên trong một quan hệ pháp luật nào đó mà nó chỉ xác định rằng cần phải áp
dụng pháp luật của nước nào (trong số những nước có liên quan) để điều chỉnh quan hệ
đó.
Quy phạm xung đột là một loại quy phạm pháp luật đặc biệt có cơ cấu khác với cơ

cấu thường gặp của quy phạm pháp luật. Lý luận chung về pháp luật thường khẳng
định quy phạm pháp luật phổ biến được cấu thành bởi ba bộ phận là: giả định, quy
định, chế tài. Trong khi đó, quy phạm xung đột được cấu thành bởi hai bộ phận là phạm
vi (tương tự phần “giả định”) và hệ thuộc (tương tự phần “quy định”), không có quy
phạm xung đột nào lại có phần “chế tài”.
Quy phạm xung đột bao gồm: quy phạm xung đột do từng quốc gia xây dựng và
quy phạm xung đột thống nhất.
Quy phạm xung đột do từng quốc gia xây dựng: là việc các quốc gia tự mình xây
dựng các quy phạm hướng dẫn chọn luật áp dụng cho các quan hệ Tư pháp quốc tế cụ
thể.

25

Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.37.

21


Quy phạm xung đột thống nhất là loại quy phạm được hình thành do sự thỏa thuận
xây dựng nên bởi hai hay nhiều quốc gia.
Hiện nay, để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước
ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc (quy tắc lựa chọn pháp luật) cơ
bản sau: luật nhân thân gồm hai biến dạng là luật quốc tịch và luật nơi cư trú; luật nơi
có tài sản.
 Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực
chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp
phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ26.
Quy phạm thực chất là loại quy phạm ấn định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ tư pháp quốc tế, thậm chí quy định cả các hình thức và biện pháp chế

tài cần hoặc có thể được áp dụng trong trường hợp có vi phạm pháp luật xảy ra.
Quy phạm thực chất bao gồm: Quy phạm thực chất do từng quốc gia xây dựng,
quy phạm thực chất thống nhất.
Quy phạm thực chất do từng quốc gia xây dựng: là việc mỗi quốc gia tự mình xây
dựng các quy phạm ấn định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể khi tham
gia vào tư pháp quốc tế nào đó.
Quy phạm thực chất thống nhất: là quy phạm thực chất được hình thành do sự
thỏa thuận thống nhất xây dựng nên bởi hai hay nhiều quốc gia.
Nói tóm lại, phương pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đa dạng
và phức tạp hơn rất nhiều so với quan hệ ly hôn trong nước. Nếu như quan hệ ly hôn
trong nước chỉ sử dụng quy phạm do chính quốc gia ban hành, thì quan hệ ly hôn có
yếu tố nước ngoài có thể được điều chỉnh bởi quy phạm xung đột hoặc quy phạm thực
chất. Với đặc thù của quy phạm xung đột là không quy định quyền và nghĩa vụ trực
tiếp của các bên khi tham gia vào quan hệ mà chỉ quy định là luật nước nào được áp
dụng để giải quyết quan hệ, chính điều này có thể sẽ dẫn đến việc pháp luật của nhiều
quốc gia sẽ được dẫn chiếu đến khi giải quyết quan hệ đó. Điều này đã tạo nên đặc
trưng của phương pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

26

Trường Đại học luật Hà Nôị, (2006), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.34.

22


CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
2.1. Các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài

2.1.1. Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài
Như các ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội khác. Pháp luật điều chỉnh quan
hệ ly hôn đóng một vai trò khá quan trọng, từ một bản án, quyết định có thể làm thay
đổi rất nhiều đến cuộc sống, ít nhất là của hai con người. Trước tầm quan trọng đó pháp
luật Việt Nam đã có những quy định khá chặt chẽ để điều chỉnh quan hệ này, đặc biệt
là khi có sự tham gia của yếu tố nước ngoài.
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, khi quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài phát sinh thì được điều chỉnh như sau:
“Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, người nước ngoài
với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam27. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại
Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật
của nước nơi thường trú chung của vợ chồng, nếu các bên không có nơi thường trú
chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam28. Trong trường hợp giải quyết tài sản là
bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn thì phải tuân theo pháp luật nước nơi có tài sản
đó29.
Từ những quy định trên có thể thấy, hầu hết các trường hợp ly hôn có yếu tố nước
ngoài, pháp luật sẽ được áp dụng để điều chỉnh là pháp luật Việt Nam.

27
28
29

Khoản 1 Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Khoản 2 Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Khoản 3 Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

23



Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vấn đề ly hôn được quy định tại
Chương X với 15 điều (từ Điều 85 đến Điều 99). Trong Chương này, các vấn đề pháp
lý cơ bản về ly hôn đã được quy định tương đối chi tiết. Ví dụ, quyền của các bên đối
với việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, các căn cứ để Tòa án xem xét yêu cầu ly
hôn, quyền thăm nom con cái sau khi ly hôn, nguyên tắc chia tài sản sau khi ly hôn…
Và về nguyên tắc, các quy định về ly hôn được ghi nhận tại Chương X Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 cũng được áp dụng cho việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam.
2.1.1.1. Điều kiện ly hôn
 Hôn nhân có giá trị và chưa chấm dứt
Hôn nhân chấm dứt bằng con đường ly hôn phải là hôn nhân có giá trị, tức là được
xác lập phù hợp với quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hôn. Trừ một số
trường hợp ngoại lệ, những người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn, khi xin ly hôn chỉ nhận được quyết định của Tòa án tuyên bố không thừa
nhận quan hệ vợ chồng.
Nếu hôn nhân chấm dứt do một người chết thì việc xin ly hôn cũng không còn ý
nghĩa. Trong trường hợp vụ án ly hôn đang diễn tiến mà một trong hai bên chết, thì Tòa
án sẽ đình chỉ và người còn lại được trả về tình trạng độc thân với tư cách là vợ (chồng)
góa chứ không phải vợ (chồng) ly hôn. Nếu hôn nhân bị hủy theo một bản án có hiệu
lực pháp luật thì việc ly hôn cũng không thể được xem xét, do đối tượng không còn.
 Năng lực hành vi của người xin ly hôn
Người yêu cầu Tòa án quyết định cho ly hôn phải có năng lực hành vi. Người mất
năng lực hành vi không thể nộp đơn xin ly hôn và cả người giám hộ của người mất
năng lực hành vi cũng không thể làm việc đó thay cho người mà mình giám hộ: ta nói
rằng người mất năng lực hành vi không có năng lực pháp luật ly hôn. Người không
nhận thức được hành vi của mình nhưng lại chưa bị tuyên bố mất năng lực hành vi
bằng một quyết định của Tòa án cũng không thể xin ly hôn hoặc chấp nhận đơn xin ly
hôn của vợ (chồng) mình trong lúc không nhận thức được hành vi của mình, bởi ý chí
bày tỏ khi đó không phải là ý chí thực.30

Pháp luật Việt Nam quy định người yêu cầu Tòa án quyết định cho ly hôn phải có
năng lực hành vi, nhưng lại không đề cập là phải có năng lực hành vi đầy đủ. Vần đề
đặt ra là: liệu người bị hạn chế năng lực hành vi có quyền yêu cầu Tòa án quyết định
cho ly hôn hay không? Bộ luật dân sự 2005 quy định “người bị hạn chế năng lực hành
vi là người nghiện ma túy, nghiện chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan,
30

Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân gia đình Việt Nam-Tập 1, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ
chí Minh-2002, tr.311,312.

24


Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”31.
Theo quan điểm của người viết do họ nghiện ma túy, nghiện chất kích thích có thể tinh
thần của họ không được minh mẫn và việc thể hiện ý chí lúc này cũng không thật chính
xác. Do đó, người viết cho rằng người bị hạn chế năng lực hành vi cũng không thể nộp
đơn xin ly hôn.
 Sự tự nguyện của người xin ly hôn
Người nộp đơn xin ly hôn phải xuất phát từ ý chí tự nguyện, tức là người nộp đơn
lúc này không bị ai cưỡng ép, đe dọa buộc phải nộp đơn ly hôn mà chính bản thân họ
thật sự thấy rằng cuộc sống hôn nhân đã có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích xây dựng hôn nhân ban đầu đã không thể đạt được,
việc xin ly hôn là giải pháp tốt nhất cho hai người lúc này. Nếu người viết đơn xin ly
hôn hoặc ký vào đơn xin ly hôn trong điều kiện không có sự ưng thuận, hoặc sự ưng
thuận không hoàn hảo thì Tòa án có thể bác đơn kiện ngay mà không cần xem xét đến
nội dung đơn. Thẩm phán sẽ kiểm tra sự tự nguyện của người nộp đơn.
 Điều kiện hạn chế quyền xin ly hôn
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rằng: “Trong trường hợp vợ có thai

hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly
hôn”32.
Dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, quy định trên nhằm
hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng, với mục đích là bảo đảm cho sức khỏe của
người phụ nữ và sự phát triển của đứa bé sau này.
Luật chỉ đề cập đến trường hợp người vợ có thai hoặc nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi. Do đó, khi người vợ mang thai dù là con trong hoặc ngoài giả thú thì người
chồng vẫn bị hạn chế quyền xin ly hôn. Tương tự, vì luật chỉ đề cập là “con dưới mười
hai tháng tuổi” nên dù đứa bé là con ruột hay con nuôi của hai vợ chồng miễn là dưới
mười hai tháng tuổi thì người chồng cũng sẽ bị hạn chế quyền xin ly hôn.
Như đã nói ở trên, dù là con nuôi hay con ruột miễn là dưới mười hai tháng tuổi
thì người chồng không có quyền xin ly hôn, nhưng trong trường hợp người chồng nhận
con nuôi dưới mười hai tháng tuổi thì người vợ vẫn được quyền nộp đơn mà không bị
bất kỳ hạn chế nào.
Đơn xin ly hôn sẽ được Tòa án thụ lý khi thỏa mãn các điều kiện về hôn nhân có
giá trị, năng lực hành vi của chủ thể, sự tự nguyện và còn phải không rơi vào trường
hợp hạn chế ly hôn. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nếu thuộc một
trong các trường hợp nêu trên mà chồng có yêu cầu xin ly hôn thì giải quyết như sau:

31
32

Điều 23 Bộ luật dân sự 2005.
Khoản 2 Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

25



×