Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT VIỆT NAM về đầu tư TRỰC TIẾP RA nước NGOÀI NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 124 trang )

Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH – THƯƠNG MẠI
-----

-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2008 – 2012

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:
Đoàn Nguyễn Phú Cường

Sinh viên thực hiện:
Phạm Thị Tuyết Giang
MSSV: 5085876
Lớp: Luật Thương Mại 2 –K34

Cần Thơ, tháng 4 năm 2012

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 1


SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình làm luận văn người viết đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của các
thầy cô Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ. Và hơn hết là thầy Đoàn Nguyễn Phú
Cường đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ và động viên người viết hoàn thành luận văn này.
Bên cạnh, luận văn hoàn thành còn nhờ sự giúp đỡ tận tình của bạn bè, gia đình và
những anh chị đã đi trước.
Với điều kiện thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế
còn hạn chế; đồng thời đây là bài viết đầu tiên, nên không thể tránh khỏi những sai
sót, mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các quý thầy cô để bài viết của tác giả
được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Tuyết Giang

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 2

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
ĐTRN

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

BKHĐT

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

GCNĐTRN

Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

DA

Dự án

TTgCP

Thủ tướng chính phủ

CP

Chính phủ

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 3

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang



Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
--------------…………………………………..……………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………
Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2012

Cán bộ hướng dẫn

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 4

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
--------------…………………………………..……………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………….
Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2012
Cán bộ phản biện

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 5

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG 1
11
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
11
1.1. Khái niệm về đầu tư ra nước ngoài và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ............... 12
1.1.1. Khái niệm về đầu tư ra nước ngoài ................................................................... 12
1.1.2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài..................................................... 16

1.2. Bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .................................... 17
1.2.1. Bản chất đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ........................................................... 17
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.................................................... 18
1.3. Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .............................................................. 19
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể được đầu tư ........................................................................ 20
1.3.2. Căn cứ vào phương thức đầu tư ........................................................................ 22
1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài........................................... 23
1.4.1. Những ảnh hưởng tích cực của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .... 23
1.4.1.1. Về mặt lý luận chung .................................................................................... 23
1.4.1.2. Đối với Việt Nam .......................................................................................... 26
1.4.2. Những mặt hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài................. 31
1.4.2.1. Đối với quốc gia đi đầu tư ........................................................................... 31
1.4.2.2. Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư ................................................................ 33
1.5. Khái lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về đầu tư ra
nước ngoài ........................................................................................................................ 34
CHƯƠNG 2 40
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI 40
2.1. Chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài............................... 40
2.1.1. Nhà đầu tư là tổ chức ......................................................................................... 40
2.1.1.1. Nhà đầu tư là các doanh nghiệp................................................................... 40
2.1.1.2. Nhà đầu tư là hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã............................................ 42
2.1.1.3. Nhà đầu tư là các cơ sở dịch vụ: cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, thể
thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi.................................... 42
2.1.2. Nhà đầu tư là cá nhân Việt Nam, hộ kinh doanh ............................................. 43
2.1.2.1. Cá nhân Việt Nam......................................................................................... 44
2.1.2.2. Hộ kinh doanh............................................................................................... 46
2.2. Lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ................................................................ 51
2.3. Điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ............................................................... 54
2.4. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp và điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ............................................................................................................ 57

2.4.1. Thẩm quyền chấp thuận đầu tư trực tiếp ra nước ngoài............................... 57

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 6

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn
2.4.2. Thẩm quyền cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .............................................................................................................................. 58
2.4.3. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ...... 58
2.4.3.1. Quy trình đăng ký, cấp Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ... 59
2.4.3.2. Quy trình thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .. 60
2.4.4. Thẩm quyền điều chỉnh và quy trình điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài................................................................................................ 62
2.4.4.1. Quy trình đăng ký, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .......................................................................................................................... 63
2.4.4.2. Quy trình thẩm tra, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .......................................................................................................................... 64
2.5. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tham gia hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ........................................................................................................................ 66
2.5.1. Quyền của nhà đầu tư khi tham gia hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .............................................................................................................................. 66
2.5.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tham gia hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .............................................................................................................................. 69
CHƯƠNG 3 76
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
76
3.1. Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam
trong thời gian qua .......................................................................................................... 76
3.1.1. Tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam
trong thời gian qua ....................................................................................................... 76
3.1.2. Bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành đối với hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài ................................................................................................. 79
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ......... 87
3.2.1. Những giải pháp từ phía Nhà nước nhằm nâng cao khả năng đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam .............................................................. 87
3.2.1.1. Cần thay đổi quan điểm của một bộ phận cơ quan có thẩm quyền đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.................................................................. 87
3.2.1.2. Xây dựng chiến lược tổng thể đối với việc phát triển hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài...................................................................................................... 88
3.2.1.3. Về việc xây dựng những quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài .......................................................................................................................... 89
3.2.1.4. Về chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước ................................................. 97
3.2.1.5. Về cung cấp thông tin ................................................................................... 99
3.2.2. Những giải pháp bổ sung đối với các nhà đầu tư khi tham gia hoạt động đầu
tư rực tiếp ra nước ngoài.............................................................................................. 99
KẾT LUẬN 100
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 7

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực

tiễn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển khá vượt bậc và dần ổn
định so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được thành quả đó có sự
đóng góp của tất cả các ngành, thành phần kinh tế, trong đó phải kể đến hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài - ngày càng phát triển mạnh cả về chiều sâu và chiều
rộng.
Ngày 01/7/2006, Luật Đầu tư số 59/2006/QH10 ngày 29/11/2005 có hiệu lực,
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam đã chính thức được luật hóa một
cách có hệ thống hơn. Không lâu sau, vào ngày 9 tháng 8 năm 2006 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 78/2006/NĐ – CP nhằm cụ thể hóa những quy định của pháp
luật đối với hoạt động này. Với sự ra đời của Nhị định 78/2006/NĐ – CP là một đòn
bẩy pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư Việt Nam. Có thể khẳng định, từ đây hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã thật sự bước vào giai đoạn mới, giai đoạn
vươn dậy để hoà mình vào sân chơi quốc tế.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hình thức đầu khá phức tạp, mang tính
rủi ro cao và còn non trẻ ở Việt Nam so với một số nước trên thế giới. Tuy nhiên,
những lợi ích mà hoạt động này mang lại đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế - chính trị quốc gia. Qua gần 6 năm tồn tại, Nghị định
78/2006/NĐ – CP cũng như Luật Đầu tư đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài ngày càng phát huy được vai trò quan trọng của mình. Đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách quốc
gia, góp phần củng cố và thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với bạn bè
quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện nay vẫn chưa thật
sự mang lại hiệu quả và chưa được quan tâm đúng mức nên khó thu hút được nhiều
người nhà đầu tư tham gia. Một phần là do những quy định của pháp luật về đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài chưa thật sự hoàn chỉnh, việc áp dụng luật vào thực tiễn còn
nhiều bất cập.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với kiến thức đã học,
người viết chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 8

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài về mặt lý luận lẫn thực tiễn là vấn đề
có nội dung rộng và phức tạp. Vì vậy, trong phạm vi của luận văn này người viết
không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Người viết chỉ dừng lại
ở việc nghiên cứu một cách khái quát nhất đối với hoạt động đầu tư này dưới cách
tiếp cận của một sinh viên Luật. Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật
Việt Nam về chủ thể; lĩnh vực; hình thức; điều kiện; trình tự, cách thức cấp, điều
chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư cùng một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tư
khi tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Người viết sẽ tập trung
nghiên cứu Nghị định 78/2006/NĐ – CP, ngày 9 tháng 8 năm 2006 Quy định về đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài và những quy định khác có liên quan.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này người viết mong muốn làm sáng tỏ về mặt lý luận,
chỉ ra những khiếm khuyết về mặt lập pháp, những bất cập khi áp dụng các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

So sánh các quy định này với các quy định trong các văn bản điều chỉnh hoạt động
đầu tư này trước đây (Nghị định 22/1999/NĐ – CP, ngày 14 tháng 4 năm 1999 Quy
định về đầu tư ra nước ngoài và Thông tư 05/2001/TT – BKH, ngày 30 tháng 8 năm
2001 Hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam) để rút
ra những ưu và nhược điểm của pháp luật thực định. Đồng thời, tìm hiểu việc áp
dụng các quy định này trên thực tế để biết được những quy định nào của pháp luật
hiện hành là chưa phù hợp, chưa đầy đủ, chưa rõ ràng cần được sửa đổi, bổ sung.
Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng khắc phục chung và một số giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở nước ta, phục
vụ mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và hội nhập vào đời sống khu vực và quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết sử dụng các phương pháp cụ
thể như: phương pháp liệt kê, phương pháp phân tích luật viết, phương pháp so sánh,
tổng hợp, phương pháp thu thập tổng hợp và xử lý thông tin, phương pháp nghiên
cứu tài liệu để thực hiện việc nghiên cứu đề tài. Cụ thể, người viết đã tiến hành phân
tích làm rõ các kiến thức chuyên môn, từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề mình
đang nghiên cứu. Tiến hành trình bày các quy định của pháp luật, giải thích và chỉ ra
các mặt tích cực và những điểm tồn tại trong các quy định này. Sau đó so sánh, đánh
giá giữa cơ sở lý luận và thực tiễn có mâu thuẫn hay không thống nhất nhau. Từ đó,
người viết đã tổng hợp các vấn đề này lại để có cách nhìn tổng quát và đúng bản chất
hơn của vấn đề.
5. Cấu trúc đề tài
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 9

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực

tiễn

Ngoài những nội dung như Bảng từ viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của đề tài được bố cục thành 3 chương.
Trong chương 1, người viết sẽ khái quát chung về hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
Tiếp theo, trong chương 2 người viết đi sâu phân tích, làm rõ những quy định
của luật thực định đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Cuối cùng, ở chương 3 sẽ trình bày thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, nguyên nhân dẫn đến những những hạn chế của luật thực định và đề
ra những phương hướng giải quyết, biện pháp khắc phục tình trạng đó.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 10

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bao gồm 2 dòng1: (1) Thu hút
FDI từ nước ngoài vào trong nước; (2) Tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thực tế đã cho thấy, FDI có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế từng quốc gia nói riêng. Một số nước
đang phát triển dường như chỉ chú trọng thu hút FDI để phát triển nền kinh tế trong
nước. Với quan điểm cho rằng, chỉ có những quốc gia đã phát triển có nguồn vốn khá

dồi dào mới thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nhưng thực tế đã chứng minh
rằng, một quốc gia tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng nhiều thì càng có
nhiều cơ hội vượt qua các rào cản của các nước nhập khẩu nhằm mở rộng thị trường,
tạo thêm việc làm, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, phân tán rủi ro do quá tập
trung vào một thị trường nhất định và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước. Hơn
thế nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTRN) còn tạo điều kiện để các doanh
nghiệp tự hoàn thiện mình và hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế của đất
nước.
Dù có nhiều vấn đề đặt ra nhưngViệt Nam đã và đang thành công trong thu
hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1987 đến nay và
xu hướng mới đang trỗi dậy trong vài năm trở lại đây, đó là sự gia tăng dòng vốn đầu
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Vậy hiểu thế nào là đầu trực
tiếp ra nước ngoài? Hình thức đầu tư này có đặc điểm như thế nào? Và tại sao phải
tìm hiểu bản chất cũng như vai trò của nó trong con đường xây dựng và phát triển đất
nước? Một cách khái quát nhất có thể nói, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
việc nhà đầu tư di chuyển vốn để tiến hành hoạt động đầu tư trên lãnh thổ của một
quốc gia khác, với mục đích chính là tìm kiếm lợi nhuận và chuyển các khoản lợi
nhuận đó về nước. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất cũng như những ảnh hưởng
của hoạt động này đến sự phát triển của một quốc gia, người viết xin được trình bày
những hiểu biết của mình về vấn đề này qua những phần tiếp sau đây.

1

PGS. TS. Nguyễn Thị Hường, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam,Tạp chí kinh tế
và dự báo, Số 9, năm 2007.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 11


SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

1.1. Khái niệm về đầu tư ra nước ngoài và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về đầu tư ra nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài là một dạng của hình thức đầu tư quốc tế2, theo đó hoạt
động đầu tư quốc tế được thực hiện chủ yếu dưới hai dạng là đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Hiện nay, thuật ngữ về đầu tư ra nước ngoài
được tiếp cận và hiểu dưới nhiều phương diện khác nhau.
Trong khoa học kinh tế, đầu tư ra nước ngoài được quan niệm là hoạt động sử
dụng cơ bản các nguồn lực hiện tại của một quốc gia để di chuyển các nguồn lực này
sang lãnh thổ của một quốc gia khác, nhằm tiến hành các hoạt động cần thiết với
mục đích cuối cùng là đem lại cho nền kinh tế - xã hội của quốc gia đó lợi nhuận
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng ban đầu3. Ngoài ra, cũng có quan
điểm cho rằng4: “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư
sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của
nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Các
nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể là tiền, nguyên
vật liệu, sức lao động, trí tuệ…. Từ đó cho thấy, đầu tư ra nước ngoài được xem là
một trong những nhân tố không thể thiếu để góp phần xây dựng và phát triển nền
kinh tế của một quốc gia, là chìa khóa của đòn bẩy kinh tế thế giới. Đồng thời mọi
hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư ra nước ngoài nói riêng suy cho cùng đều
hướng tới những lợi ích xác định. Những lợi ích đạt được từ hoạt động đầu tư ra
nước ngoài không chỉ trực tiếp mang đến lợi ích cho nhà đầu tư mà còn mang lại lợi
ích cho nền kinh tế và toàn xã hội của quốc gia đi đầu tư.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư ra nước ngoài được hiểu theo nghĩa phổ thông là
việc nhà đầu tư của quốc gia này bỏ vốn, tài sản hợp pháp theo các hình thức và cách

thức do pháp luật quy định để tiến hành thực hiện các hoạt động cần thiết trên lãnh
thổ một quốc gia khác nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội khác.
2

Đầu tư quốc tế là quá trình dịch chuyển vốn, tài sản từ quốc gia này sang quốc gia khác để các nhà đầu tư

tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh – dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu
kinh tế xã hội nhất định. Xem Giáo trình Luật đầu tư, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
năm 2006, trang 177.
3
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp cử nhân
luật niên khóa 2005 – 2009, Trường Đại học cần thơ – Khoa Luật.
4
Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, tại
/>Nam.html

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 12

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể có tính chất là kinh doanh thương mại hoặc
phi thương mại. Tuy nhiên, phần nhiều trong khoa học pháp lý cũng như trong việc
xây dựng chính sách, hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của các nước trên
thế giới hiện nay chủ yếu đề cập đến là đầu tư ra nước ngoài trong kinh doanh

thương mại; với bản chất là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm gia tăng
giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận.
Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) thì: “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn
từ nước của chủ đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp
kinh doanh hoặc dịch vụ”. Ở Việt Nam, khái niệm đầu tư ra nước ngoài được hiểu
theo khuôn khổ pháp lý thống nhất, điều chỉnh các hoạt động đầu tư ra nước ngoài
trước thời điểm Luật Đầu tư năm 2005 là Nghị định số 22/1999/NĐ – CP, ngày 14
tháng 4 năm 1999 Quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam,
Thông tư 05/2001/TT – BKH, ngày 30 tháng 8 năm 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam cùng một
số văn bản pháp luật có liên quan.
Tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định 22/1999/NĐ – CP đưa ra định nghĩa: “Đầu tư ra
nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc Doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn
bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài theo quy định
của Nghị định này;”. Cùng với định nghĩa về đầu tư ra nước ngoài theo Nghị định
22/1999/NĐ – CP thì Khoản 2 Điều 1 Thông tư 05/2001/BKH cũng gián tiếp quy
định hoạt động này như sau: “Thông tư này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đưa vốn bằng tiền hoặc các tài sản được
phép khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp theo quy định của Nghị định số
22/1999/NĐ – CP, ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ.”
Với cách hiểu của 2 khái niệm được quy định tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định
22/1999/NĐ – CP và Khoản 2 Điều 1 Thông tư 05/2001/BKH, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài
Hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam theo quy định của
pháp luật là hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, không phải mọi hình
thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đều được điều chỉnh
bởi Nghị định số 22/1999/NĐ – CP. Bên cạnh đó, các quan hệ đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài hoặc tín dụng quốc tế cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị

định này. Điều này đã lý giải cho lý do tại sao Khoản 2 Điều 1 Nghị định

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 13

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

22/1999/NĐ – CP5 và Khoản 3 Điều 1 Thông tư 05/2001/TT – BKH6 ghi nhận không
điều chỉnh việc đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam dưới các hình thức
cho vay tín dụng, mua cổ phiếu hoặc đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng,
bảo hiểm.
Thứ hai, chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài là các doanh
nghiệp được nêu trong Nghị định 22/1999/NĐ – CP
Chủ thể được phép tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài chỉ có thể là doanh
nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đều được phép đầu tư ra nước
ngoài trong khuôn khổ của Nghị định 22/1999/NĐ – CP, mà chỉ có một số doanh
nghiệp Việt Nam được nêu tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 22/1999/NĐ – CP và được
hướng dẫn cụ thể tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư 05/2001/TT – BKH7 mới được đầu tư
ra nước ngoài. Từ điều khoản vừa nêu nhận thấy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được thành lập theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ
không thuộc đối tượng chịu sự điều chỉnh của Nghị định 22/1999/NĐ – CP mà sẽ
được thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ8.
Như vậy, định nghĩa về đầu tư ra nước ngoài theo quy định của Nghị định
22/1999/NĐ – CP và Thông tư 05/2001/TT – BKH vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bao
quát hết nội hàm và đặc điểm của hình thức đầu tư ra nước ngoài. Do đó, ít nhiều đã

hạn chế quyền lợi tự do kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như các chủ thể khác
khi muốn đầu tư ra nước ngoài.
Hiện nay, các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài
đã chính thức được pháp điển hóa trong Luật Đầu tư năm 2005. Theo quy định của
Luật Đầu tư năm 2005, cụ thể là Khoản 14 Điều 3 có nêu: “Đầu tư ra nước ngoài là
việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước
ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư”. Bên cạnh đó, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005
cũng khái quát hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại Khoản 14 Điều 4: “Đầu tư ra nước
ngoài là việc người cư trú chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư dưới các hình thức
theo quy định của pháp luật”.
So với những quy định trước đây, khái niệm đầu tư ra nước ngoài theo quy định
của Luật Đầu tư năm 2005 không còn bị giới hạn theo tiêu chí hình thức đầu tư và
chủ thể của quan hệ đầu tư như trong Nghị định 22/1999/NĐ – CP. Điều này có
nghĩa là, đầu tư ra nước ngoài có thể được thực hiện dưới hình thức ĐTRN và đầu tư

5

Xem Khoản 2, Điều 1, Nghị định 22/1999/NĐ – CP, ngày 14 tháng 4 năm 1999.
Xem Khoản 3, Điều 1, Thông tư 05/2001/TT – BKH, ngày 30 tháng 8 năm 2001.
7
Xem Khoản 2, Điều 2, Nghị định 22/1999/NĐ – CP, ngày 14 tháng 4 năm 1999.
8
Xem Khoản 1, Điều 1, Thông tư 05/2001/TT – BKH, ngày 30 tháng 8 năm 2001.
6

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 14

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang



Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

gián tiếp ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân mà theo quy định của pháp luật Việt
Nam được phép tiến hành hoạt động đầu tư9.
Trên cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế hình thành nên những quy định của
pháp luật đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài xuất phát từ mục tiêu đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, góp phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế xã hội của nước nhà và cũng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân trong
hoạt động kinh doanh10.
Từ khi Luật Đầu tư năm 2005 ra đời đã phân biệt giữa hoạt động đầu tư ra nước
ngoài và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Điều này là một điểm tiến bộ
trong quy định pháp luật Việt Nam đối với hình thức đầu tư ra nước ngoài so với giai
đoạn trước đó. Như đã phân tích trên, hoạt động đầu tư ra nước ngoài được thực hiện
dưới hai hình thức là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài11. Việc tìm hiểu nội hàm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động ĐTRN sẽ được
người viết trình bày ở mục kế tiếp. Nhìn chung, về bản chất cũng như về đặc điểm
của hai hình thức đầu tư vừa nêu hoàn toàn khác nhau đồng thời những quy định
pháp luật điều chỉnh hai hoạt động này cũng cơ bản khác nhau (đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài phải thực hiện theo những quy định của pháp luật chuyên ngành như:
pháp luật về ngân hàng, chứng khoán, pháp luật về quản lý ngoại hối và các quy định
của pháp luật khác có liên quan). Trong khi đó tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định
22/1999/NĐ – CP lại chỉ rõ hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo Nghị định này là
ĐTRN nhưng ngay tên gọi của Nghị định 22/1999/NĐ – CP lại là “quy định về đầu
tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”. So về mặt câu chữ thì điều này có vẻ
chưa hợp lý, bởi chưa xác định rõ phạm vi điều chỉnh của văn bản này.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay thì đa phần khi các nhà đầu tư Việt Nam tiến
hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều thực hiện dưới dạng ĐTRN; công tác quản
lý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài được đề cập chủ

yếu là hình thức ĐTRN, những quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài sẽ phụ
thuộc vào từng quy định riêng của pháp luật chuyên ngành. Như vậy, khi nhắc đến
hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong công tác quản lý chuyên ngành của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư có thể hiểu ngầm chính là hoạt động ĐTRN. Do đó, trong phạm vi

9

Giáo trình Luật đầu tư, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, trang 180.
Xem Điều 57, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung
năm 2001.
11
Hình thức đầu tư ra nước ngoài mà các đầu tư thông qua thị trường tài chính mua cổ phần hoặc chứng khoán
của các công ty nước tiếp nhận đầu tư nhằm thu lại lợi nhuận dưới hình thức cổ tức hoặc thu nhập chứng
khoán mà không tham gia điều hành trực tiếp đối với đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư. Xem Giáo trình Luật
đầu tư, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, trang 178.
10

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 15

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

nghiên cứu của đề tài này người viết chỉ tập trung phân tích, tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành đối với hoạt động ĐTRN của nhà đầu tư Việt Nam.


1.1.2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Gần đây, khái niệm ĐTRN hay còn gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định
chính sách kinh tế vĩ mô của đất nước; đồng thời góp phần tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế12. ĐTRN được hiểu là một loại
hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp
quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của ĐTRN là kết
quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Theo từ điển bách khoa toàn thư thì “đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI =
Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty
nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân
hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này”.
Bên cạnh đó, Qũy tiền tệ thế giới (International Moneytary Fund – IMF), trong
báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau13: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một
doanh nghiệp tại một đất nước khác (nước nhận đầu tư – hosting country), không
phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư – source country)
với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”. Như vậy, ĐTRN được sử
dụng chủ yếu trong hoạt động đầu tư mang tính chất dài hạn và luôn có sự di chuyển
dòng vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách thiết lập các dự án đầu tư tại
đó, đồng thời chủ đầu tư sẽ trực tiếp tham gia quản lý đối tượng mà họ đã bỏ vốn đầu
tư.
Ngoài ra, cũng có một số cách hiểu khác khi tiếp cận với khái niệm về ĐTRN.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới định nghĩa: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một
nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện
quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở

12


ThS. Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, NXB Tư pháp, năm
2005, trang 27.
13
Blance of payments fifth edition, Whashington, DC, IMF 1993, page 235.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 16

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công
ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty”.
Trong nhiều năm qua tốc độ phát triển nền kinh tế của Việt Nam có những thay
đổi vượt bậc, môi trường kinh doanh trong nước trở nên sôi động và “chật chội” hơn,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên gay gắt; đã dẫn đến một nhu cầu tất yếu là
ĐTRN. Tuy nhiên, khi tiến hành tiềm kiếm cơ hội đầu tư mới ở các quốc gia khác là
điều không dễ. Bên cạnh việc đòi hỏi tự bản thân mỗi doanh nghiệp phải năng động,
nhạy bén trong chiến lược đầu tư mà còn có một cơ chế quản lý phù hợp, một hành
lang pháp lý an toàn để hạn chế những khó khăn cho các doanh nghiệp này. Đặc biệt,
kể từ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) thì vấn đề này ngày càng trở nên cần thiết hơn. Vì thế, trong những năm qua
hoạt động ĐTRN cũng được nhiều học giả của Việt Nam nghiên cứu đến.
Theo cách hiểu của các doanh nghiệp Việt Nam, thì hoạt động ĐTRN là việc
các nhà đầu tư Việt Nam đưa vốn ra nước ngoài để trực tiếp đầu tư quản lý hoạt động

sản xuất kinh doanh với mong muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hoặc dịch
vụ và thu được lợi nhuận cao hơn so với trong nước. Định nghĩa này còn được cụ thể
hóa bằng quy định của pháp luật, tại Khoản 1 Điều 3 Nghị đinh 78/2006/NĐ – CP,
ngày 9 tháng 8 năm 2006 Quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có nêu: “Đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực
hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước
ngoài”. Từ định nghĩa này, theo người viết nhận thấy hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam được cấu thành bởi hai yếu tố chính
sau: (1) đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhất định phải tồn tại yếu tố chuyển dịch vốn
của nhà đầu tư ra khỏi lãnh thổ của một quốc gia; (2) phải có sự trực tiếp tham gia
quản lý, điều hành dự án đầu tư đó của chủ đầu tư trên quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Đây là hai yếu tố cần và đủ để hình thành khái niệm của hoạt động ĐTRN theo quy
định của pháp luật Việt Nam nói riêng và cách hiểu của Việt Nam cũng gần giống
với quan điểm về ĐTRN của các nước trên thế giới nói chung mà người viết đã trình
bày phía trên.
Tóm lại, để phân biệt giữa đầu tư ra nước ngoài và đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài cơ bản căn cứ vào hai yếu tố: (1) có sự tham gia quản lý chủ nhà đầu tư đối với
dự án đầu tư ở nước tiếp nhận hay không; (2) thời gian tiến hành toàn bộ dự án. Nếu
một nhà đầu tư di chuyển vốn để tiến hành một dự án kinh doanh dài hạn ở nước
ngoài và trực tiếp tham gia quản lý dự án đầu tư đó thì sẽ chịu điều chỉnh bởi hệ
thống pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Ngược lại, thì nhà đầu tư đang tiến

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 17

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực

tiễn

hành hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài và tùy thuộc vào từng hình thức cụ thể
sẽ chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật riêng.
1.2. Bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Bản chất đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích các định nghĩa về ĐTRN theo nhiều cách
tiếp cận khác nhau, đồng thời xem xét khái niệm này song song với tiến trình lịch sử
hình thành và phát triển trong từng giai đoạn của pháp luật đầu tư ra nước ngoài ở
Việt Nam. Người viết nhận thấy bản chất cơ bản của hoạt động ĐTRN là nhằm mục
đích khai thác hay tìm kiếm lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư, thông qua việc di
chuyển nguồn vốn bằng tiền, tài sản hợp pháp, trình độ khoa học kỹ thuật…từ nước
đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. Đồng thời, thông qua hoạt động ĐTRN, quốc
gia đi đầu tư cũng có cơ hội để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào quốc gia mình,
từ đó thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với bạn bè quốc tế. Ở đây, nhà đầu tư
có thể là tổ chức hay cá nhân và họ chỉ mong muốn ĐTRN khi khoản đầu tư đó đem
lại lợi ích hoặc lợi nhuận cho họ. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản và là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hầu hết các nước trên thế giới hiện này tiến hành
ĐTRN.
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Khi tìm hiểu hoạt động ĐTRN dưới góc độ pháp lý ta thấy có những đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường mang tính chất lâu dài
Hoạt động đầu tư vốn là việc bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào một công việc có
xác định trước trên cơ sở tính đến yếu tố kinh tế - xã hội để sau một khoản thời gian
nhất định thu được những lợi ích đã đặt ra trước đó (điều này không phải luôn luôn
được đảm bảo vì đầu tư là hoạt động mang tính rủi ro rất cao). Toàn bộ thời gian để
thực hiện một dự án ĐTRN dài hay ngắn còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: lĩnh
vực đầu tư, quá trình luân chuyển vốn, môi trường đầu tư mới có thuận lợi như dự
kiến ban đầu không…. Do đó, trong một khoản thời gian quá ngắn thì nhà đầu tư

không thể nào thu được kết quả từ dự án này. Đây là một trong những điểm để phân
biệt giữa ĐTRN và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Nếu là đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài thường chu kỳ luân chuyển của dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn, kéo
theo lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng nhanh hơn; chỉ cần thông qua việc
mua, bán chứng khoán (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác) thì
nhà đầu tư có thể thu lại vốn gốc và lợi nhuận phát sinh nếu có. Chính vì thế, đầu tư

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 18

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

gián tiếp ra nước ngoài có tính thanh khoản cao hơn so với ĐTRN và gần như dễ
dàng thu lại số vốn đầu tư ban đầu khi chủ đầu tư đem bán chứng khoán14.
Thứ hai, dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có sự tham gia quản lý của chủ
đầu tư. ĐTRN luôn mang tính rủi ro cao vì nơi tiến hành đầu tư là trên lãnh thổ của
một quốc gia khác, môi trường đầu tư này không chỉ đem lại nhiều cơ hội đầu tư
mới, hứa hẹn một kết quả đầu tư khả quan mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường
hết. Việc trực tiếp tham gia quản lý và điều hành hoạt động ĐTRN đã phần nào tạo
tâm lý an tâm cho chủ đầu tư và ít nhiều hạn chế được những khó khăn, rủi ro khi
thực hiện dự án; điều này cho thấy sự cần thiết của quy định pháp luật cho phép chủ
đầu tư khi ĐTRN được trực tiếp điều phối, tham gia quản lý dự án đầu tư mà mình
đã bỏ vốn. Tuy nhiên, quyền tham gia quản lý và kiểm soát doanh nghiệp trong hoạt
động ĐTRN ở mức độ nào còn phụ thuộc vào quy định pháp luật của nước tiếp nhận
đầu tư. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ đầu tư điều hành và

quản lý.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu
là của tư nhân, không bao hàm nguồn vốn của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới
dạng hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và tín dụng thương mại. Do đó nhà đầu tư
có toàn quyền quyết định đầu tư trong khuôn khổ của pháp luật nước đi đầu tư cũng
như nước tiếp nhận đầu tư và họ tự gánh chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Cho nên
hình thức đầu tư này ít chịu ảnh hưởng và những ràng buộc về chính trị15.
Thứ tư, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài gắn với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Trước xu thế chung là ngày càng mở rộng quan hệ đầu tư ra bên ngoài của các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới, thì ĐTRN là một hướng đi mới được nhiều
quốc gia vận dụng có hiệu quả để sớm đạt được mục tiêu trên. Thực tế đã chứng
minh, hoạt động ĐTRN là cầu nối giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa các nước
phát triển với nước đang và kém phát triển với phương châm “hợp tác để cùng phát
triển bền vững, trên cơ sở bình đẵng, hữu nghị”. Trên cơ sở tăng cường hợp tác đầu
tư trong mọi lĩnh vực đã rút ngắn con đường phát triển kinh tế của quốc gia; đồng
thời tạo đòn bẩy cho tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Điều này có nghĩa là,
chỉ có hội nhập trong “sân chơi” quốc tế thì mỗi quốc gia mới có nhiều cơ hội thuận
lợi để phát triển nền kinh tế nội bộ của mình.

14

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp cử nhân
luật niên khóa 2005 – 2009, Trường Đại học cần thơ – Khoa Luật.
15
Giáo trình Luật đầu tư, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, trang 177, 178.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 19


SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

Thứ năm, thông qua hoạt động ĐTRN cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu
tư đều có những lợi ích và thiệt hại nhất định. Những lợi ích cũng như mặt tồn tại của
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ được người viết trình bày, đi sâu phân
tích trong phần sau.
1.3. Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hình thức đầu tư là cách tiến hành hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư theo quy
định của pháp luật. Trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức đầu tư kinh doanh
ngày càng trở nên phong phú, đa dạng; mỗi hình thức đầu tư có những ưu, nhược
điểm và mang đặc điểm riêng nhất định về cách thức đầu tư vốn, tính chất liên kết và
phân chia kết quả kinh doanh giữa các nhà đầu tư. Căn cứ vào nhu cầu và điều kiện
cụ thể mình, các nhà đầu tư có quyền lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp theo
quy định của pháp luật16.
Theo cách lý giải trên thì hình thức ĐTRN không chỉ tuân theo quy định của pháp
luật nước đi đầu tư mà còn chịu sự chi phối bởi hệ thống pháp luật của nước tiếp
nhận đầu tư. Từ đó, có thể hiểu hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức
đầu tư mà ở đó chủ thể đầu tư sẽ đóng góp vốn vào dự án mà họ đầu tư và nắm
quyền quản trị kinh doanh; người đầu tư vốn đồng thời là người sử dụng vốn.
Qua quá trình tìm hiểu các hình thức ĐTRN của các nước trên thế giới, cơ bản có
hai hình thức đầu tư phổ biến sau:
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể được đầu tư
Đây là nhóm hình thức đầu tư mà các chủ thể thực hiện đầu tư ở nước ngoài
thông qua việc thành lập một doanh nghiệp mới (có thể có hoặc không có tư cách
pháp nhân tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia sở tại). Thực tiễn cho thấy,

đây là kênh đầu tư truyền thống và thường gặp ở các nước đang phát triển; do hình
thức đầu tư này bổ sung thêm vốn cho nước nhận đầu tư, tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động bản địa. Nhóm hình thức đầu tư này cơ bản có hai dạng: Đầu tư
vào tổ chức kinh tế và đầu tư theo hợp đồng.
Thứ nhất, đầu tư dưới mô hình tổ chức kinh tế (thành lập tổ chức mới hoặc
góp vốn)
Đầu tư dưới mô hình tổ chức kinh tế với nội dung là nhà đầu tư bỏ vốn để
thành lập mới các cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ nhằm nắm quyền
quản trị của đơn vị kinh doanh đang hoạt động. Theo quy định chung, hình thức đầu
tư vào tổ chức kinh tế bao gồm: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư
và hình thức doanh nghiệp liên doanh.
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư:
16

Giáo trình Luật đầu tư, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân Hà Nội, năm 2006, trang 12.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 20

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

Hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư là nhà đầu tư bỏ
toàn bộ vốn để tiến hành triển khai dự án. Chủ đầu tư có quyền điều hành toàn bộ
doanh nghiệp theo quy định của nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời tự chịu trách nhiệm
đối với kết quả đầu tư.

Hình thức tổ chức kinh tế liên doanh:
Đầu tư với hình thức doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập
do một hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp vốn với doanh nghiệp nước sở tại trên
cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp được thành lập theo phương thức này sẽ có
tư cách pháp lý một pháp nhân; các bên cùng tham gia quản lý, điều hành doanh
nghiệp và cùng chịu rủi ro tương ứng theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên. Trong hình
thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh, pháp luật của một số nước quy định tỷ lệ góp
vốn tối thiểu hoặc tối đa khi liên doanh; cũng có thể là tỷ lệ chung cho tất cả các lĩnh
lực hoặc tùy vào từng lĩnh vực cụ thể.
Như theo quy định tại Điều 7 Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 2004
của Lào thì“nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức liên doanh phải góp ít nhất
là 30% vốn đăng ký của liên doanh17”; còn Luật Đầu tư nước ngoài của Thái lan
được sửa đổi vào năm 2007 thì “nhà đầu tư nước ngoài không được sở hữu quá 50%
giá trị cổ phần của của các liên doanh hoạt động tại Thái Lan18” hoặc theo mục 6
tiểu mục (ii) Luật Đầu tư nước ngoài của Myanmar “nếu một liên doanh được hình
thành vốn đầu tư nước ngoài phải được ít nhất 35% tổng số vốn19”.
Thứ hai, đầu tư theo hình thức hợp đồng
Khác với hình thức đầu tư vào tổ chức kinh tế, ở nhóm hình thức đầu tư theo
hợp đồng việc đầu tư vốn kinh doanh của nhà đầu tư được tiến hành trên cơ sở hợp
đồng giao kết giữa các nhà đầu tư hoặc giữa nhà đầu tư với Nhà nước của nước nhận
đầu tư (các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Nhà đầu tư trực tiếp tiến hành các
hoạt động kinh doanh với tư cách pháp lý của mình phù hợp với nội dung thỏa thuận
trong hợp đồng.
Khi nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư theo hợp đồng ngoài việc tuân thủ
theo quy định về pháp luật đầu tư ra nước ngoài mà còn phải tuân theo các quy định
có liên quan trong hệ thống pháp luật của quốc gia sở tại. Nhóm hình thức đầu tư
theo hợp đồng bao gồm các dạng: Hợp tác kinh doanh (BCC), đầu tư theo hình thức
hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển
giao – kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
17


Xem Điều 7, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, năm 2004.
.vov.
19
Xem tiểu mục (ii), Mục 6, Luật Đầu tư nước ngoài của Myanmar.
18

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 21

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC):
Đây là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các
nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm. Hình
thức đầu tư này không thành lập pháp nhân và khi hết thời hạn đã thỏa thuận trong
hợp đồng các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý. Hợp tác kinh doanh có thể là
hợp tác song phương hoặc hợp tác đa phương.
Hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), xây
dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) và xây dựng – chuyển giao (BT):
Hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), là hình
thức đầu tư được ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu
tư với chủ đầu tư nước ngoài để xây dựng rồi sau đó quản lý, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong một khoản thời gian nhất định; khi hết thời hạn kinh doanh chủ
đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước tiếp nhận đầu tư.

Các biến thể của hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao là
hình thức hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh và hình thức hợp đồng xây
dựng – chuyển giao, sau đây gọi tắt là hình thức BOT, BTO và BT. BTO là hình thức
đầu tư được ký kết giữa cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư với nhà
đầu tư về việc xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu
tư chuyển giao quyền sở hữu công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư nhưng theo đó
Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư sẽ dành quyền kinh doanh cho nhà đầu tư trong
một khoản thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Ở hình
thức BT, sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữu
công trình cho nước nhận đầu tư, Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư sẽ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý.
1.3.2. Căn cứ vào phương thức đầu tư
Khi căn cứ vào phương thức đầu tư thì hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
cơ bản có hình thức mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư tiến hành
quyền đầu tư bằng việc mua lại, liên minh, sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở
nước tiếp nhận đầu tư. Thông thường dạng đầu tư này được thực hiện đa phần bởi
các nước phát triển và những nước công nghiệp mới. Với hình thức đầu tư liên minh,
sáp nhập không mang tính chất làm tăng thêm nguồn vốn cho quốc gia sở tại mà chỉ
làm chuyển quyền sở hữu vốn của chủ doanh nghiệp, bên cạnh nó cũng không tạo
việc làm mới mà thậm chí có thể làm giảm số lao động hiện có trong doanh nghiệp
do việc tinh giản cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp dẫn đến nhu cầu cắt giảm lao động
không cần thiết. Nhưng nếu không tiến hành sáp nhập thì rất có thể dẫn đến tình
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 22

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang



Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

trạng các doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, điều này càng làm cho số lượng
công nhân thất nghiệp sẽ cao hơn. Tuy nhiên, lợi ích trực tiếp của hình thức đầu tư
liên minh, sáp nhập là làm gia tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp mới, tạo ra
nhiều tập đoàn doanh nghiệp có vị trí chủ chốt trong nền kinh tế.
Nhìn chung, với mỗi hình thức ĐTRN luôn song song tồn tại hai mặt ưu và
nhược điểm. Do đó, tùy thuộc vào khả năng vốn, lĩnh vực, ngành nghề đầu tư, quy
định pháp luật của quốc gia sở tại…. mà nhà đầu tư có những lựa chọn phù hợp để
đạt được kết quả đầu tư tốt nhất.
1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ĐTRN hiện nay là xu thế tất yếu của mỗi quốc gia để hòa mình vào nền kinh tế
chung thế giới. Không những thế, ĐTRN có vai trò to lớn đối với việc phát triển kinh
tế, thương mại của nước đi đầu tư lẫn nước tiếp nhận đầu tư. Thật vậy, hoạt động
ĐTRN đã mang lại nhiều lợi ích như mang lại nguồn thu ngoại tệ, tận dụng được lợi
thế của nước đi đầu tư, nâng cao trình độ - năng lực quản lý cho doanh nghiệp, khẳng
định vị trí và nâng cao vị thế của quốc gia đầu tư trên thị trường quốc tế, thúc đẩy
quan hệ hợp tác giữa các nước trên thế giới,…
1.4.1. Những ảnh hưởng tích cực của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
1.4.1.1. Về mặt lý luận chung
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang về nguồn thu ngoại tệ góp
phần vào công cuộc xây dựng đất nước
Việc phát triển kinh tế của một đất nước đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính
đủ lớn, nguồn lực tài chính này được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong
nước và vốn nước ngoài. Hoạt động ĐTRN góp phần không nhỏ tạo ra nguồn vốn
chung cho đất nước. Bởi hoạt động ĐTRN giúp cho các doanh nghiệp có nhiều cơ
hội để phát triển hơn, sử dụng vốn có hiệu quả làm tăng doanh thu, giảm chi phí từ
đó lợi nhuận cũng tăng, khả năng tài chính của doanh nghiệp được củng cố. Do vậy,

ý thức thực hiện nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với Nhà nước được thực
hiện nghiêm chỉnh hơn; thông qua các nghĩa vụ đóng thuế đã góp một phần không
nhỏ vào ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tận dụng được nguồn lực trong nước
Mỗi quốc gia đều phát triển nền kinh tế với những lợi thế riêng của mình, nếu
quốc gia nào biết khai thác có hiệu quả, tận dụng những lợi thế đó một cách tối ưu thì
sẽ tạo ra những bước nhảy vọt trong nền kinh tế cho chính quốc gia đó. Tuy nhiên,
hầu hết các nước có nền kinh tế còn đang phát triển, việc sử dụng các nguồn lực
trong nước vẫn chưa thật sự có hiệu quả, chưa tiết kiệm vì nhiều nguyên nhân khác
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 23

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

nhau. Do vậy, một khi tiến hành hoạt động ĐTRN thì cũng đồng nghĩa với việc nhà
đầu tư ít nhiều đã mang theo những nguồn lực tương đối dư thừa so với nhu cầu đầu
tư trong nước để sử dụng có hiệu quả hơn. Khi tiến hành kinh doanh trong môi
trường mới, với trình độ quản lý – đào tạo kinh doanh ở một số quốc gia phát triển
khá chuyên nghiệp, hiện đại cả trong tư duy và trình độ áp dụng công nghệ khoa học
vào quy trình sản xuất cũng tiên tiến. Qua đó, giúp cho nhà đầu tư sử dụng có hiệu
quả nguồn lực tương đối dư thừa trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho chủ đầu
tư, đồng thời khai thác có hiệu quả thế mạnh của quốc gia này ngay trên chính thị
trường của quốc gia khác.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tận dụng nguồn lực của nước tiếp
nhận đầu tư

Hiệu quả sử dụng các nguồn lực là yếu tố đóng vai trò quan trọng để giảm
thiểu chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, từ đó góp
phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh, tăng lợi nhuận cho chủ đầu tư. Điều này được lý
giải bởi thực trạng thừa nguồn lực ở quốc gia này nhưng ở một số quốc gia khác thì
lại thiếu chính nguồn lực đó, dẫn đến hiện tượng tìm kiếm và khai thác nguồn lực
giữa các quốc gia với nhau. Chính vì thế, khi tiến hành sản xuất kinh doanh mỗi nhà
quản lý đều phải luôn tìm cách tối thiểu chi phí và tối đa lợi nhuận, nên họ cố gắn sử
dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất; và một trong những giải pháp hiện nay
được nhiều doanh nghiệp lựa chọn là tiến hành ĐTRN.
Do bản chất của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là di chuyển nguồn lực sang
một quốc gia khác để tiến hành hoạt động đầu tư, tăng năng suất và tăng lợi nhuận
cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, các nguồn lực được di chuyển trong hoạt động ĐTRN
thường là các nguồn lực về vốn, công nghệ…Chính vì thế, hoạt động ĐTRN thường
được đi kèm với việc sử dụng các nguồn lực sẵn có ở nước tiếp nhận đầu tư như: tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, …việc xây dựng được thị trường cung cấp đầu
vào ổn định với chi phí đầu vào khá thấp sẽ giúp chủ đầu tư tiết kiệm chi phí sản
xuất, giảm giá thành từ đó tăng lợi nhuận của công ty.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nhà đầu tư mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm
Hoạt động mở rộng và phát triển thị trường trong nước luôn là việc làm
thường xuyên và rất cần thiết đối với các doanh nghiệp. Tùy vào đặc điểm và lợi thế
riêng của mình mà mỗi doanh nghiệp đề ra những phương thức nhằm mở rộng mạng
lưới sản phẩm của cơ sở mình đến tay người tiêu dùng.
Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước dường như đã không phát
huy hết thế mạnh của công ty và không phải là điểm dừng cuối cùng trong chiến lược
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 24

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang



Pháp luật Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn

kinh doanh của các chủ doanh nghiệp. Đặc biệt, trong xu hướng hiện nay các doanh
nghiệp đều muốn lấy xuất khẩu để làm động lực phát triển doanh nghiệp. Thâm nhập
vào thị trường nước ngoài luôn là mục tiêu và điểm đến trong con đường phát triển
của mỗi doanh nghiệp. Việc thâm nhập vào thị trường nội địa các nước trên thế giới
là đồng nghĩa với thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng. Tồn tại trong môi
trường sản xuất mới, sản phẩm được áp dụng công nghệ mới của nước tiếp nhận đầu
tư sẽ kích thích lượng tiêu dùng của khách hàng dẫn đến kích thích sản xuất; lượng
sản phẩm được tiêu thụ không chỉ dừng lại ở phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà có
thể tiêu thụ ở thị trường nhiều nước trên thế giới. Từ đó, đã thúc đẩy quá trình sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp để đáp ứng lượng cầu của khách hàng mới ở các
nước khác nhau trên thế giới; quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nhà đầu tư tránh được
hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan của nước tiếp nhận đầu tư
Thông thường để bảo vệ thị trường sản xuất trong nước Chính phủ các quốc
gia trên thế giới đặt ra nhiều hàng thương mại rào khác nhau nhằm mục đích tăng thu
ngân sách, bảo hộ các ngành công nghiệp và thực hiện các mục tiêu chính sách kinh
tế của mình. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập hiện nay thì hàng rào bảo hộ thương
mại sẽ dần dần được dỡ bỏ, nhằm tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa hàng
ngoại nhập và hàng trong nước. Song, không vì vậy mà con đường xuất khẩu hàng
hóa ra thị trường thế giới được tiến hành dễ hơn; bởi các nước ngày càng sử dụng
nhiều biện pháp tinh vi để đối phó với sự xâm nhập của hàng ngoại nhập bằng các
biện pháp như: đặt ra tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng ngoại nhập, sản phẩm có ảnh
hưởng đến môi trường hay không, ngoài ra còn đặt ra các điều luật quy định có lợi
cho hàng hoá trong nước như thuế chống bán phá giá….
Trong điều kiện đó, thì ĐTRN được xem như là giải pháp hữu hiệu nhằm giúp

các doanh nghiệp vượt qua hàng rào bảo hộ thương mại của nước nhận đầu tư; từ đó
con đường đưa sản phẩm trong nước đến với tay người tiêu dùng thế giới được rút
ngắn hơn. Khi đó, nhà đầu tư không chỉ vượt qua được hàng rào bảo hộ của nước
ngoài, tiếp cận thị trường một cách trực tiếp, mà còn được hưởng những điều kiện ưu
đãi trong sản xuất kinh doanh từ Chính phủ nước nhận đầu tư giành cho các nhà đầu
tư nước ngoài.
Thứ sáu, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài góp phần giải
quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động của nước tiếp nhận đầu tư
Về mặt số lượng, hoạt động ĐTRN tạo ra một số lượng việc làm đáng kể cho
nước tiếp nhận đầu tư; bởi lẽ, nguồn lực lao động thường ít được di chuyển cùng với
quá trình di chuyển vốn. Các dự án ĐTRN thường sử dụng ngay nguồn lực nhân lực
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 25

SVTH: Phạm Thị Tuyết Giang


×