Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại QUY CHẾ PHÁP lý DÀNH CHO các hợp ĐỒNG GIAO kết QUA MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.37 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI

***********

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(NIÊN KHÓA 2000-2004)

Đề tài:

QUY CHẾ PHÁP LÝ DÀNH CHO CÁC
HP ĐỒNG GIAO KẾT QUA MẠNG

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. ĐẶNG THỊ THU THẢO

PHAN HUYỀN TRÂN
MSSV: 5003007
Lớp : Luật TM 02-K26

Cần Thơ, 07/2004


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng


MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
Chương I. Tìm hiểu khái quát về giao dịch trong thương mại điện tử………………1
I.
Thương mại điện tử…………………………………………………...1
1. Khái niệm thương mại điện tử......................................................... 1
2. Một số khái niệm liên quan đến thương mại điện tử....................... 3
3. Sự phát triển tất yếu của thương mại điện tử................................... 5
II.
Giao dịch trong thương mại điện tử…………………………………...8
1. Khái niệm về giao dịch trong thương mại điện tử........................... 8
2. Sự khác nhau giữa giao dịch thương mại truyền thống và thương
mại điện tử ....................................................................................... 9
3. Các giao dịch cơ bản trong thương mại điện tử ............................ 11
Chương II. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng giao kết qua mạng……14
I.
Hợp đồng trong thương mại truyền thống và hợp đồng “điện tử”…..14
1. Chủ thể........................................................................................... 14
2. Hình thức hợp đồng ....................................................................... 19
3. Đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết............................ 21
4. Thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng ...................................... 26
4.1. Thời gian giao kết................................................................... 26
4.2. Địa điểm giao kết.................................................................... 30
5. Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử............................................... 31
6. Giải quyết tranh chấp ...................................................................... 32
II. Chữ ký điện tử …………………………………………………………...33
1. Một số vấn đề liên quan đến chữ ký điện tử.................................. 33
2. Hiệu lực pháp lý của chữ ký điện tử.............................................. 34
III.

Chứng thực điện tử ………………………………………………….36
1. Khái niệm chứng thực điện tử ....................................................... 36
2. Nghĩa vụ của các bên liên quan khi sử dụng chứng thực điện tử.. 36
Lời kết……………………………………………………………………………... 38

GVHD: Ths. Đặng Thị Thu Thảo

SVTH: Phan Huyền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

1.Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình thực hiện đề tài này, người viết đã gặp không ít khó khăn
trong qúa trình tiếp cận, triển khai ý tưởng vì đây là vấn đề rất mới. Đây cũng
chính là lý do người viết chọn đề tài này. Thứ nhất, đó là vì hứng thú mang tính
cá nhân, trước khi tiến hành tìm hiểu về đề tài thương mại điện tử, người viết
biết rất ít về thương mại điện tử, chỉ biết những hình thức đơn giản của các giao
dịch được tiến hành thông qua mạng máy tính như việc các doanh nghiệp tiến
hành trao đổi e-mail, gửi fax để thông tin cho nhau, hay việc tiến hành thanh toán
qua các thẻ mang mã tài khoản của các ngân hàng…và người viết có tính hiếu kỳ
muốn tìm hiểu xem thương mại điện tử có phải là tất cả những điều trên hay
không. Thứ hai, trong suốt 4 năm học, người viết đã được học hầu như tất cả các
kiến thức về luật, trong đó có mảng luật hợp đồng, tất cả các hợp đồng trên lĩnh
vực dân sự, thương mại đều đã được tìm hiểu qua. Trong đó, người viết rất quan
tâm đến mảng hợp đồng trên lĩnh vực thương mại, và tự đặt câu hỏi cho chính
mình trong đợt Khoa luật công bố các đề tài tốt nghiệp dành cho sinh viên k26
lựa chọn là sẽ chọn đề tài nào đây trong lĩnh vực thương mại? Và có một đề tài

thật sự gây chú ý của người viết, “Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao
kết qua mạng”, hợp đồng qua mạng có gì khác biệt so với các hợp đồng truyền
thống, làm thế nào người ta có thể tiến hành giao kết hợp đồng khi cả hai bên
không gặp nhau, hiệu lực pháp lý của hợp đồng được giao kết qua hình thức mới
này có được đảm bảo thực thi….
2. Mục đích nghiên cứu
Để tìm hiểu xem liệu có gì khác biệt giữa quy chế pháp lý dành cho các hợp
đồng truyền thống so với loại hợp đồng được tiến hành giao kết qua mạng hay
không, người viết đã tiến hành trình tự nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về tất cả
các vấn đề liên quan đến hợp đồng như chủ thể, hình thức hợp đồng, thời gian và
địa điểm ký kết, giá trị pháp lý, giải quyết tranh chấp, để tìm hiểu xem các quy
định pháp luật dành cho hợp đồng truyền thống liệu có áp dụng được cho hợp
đồng giao kết qua mạng không, và có vấn đề gì bất cập khi triển khai thương mại
điện tử hay không?
3. Phương pháp nghiên cứu:
Mặc dù đây là vấn đề mới, nhưng người viết cũng đã tiến hành công việc
nghiên cứu đạt được một số kết quả nhất định. Thông qua các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…để đạt được mục đích đã đề ra khi bắt đầu
nghiên cứu đề tài này.
Trong thế so sánh với các qui chế pháp lý dành cho hợp đồng truyền thống
thì hợp đồng giao kết qua mạng ở vị thế kém hơn hẳn, nhưng trái lại ưu thế về
mặt thực tế ứng dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn, vấn đề là các nhà
lập pháp Việt Nam trong thời gian tới có đưa ra được quy định pháp luật theo kịp
GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26


Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

với tốc độ phát triển của thương mại điện tử hay không lại là cả vấn đề, mặc dù
hiện tại chúng ta đã xây dựng được Dự thảo pháp lệnh thương mại điện tử,
nhưng như thế là chưa đủ, nếu so sánh với trình độ lập pháp của các nước trong
khu vực, Thái Lan, Singapore…(đều có Luật giao dịch điện tử). Trong kế hoạch
sắp tới, Quốc hội đã có kế hoạch xây dựng luật Giao dịch điện tử vào năm 2005,
nhưng để Luật trên đi vào thực thi, thì cần phải thay đổi một số quy định nằm rải
rác trong các luật liên quan. Bên cạnh đó, dựa vào những quy định của luật, Dự
thảo người viết sẽ sử dụng những kiến thức đã học để đưa ra những dự liệu, một
số phương án có thể trong thực tế sẽ khác xa những gì luật quy định…Dựa trên
những số liệu thống kê để biết được thực trạng phát triển của thương mại điện tử
trên thế giới và Việt Nam, để biết được Việt Nam đang ở đâu trong bản đồ
thương mại điện tử thế giới, và trong thời gian tới chúng ta cần phải thay đổi
những gì, có những gì cần phải xây dựng mới hoàn toàn để đảm bảo cho thương
mại điện tử phát triển theo kịp với thế giới.
Trong quá trình tìm hiểu về đề tài này, người viết đã tìm đến nhiều nguồn
thông tin khác nhau, nguồn thông tin khai thác được chủ yếu là từ mạng, sau đó
tổng hợp tất cả những gì liên quan, và chọn lọc những thông tin phục vụ cho việc
tìm hiểu đề tài này để đưa ra phân tích, và tìm hiểu xem giữa những quy định của
pháp luật quốc tế và Việt Nam có gì khác nhau…
4. Phạm vi nghiên cứu:
Thương mại điện tử là lĩnh vực khá rộng, ngày nay, hầu như tất cả các hợp
đồng đều có thể tiến hành giao kết qua mạng, nhưng trong phạm vi đề tài này
người viết chỉ tiến hành nghiên cứu hợp đồng mang tính chất thương mại được
giao kết qua mạng, và các văn bản làm cơ sở pháp lý chính cho việc nghiên cứu
là Bộ luật mẫu về thương mại điện tử của Uỷ ban Pháp luật thươmg mại quốc tế
Liên hợp quốc (UNCITRAL), Bộ luật mẫu về chữ ký điện tử của UNCITRAL,
Dự thảo 6 Pháp lệnh thương mại điện tử do Bộ thương mại chủ trì soạn thảo, bên
cạnh những so sánh với các quy chế pháp lý hiện hành đang được áp dụng cho

các loại hợp đồng hiện hành, sự so sánh này cũng bao gồm việc so sánh giữa luật
quốc tế và luật Việt Nam. Đây là đề tài mà người viết rất quan tâm, nhưng do
tính mới nên sẽ không thể tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được những đóng góp
ý kiến từ phía thầy cô và các bạn cùng những ai quan tâm đến vấn đề này.
5. Nội dung đề tài:
Đề tài được trình bày trong hai chương, cụ thể:
Chương I. Tìm hiểu khái quát về giao dịch trong thương mại điện tử
I.
Thương mại điện tử
II.
Giao dịch trong thương mại điện tử
Chương II. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng giao kết qua mạng
I.
Hợp đồng trong thương mại truyền thống và hợp đồng “điện
tử”
II.
Chữ ký điện tử
III.
Chứng thực điện tử
Lời kết.
Trân trọng giới thiệu.

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo


Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

CHƯƠNG I.
TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ GIAO DỊCH TRONG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
I. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. KHÁI NIỆM THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Thương mại điện tử là một khái niệm mới trên thế giới, hiện nay đang
tồn tại hai quan điểm về thương mại điện tử.
Uỷ Ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau:
Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh qua
các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới
dạng text, âm thanh và hình ảnh.1 Và thuật ngữ thương mại cần được diễn giải
theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh ra từ mọi mối quan hệ mang
tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. “Các mối quan hệ mang
tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây : bất cứ giao dịch nào về
cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ ; thỏa thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng
các công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức hợp tác khác về hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hoặc hành khách bằng
đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.2Tức là tất cả các hoạt

động kinh doanh trên, bao gồm nhiều giao dịch khác nhau trong lĩnh vực thương
mại, từ việc tiến hành các tiến trình đặt hàng, thanh toán đều thông qua phương
tiện điện tử, trong đó bao gồm các phương tiện điện tử khác ngoài mạng như điện
thoại, fax, telex…. Có nghĩa là thương mại điện tử theo nghĩa rộng không giới
hạn các giao dịch được thực hiện chỉ thông qua mạng máy tính mà là bao gồm
các phương tiện điện tử khác.
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các hoạt động thương
mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như tổ chức Thương
Mại Thế Giới (WTO) & Tổ Chức Hợp Tác Phát Triển Kinh Tế Của Liên Hợp
Quốc (OECD) đưa ra các khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. Theo
WTO : Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân
phối, sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao
nhận một cách hữu hình, cả những sản phẩm được giao nhận cũng như những
thông tin số hóa thông qua mạng Internet. 3
Tổ Chức Hợp Tác Phát Triển Kinh Tế của Liên Hợp Quốc đưa ra khái
niệm thương mại điện tử như sau : Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là

1

Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam, Giao dịch thương mại điện tử, NXB Chính Trị Quốc gia 2002
Điều 1 luật mẫu của UNCITRAL về Thương mại điện tử 1996
3
Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam, Giao dịch thương mại điện tử, NXB Chính Trị Quốc gia 2002

2

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

1


SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như
Internet.4
Như vậy, thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm những hoạt động
thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các
phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex...
Tuy nhiên, sẽ là hợp lý hơn khi quan niệm rằng thương mại điện tử là
cách thức tiến hành kinh doanh thông qua các phương tiện điện tử, tức là bao
gồm các phương tiện như điện thoại, điện báo, telex….Luật Thương mại Việt
Nam cũng thừa nhận các phương tiện điện tử kể trên là các phương tiện có thể
dùng để giao kết hợp đồng (k3 Đ49 Luật Thương mại 1997)5, như vậy luật Việt
Nam có xu hướng theo quan điểm thương mại điện tử theo nghĩa rộng, khi xem
các phương tiện điện tử ngoài mạng là phương tiện chính được sử dụng trong quá
trình thỏa thuận, giao kết hợp đồng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thương mại điên tử, song về bản chất,
các hoạt động thương mại điện tử đều có những điểm chung sau đây :
-Giao dịch thương mại điện tử được thực hiện trên cơ sở các giao dịch
thương mại truyền thống, vì vậy nhiều công việc và quá trình giao dịch thương
mại điện tử có liên quan đến thương mại truyền thống.
-Thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm nhiều giao dịch thương
mại. Các giao dịch này không chỉ tập trung vào việc mua bán hàng hóa và dịch
vụ để trực tiếp tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp, mà bao gồm nhiều giao dịch hỗ
trợ để tạo ra lợi nhuận như kích thích, gợi mở nhu cầu đối với hàng hóa & dịch
vụ, hỗ trợ việc chào bán, cung cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện

thuận lợi cho quá trình thông tin liên lạc giữa các đối tác kinh doanh.
-Giao dịch thương mại điện tử được xây dựng dựa trên cơ sở những ưu
điểm và cấu trúc của thương mại truyền thống cùng với sự linh hoạt, mềm dẻo
của các mạng điện tử, cho phép loại bỏ những trở ngại, những cản trở vật lý khi
thực hiện các giao dịch.
-Thương mại điện tử phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của công nghệ
thông tin. Định nghĩa về thương mại điện tử chắc chắn không phải là duy nhất,
bởi các công nghệ mới thường xuyên ra đời. Và đối với những công nghệ hiện tại
chúng ta chưa chắc đã khai thác và ứng dụng hết những khả năng mà nó mang
lại. Đối với thương mại điện tử, tương lai luôn ở phía trước.

4

Giao dịch thương mại điện tử, sách đã dẫn
Điều 49. Hợp đồng mua bán hàng hoá
1.Việc mua bán hàng hoá được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
2.Hợp đồng mua bán hàng hoá được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể
3.Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn
bản thì phải tuân theo các quy định đó; điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử
khác cũng được coi là hình thức văn bản
5

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

2

SVTH: Phan Huy ền Trân



Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ6
Có nhiều khái niệm khác nhau để chỉ việc tiến hành công việc kinh
doanh trên mạng, và xoay chung quanh nó là rất nhiều khái niệm còn hết sức mới
mẻ, nếu không được quy định cụ thể trong các văn bản luật, và được hiểu một
cách thống nhất thì sẽ rất khó cho các doanh nghiệp khi tiến hành công việc kinh
doanh của mình khi những thuật ngữ không chỉ đơn thuần liên quan đến luật
pháp mà còn mang nặng tính kỹ thuật nữa. Điều 2 Bộ luật mẫu về thương mại
điện tử của UNCITRAL, nêu ra một số định nghĩa của những thuật ngữ có liên
quan đến thương mại điện tử như sau:
-“Thông điệp dữ liệu” có nghĩa là các thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận
được và lưu trữ lại bằng phương pháp điện tử, quang học hay các phương pháp
khác tương tự bao gồm, mà không hạn chế , các thông điệp dữ liệu điện tử được
trao đổi (EDI), thư điện tử, điện tín telegram, telex hoặc telecopy. Ở đây chúng
ta có thể hiểu một cách đơn giản về thông điệp dữ liệu bằng cách làm một phép
so sánh tương đương. Trong thương mại truyền thống, các hình thức như văn bản
(trên giấy tờ), lời nói hay hành vi cụ thể là các hình thức của hợp đồng thì thông
điệp dữ liệu cũng có nghĩa là hình thức hợp đồng, có khác chăng là nó được tiến
hành trong môi trường điện tử. Thông điệp dữ liệu có thể bao gồm nhiều dạng
như e-mail, hay một cơ sở dữ liệu được mã hoá, các thông tin quảng cáo được
truyền qua mạng, bản fax…
-“Trao đổi thông tin điện tử (EDI)” có nghĩa là sự chuyển thông tin từ
máy tính này sang máy tính khác theo tiêu chuẩn cơ cấu thông tin đã được thỏa
thuận; Thương mại truyền thống sử dụng những phương tiện để trao đổi thông
tin mà từ trước tới nay chúng ta vẫn hay quen thuộc đó là qua đường bưu điện,

một cách trao đổi thông tin rất vật lý và chúng ta có thể nhận biết được, nghe
thấy được là các thông tin trao đổi đang ở đâu trong quá trình đến tay người
nhận. Còn thương mại điện tử thì không, các dữ liệu được truyền đi chỉ mang
những con số đơn giản như 01010101… nối tiếp nhau như vậy.
-“Người khởi tạo” thông điệp dữ liệu có nghĩa là người hoặc trên danh
nghĩa người đó, tạo và gửi đi hơn là lưu trữ thông điệp dữ liệu, nhưng nó không
bao gồm người đóng vai trò trung gian trong việc chuyển thông điệp dữ liệu;
Người khởi tạo trong thương mại điện tử gần giống như là chủ của một công ty,
đơn vị sản xuất hay người được các chủ thể trên uỷ quyền trong thương mại
truyền thống thay mình tham gia các giao dịch, các giao dịch khi được thực hiện
thông qua phương tiện là thư (chào hàng/ chấp nhận chào hàng), theo nguyên tắc,
những thư giao dịch mang tính chuẩn mực trong giao dịch thương mại đều có tên
người gửi và người nhận rõ ràng, và người gửi sẽ gửi trực tiếp đến tay người
nhận thông qua một trung gian duy nhất là Bưu điện, với thương mại truyền
thống người gửi cũng đồng nghĩa với người khởi tạo. Còn trong thương mại điện
tử, người ta phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm người gửi và người khởi tạo,
bởi trong thương mại điện tử hai khái niệm này có thể là chỉ hai người khác nhau
hoàn toàn:
6

Điều 2 luật mẫu của UNCITRAL 1996

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

3

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26


Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

+Người gửi vừa là người khởi tạo trong trường hợp bức thông điệp
do người khởi tạo tạo ra gửi trực tiếp đến người nhận, trường hợp này có thể xảy
ra khi các đối tác thực hiện giao dịch thông qua phương tiện điện tử là điện thoại,
hoặc gửi đến một số fax cụ thể của một cơ quan hay đơn vị nào đó.
+Người gửi và người khởi tạo là hai chủ thể hoàn toàn khác biệt.
Khi các đối tác thực hiện giao dịch thông qua mạng máy tính thì đều này được
phân biệt một cách rõ ràng hơn, vì các thông điệp trước khi đến được địa chỉ
(trên mạng) của người nhận thì phải thông qua nhiều server (máy chủ trung gian)
khác nhau. Ví dụ như một đối tác ở Mỹ muốn chuyển một thông điệp dữ liệu cho
một bạn hàng ở Việt Nam, thì thông điệp dữ liệu đó trước khi đến địa chỉ bạn
hàng mà người khởi tạo có chủ ý gửi đến, thì ít ra cũng phải đi qua trung gian là
máy chủ của khu vực châu Á. Trong trường hợp này, người gửi chỉ là một server
trung gian, còn người khởi tạo có server nằm ở Mỹ.
-“Người nhận” thông điệp dữ liệu là người mà người khởi tạo muốn gửi
thông tin tới nhưng nó cũng không bao hàm người đóng vai trò trung gian trong
việc chuyển thông điệp dữ liệu; Đơn giản đây như là những khách hàng, những
đối tác trong thương mại truyền thống vậy, “người nhận” đóng hai vai trò là
người nhận thông điệp dữ liệu và người nhận cũng chính là người khởi tạo khi
người khởi tạo nhận được thông tin phản hồi từ thông điệp mà mình gửi đi.
Tương tự như cách phân biệt giữa người gửi và người khởi tạo ở trên, người
nhận thông điệp dữ liệu theo cách hiểu của Bộ luật mẫu về thương mại điện tử là
người cuối cùng, là người mà chính người khởi tạo có chủ đích gửi thông điệp dữ
liệu đến, chứ không tính đến người nhận là các server trung gian.
-“Trung gian”, với ý nghĩa chỉ thông điệp dữ liệu cụ thể nào đó, có
nghĩa là người, hoặc trên danh nghĩa người đó gửi đi, nhận lại hay lưu trữ thông
điệp dữ liệu hoặc cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến thông điệp dữ liệu;
Trong thương mại truyền thống có một dạng trung gian rất cổ điển đó là Bưu

điện (chuyển phát thư), nhưng trung gian trong thương mại điện tử chính là các
server trung gian nằm rãi rác trên khắp các châu lục, các server trung gian này
hiểu theo thương mại điện tử, thì họ chỉ là trung gian, không hơn không kém,
mặc dù các server này cũng thực hiện công việc gửi và nhận thông điệp dữ liệu,
nhưng cả người gửi và người nhận đều không có chủ ý gửi đến họ, các server này
chỉ là một bước chuyển trung gian trước khi thông điệp dữ liệu đến được địa chỉ
của người gửi hoặc người nhận mà thôi.
-“Hệ thống thông tin” có nghĩa là hệ thống để phát ra, gửi đi, nhận về,
lưu trữ hay nói cách khác là xử lý thông điệp dữ liệu. Ngày nay hầu như cơ quan,
doanh nghiệp nào cũng có một hệ thống thông tin như luật đã đề cập, ít nhất là
một hệ thống thông tin viễn thông điện thoại, thật không thể tưởng tượng nổi,
một doanh nghiệp sẽ hoạt động ra sao nếu ngay cả phương tiện giao dịch phổ
thông nhất như điện thoại mà cũng không sử dụng, điện thoại cũng là một trong
những phương tiện dùng để tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử.
Một số khái niệm nêu trên cũng được định nghĩa tại điều 3 - giải thích từ
ngữ của Dự thảo 6 Pháp lệnh thương mại điện tử của Việt Nam, hầu như luật
Việt Nam chấp nhận hoàn toàn những khái niệm trên của Uỷ ban Pháp luật

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

4

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

thương mại quốc tế Liên hợp quốc (UNCITRAL). Bên cạnh đó, Dự thảo 6 cũng

định nghĩa chữ ký điện tử là dữ liệu điện tử nằm trong, được gắn hoặc kết hợp
một cách hợp lý với thông điệp dữ liệu nhằm xác minh người ký và chỉ ra sự
chấp nhận của người ký đối với thông tin trong thông điệp dữ liệu; chứng chỉ
điện tử là thông điệp dữ liệu hoặc dữ liệu khác xác lập mối liên hệ giữa người ký
với dữ liệu tạo chữ ký điện tử, nhà cung cấp dịch vụ chứng thực là tổ chức, cá
nhân cấp phát chứng chỉ điện tử và cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến chữ
ký điện tử (ở khía cạnh này luật chưa đề cập đến là liệu rằng các tổ chức cấp phát
chứng chỉ điện tử nước ngoài hoạt động tại Việt nam thì chứng chỉ họ cấp phát
có hiệu lực hay không ?). Theo luật Doanh nghiệp, thì các tổ chức nước ngoài,
người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam (Đ9) không được phép thành
lập doanh nghiệp để tiến hành công việc kinh doanh tại Việt Nam, điều này nếu
áp dụng vào môi trường kinh doanh điện tử là không còn hợp nữa. Bởi vì, các
doanh nghiệp khi tiến hành công việc kinh doanh trên mạng, có rất nhiều chủ thể
ở những quốc gia khác nhau, có thể họ đã tiến hành việc đăng ký chứng thực về
chữ ký ở quốc gia họ, khi tiến hành công việc kinh doanh ở Việt Nam lại phải
đăng ký với tổ chức chứng thực của Việt Nam một lần nữa thì rất gây phiền hà
cho các doanh nghiệp, và như thế sẽ cản trở việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam, đi ngược lại chính sách hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Do đó
cần thay đổi quy định này của luật doanh nghiệp về chủ thể không được phép
thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam (không được tiến hành công việc kinh
doanh), và cho phép cả những chủ thể ở nước ngoài (có server ở nước ngoài)
thực hiện việc cung cấp chứng thực - chứng thực đó được nhận biết toàn cầu thì
nó cũng có hiệu lực pháp lý tại Việt Nam. Trong tương lai, khi Dự thảo 6 pháp
lệnh thương mại điện tử đưa vào thực thi, thì Nhà nước ta cũng sẽ thừa nhận giá
trị pháp lý của chứng thực của các tổ chức nước ngoài (Đ20)7.

3. SỰ PHÁT TRIỂN TẤT YẾU CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ
Thương mại điện tử đem lại những lợi ích tiềm tàng, giúp người tham gia
thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí tiếp thị và

giao dịch, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng, tạo
điều kiện có thêm phương tiện mở rộng qui mô và công nghệ sản xuất. Trên quan
điểm chiến lược, giúp một số nước chuyển sang kinh tế số hóa như một xu thế tất
yếu không thể đảo ngược và bằng cách đó, các nước đang phát triển có thể tạo
được một bước tiến nhảy vọt.
Lợi ích của thương mại điện tử rất to lớn, bao quát và tiềm tàng, thể hiện
ở một số mặt chính sau đây:
-Nắm được thông tin phong phú :
Thương mại điện tử (đặc biệt là khi sử dụng Internet/ Web) trước hết
giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế và thương
7

Điều 20. Chứng chỉ điện tử và chữ ký điện tử có yếu tố nước ngoài.
Chính phủ quy định chi tiết việc thừa nhận giá trị pháp lý chứng chỉ điện tử được cấp phát hay
chữ ký điện tử được tạo ra và sử dụng, hoặc tổ chức chứng thực hay người ký không nằm trong lãnh thổ
nước cnộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

5

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

mại (có thể gọi chung là thông tin thị trường ) nhờ đó có thể xây dựng được chiến
lược sản xuất và kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong

nước, khu vực và quốc tế.
-Giảm chi phí sản xuất :
Thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn
phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí
tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm tải nhiều lần (trong đó khâu in ấn gần như
được bỏ hẳn). Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng
khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa
đến những lợi ích to lớn lâu dài, nếu nhìn nhận vấn đề từ góc độ chiến lược.
-Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị :
Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và tiếp thị. Bằng
phương tiện Internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất
nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên web phong phú hơn nhiều và thường
xuyên được cập nhật so với các ấn phẩm quảng cáo thường xuyên lỗi thời.
-Giảm chi phí giao dịch :
Thương mại điện tử qua Internet/ web giúp người tiêu thụ và các doanh
nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá
trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch giao hàng,
giao dịch thanh toán). Ngày nay, chúng ta có thể tìm đối tác một cách dễ dàng
hơn thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet, đặc biệt là đối tác tại các nước
phát triển, nơi có tỷ lệ phổ cập Internet rất cao. Chúng ta chỉ cần vào một trong
những công cụ tìm kiếm như www.google.com, www.yahoo.com gõ vào vài từ
khóa liên quan đến vấn đề cần tìm, chỉ vài giây sau chúng ta đã có một danh sách
khá dài. Sau vài giờ phân loại, sàng lọc thông tin, chúng ta đã có thể có trong tay
một danh sách các đối tác tiềm năng. Để xem thông tin chi tiết về một đối tác
cũng như sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp, chúng ta có thể vào trực tiếp các
website của họ. So với cách làm truyền thống là qua các danh bạ điện thoại, các
catalogue, phương pháp mới này có rất nhiều ưu điểm : nhanh hơn, chính xác
hơn, tiết kiệm hơn. Nói một cách khác hiệu quả hơn nhiều. Nếu chúng ta muốn
tìm kiếm một loại sản phẩm dịch vụ nào đó cho doanh nghiệp mình, cũng qua
Internet, trong nháy mắt chúng ta đã có danh sách các nhà sản xuất. Bảng so sánh

tham số của các sản phẩm cùng loại cũng có thể tìm được khá dễ dàng trên
Internet.
-Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác :
Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan
hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng, các
thành tố tham gia (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) có thể
giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau gần như không có khoảng cách về địa lý
và thời gian nữa, nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều tiến hành nhanh chóng
và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới đều được phát hiện

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

6

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới và có nhiều cơ
hội để lựa chọn hơn.
-Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế “số hóa”
Xét trên bình diện quốc gia, trước mắt thương mại điện tử sẽ kích thích
sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, là ngành có lợi nhuận cao nhất và
vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nhìn rộng hơn, thương mại điện tử tạo
điều kiện cho việc sớm tiếp cận nền kinh tế số hóa. Lợi ích này có ý nghĩa đặc
biệt đối với các nước đang phát triển, nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh
tế số hóa, hay còn gọi là nền “kinh tế ảo” thì sau khoảng một thập kỷ nữa các

nước đang phát triển sẽ bị bỏ rơi hoàn toàn.
Lợi ích của thương mại điện tử là tiềm tàng, để có thể khai thác nó mang
lại hiệu quả to lớn, chúng ta cần hiểu rằng thương mại điện tử đã và đang đặt ra
hàng loạt vấn đề phải giải quyết trên tất cả các bình diện : doanh nghiệp, quốc
gia, quốc tế tới những đòi hỏi tất yếu và những vấn đề cần quan tâm của thương
mại điện tử.
Ngoài những lợi ích nêu trên, thương mại điện tử cũng không phải là chỉ
bao gồm những thuận lợi.
Trước tiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đôi khi chi phí để
thiết lập một website và duy trì website đó nhiều hơn lợi nhuận thu lại được, thế
thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn phải cân nhắc xem có nên tham gia thương
mại điện tử hay không, vừa làm sao tận dụng những lợi thế do thương mại điện
tử đem lại vừa hạn chế những mặt bất cập của nó, không phải luôn lúc nào các
doanh nghiệp cũng làm được tốt cả hai vấn đề cùng một lúc. Đây là một thiệt thòi
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tiếp cận với các thị trường mới,
những đối tác mới…
Thứ hai, việc mua bán hàng trên mạng quả là có tiết kiệm rất nhiều thời
gian, nhưng việc ấy cũng gây ra một số khó khăn nhất định, để tiến hành việc
mua bán thành công, thì hầu như các đối tác phải tin nhau, ngoài điều đó ra thì
không có gì bảo đảm. Việc cung cấp các thông tin về tài khoản cá nhân hay
những thông tin cá nhân khác là điều bắt buộc trong thanh toán điện tử, nhưng
không có gì đảm bảo là thông tin đó được an toàn tuyệt đối, không thiếu gì
trường hợp các tài khoản bị đánh cắp, và số tiền mất đi thì khó mà tìm lại được.
Tiếp theo là các bí mật về công nghệ hay bí quyết kinh doanh, rất có thể
sẽ không còn là bí mật nữa khi các hacker vào cuộc. Các biện pháp bảo mật
thông tin luôn được cải tiến nhưng nó không phải là biện pháp an toàn nhất cho
mọi lúc.
Tính bằng chứng của các tài liệu điện tử tuy đã được đảm bảo, nhưng
không ai dám chắc rằng nó đảm bảo độ tin cậy tuyệt đối và sẽ không có trường
hợp cung cấp bằng chứng giả, khi mà các biện pháp bảo mật đối với chữ ký điện

tử chưa phải là yếu tố nhận dạng một người trên mạng chính xác tuyệt đối.

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

7

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

Tuy có những thuận lợi và khó khăn nhất định, nhưng người ta không thể
hạn chế tốc độ phát triển của thương mại điện tử, và cũng không thể phủ nhận
vai trò của thương mại điện tử trong nền kinh tế quốc tế, vấn đề là làm sao có
một khung pháp lý thống nhất trên phạm vi quốc tế cũng như quốc gia, để đảm
bảo cho các bên tham gia vào thương mại điện tử có cơ sở để tiến hành công việc
kinh doanh một cách thuận lợi. Đó chính là điều mà nền lập pháp nước ta đang
hướng tới.

II- GIAO DỊCH TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Như chúng ta điều biết, giao dịch trong thương mại điện tử không chỉ bao gồm
các giao dịch mang tính chất thương mại mà còn cả những giao dịch phi thương mại (cả hai
đều được tiến hành thông qua mạng, dựa trên những ứng dụng của công nghệ thông tin và
mạng Internet). Trong phần này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các giao dịch chủ yếu trong
thương mại điện tử, bao gồm những giao dịch giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng (ở
đây bao hàm cả mối quan hệ giữa chính phủ và người dân), doanh nghiệp với doanh nghiệp,
thương mại thông tin ...


1. KHÁI NIỆM VỀ GIAO DỊCH TRONG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
Giao dịch trong thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm không chỉ
các giao dịch liên quan đến mua bán hàng hóa và dịch vụ, tạo thu nhập mà còn là
các giao dịch có khả năng trợ giúp quá trình tạo ra thu nhập : kích thích nhu cầu
đối với hàng hóa dịch vụ, cung ứng dịch vụ trợ giúp bán hàng, trợ giúp người
tiêu dùng, hoặc trợ giúp trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp. Các hình thức
như gửi thư chào hàng thông qua mạng, thư chào giá, hay các cách trao đổi dữ
liệu khác như fax, điện thoại dẫn đến việc ký kết hợp đồng, tất cả những cái đó
có chung một cái tên gọi là giao dịch trong thương mại điện tử
Do hoạt động với thông tin số hóa trong các mạng điện tử, thương mại
điện tử đem lại một số cơ hội mới cho việc tiến hành các hoạt động thương mại.
Nó làm cho các nhóm khác nhau hợp tác với nhau được dễ dàng hơn. Các nhóm
này có thể là các phòng, ban chia sẻ thông tin trong nội bộ công ty nhằm lập kế
hoạch một chiến dịch Marketing, các công ty phối hợp cùng nhau thiết kế và chế
tạo sản phẩm hoặc dịch vụ mới, hoặc doanh nghiệp chia sẻ thông tin với khách
hàng của họ nhằm cải thiện quan hệ khách hàng.
Việc tiến hành các hoạt đông thương mại trên các mạng điện tử cũng loại
bỏ một số giới hạn vật lý nhất định. Thí dụ, các hệ thông máy tính trên Internet
có thể được lắp đặt để cung cấp dịch vụ trợ giúp khách hàng 24 giờ/ 1 ngày và 7
ngày/ 1 tuần. Các đơn đặt hàng đối với hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp
cũng có thể được tiếp nhận bất kỳ khi nào, bất kỳ ở đâu.
Các giao dịch này được tiến hành thông qua mạng và các phương tiện
điện tử khác, công việc thanh toán cũng vậy, được tiến hành một cách nhanh
chóng thông qua các mạng điện tử, chỉ duy nhất việc vận chuyển hàng hoá là
được tiến hành một cách hữu hình, bằng phương pháp vật lý thông thường như
trong thương mại truyền thống.

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo


8

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

2. SỰ KHÁC NHAU GIỮA GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI
TRUYỀN THỐNG VÀ GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Giao dịch thương mại truyền thống và giao dịch thương mại điện tử có
nhiều điểm khác biệt cơ bản như sau :8
“Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc
trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để
tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý
như chuyển tiền, séc, hoá đơn, vận đơn, gởi báo cáo. Các phương tiện viễn thông
như fax, telex,..... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên
việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để
chuyển tải thông tin trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. Từ khi
xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin không
chỉ giới hạn trong quan hệ giữa các công ty và doanh nghiệp mà các hoạt động
thương mại đa dạng đã mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số
lượng người tham gia ngày càng tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc
doanh nghiệp, có thể đã biết hoặc hoàn toàn chưa biết nhau bao giờ.
Trong nền kinh tế số, thông tin được số hoá thành các Byte, lưu giữ trong
các máy tính và truyền qua mạng với tốc độ ánh sáng. Điều này tạo ra khả năng
hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen tiêu dùng và mua bán của con người mà
trong đó, người bán (mua) có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên thế giới

mà không cần qua khâu trung gian hỗ trợ của bất cứ công ty thương mại nào.
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia, từ các vùng xa xôi hẻo
lánh, đến các đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều
có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi
hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại
của khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện
trong một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu).
Thương mại điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Thương mại điện tử càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa
sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Không chỉ các công
ty hàng đầu thế giới mới có thể tiếp cận những thị trường mới, mà ngay cả một
công ty vừa mới khởi sự cũng có một mạng lưới tiêu thụ và phân phối không
biên giới ngay ở đầu ngón tay của mình. Với thương mại điện tử, một doanh
nhân dù mới thành lập đã hoàn toàn có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức, Chi
Lê....., mà không phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều
năm.

8

Thông tin khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, 8/2000

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

9

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26


Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là để trao
đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị
trường.
Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được
hình thành. Ví dụ, các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên
các nhà trung gian ảo để môi giới, trọng tài cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các
siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Theo một số chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính năng
dễ sử dụng và hình thức vui mắt, dễ hiểu của các trang Web dành cho thương mại
điện tử là yếu tố quyết định trong việc thu hút khách hàng.
Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online, Alta Vista....,
đóng vai trò như các công cụ tìm kiếm đưa khách hàng truy cập vào nhiều trang
Web khác với vô số thông tin. Các trang Web này đã trở thành các khu chợ
khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấp chuột, khách hàng có khả năng truy cập
vào hàng ngàn các cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua
là rất cao.
Giá cả không quan trọng bằng tính dễ sử dụng và tiện lợi. Tuy nhiên,
trong thời gian tới khi các công ty kinh doanh trên Web cạnh tranh khốc liệt hơn
và đua nhau dành cho khách hàng những dịch vụ tiện lợi nhất, giá cả sẽ lại trở
thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước
đây được coi là khó bán trên mạng. Con người ngày càng trở nên lười biếng và
họ cho rằng thà phải trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng.
Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn
kiểu theo hướng dẫn, gửi số đo tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian
nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như
không thể thực hiện này cũng đã được rất nhiều người hưởng ứng.

Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông
tin về cửa hàng mình lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên
Web bằng cách mở cửa hàng ảo.
Tóm lại, trong thương mại điện tử bản chất của thông tin không thay đổi.
Thương mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, bảo quản và xử lý
thông tin, hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối
với các bên tham gia truyền thống của hợp đồng.
Việc mã hoá, số hoá nội dung của các thông tin, chứng từ và tài liệu giao
dịch làm cho thương mại điện tử cho dù hoạt động trong khuôn khổ quốc gia hay
quốc tế, có sự khác biệt so với thương mại truyền thống chủ yếu dựa trên chứng
từ bằng giấy tờ. Trong thương mại truyền thống (bằng giấy tờ) nếu có nhiều bên
tham gia thì phải tốn một khối lượng lớn giấy tờ giao dịch về hợp đồng. Trong
khi đó, nếu giao dịch được thực hiện thông qua thương mại điện tử, thì tiết kiệm
được rất nhiếu giấy tờ và thời gian. Tuy nhiên, các chứng từ được thể hiện bằng

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

10

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

giấy tờ, cho đến nay lại có ưu thế hơn trong vai trò chứng cứ khi xảy ra tranh
chấp”
Cả thương mại truyền thống lẫn thương mại điện tử đều có những mặt
thuận lợi và hạn chế, những khác biệt, nhưng so về hiệu quả kinh tế mang lại thì

thương mại điện tử vẫn chiếm ưu thế hơn hẳn, thế thì tại sao nước ta không tạo
điều kiện hơn nữa cho thương mại điện tử phát triển, bằng những chính sách ưu
tiên cho phát triển mặt bằng công nghệ thông tin, hành lang pháp lý vững chắc,
dựa trên những đặc điểm của thương mại điện tử thì có thể dễ dàng nhận thấy
thương mại điện tử có thể đem lại những gì cho một quốc gia có ứng dụng
thương mại điện tử nói riêng, mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế thế giới nói
chung.
Dù có sự khác biệt, nhưng thương mại điện tử phát triển nhộn nhịp như
hiện nay là hoàn toàn dựa trên cơ sở sự phát triển của thương mại truyền thống,
thương mại truyền thống đã đặt nền tảng cho sự phát triển của thương mại điện
tử, trong tương lai, thương mại điện tử phát triển là không thể cưỡng lại được
nhưng cũng không vì thế mà thương mại truyền thống không còn tồn tại nữa. Bên
cạnh thương mại điện tử vẫn sẽ còn những hình thức giao dịch theo phương pháp
truyền thống. Bởi vì dù có thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử thì các
bên cũng cần phải có phương tiện để vận chuyển hàng hoá (hữu hình), lúc này
vai trò của thương mại truyền thống lại được cần đến. Nhưng xu thế chung ở các
quốc gia là ưa thích sử dụng thương mại điện tử hơn bởi vì những tiện ích mà nó
mang lại. Tuy nhiên điều đó còn tuỳ thuộc vào trình độ phổ cập Internet, mặt
bằng công nghệ thông tin, nền văn hoá của một quốc gia nhất định.

3. CÁC GIAO DỊCH CƠ BẢN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ
Tính chất và nội dung của các giao dịch phụ thuộc nhiều vào việc chúng
xảy ra trong môi trường của mô hình kinh doanh nào?
Có nhiều cách khác nhau khi phân loại các mô hình kinh doanh thương
mại điện tử. Ở đây chúng ta đề cập tới ba mô hình kinh doanh cơ bản nhất, được
hầu hết các doanh nghiệp thương mại điện tử quan tâm: thương mại điện tử giữa
doanh nghiệp và người tiêu dùng (B-to-C), thương mại điện tử giữa các doanh
nghiệp (B-to-B), và thương mại thông tin (Information Commerce).
Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B-to-C) :

Các doanh nghiệp bán các hàng hóa vật thể trực tiếp đến từng cá nhân
người tiêu dùng cuối cùng. Trên gốc độ thương mại điện tử, cần phân biệt qui mô
các doanh nghiệp bán lẻ: các doanh nghiệp lớn thường đi liền với những yêu cầu
phức tạp về hệ thống thông tin, trong khi các doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ chỉ
dừng lại ở các yêu cầu cơ bản (và với ngân sách nhỏ) đối với Internet. Người tiêu
dùng có thể sử dụng máy tính của mình đặt hàng các công ty ở khắp nơi trên thế
giới, trong loại hình thương mại điện tử này, giữa hai đối tác thì một trong số đó
thực hiện giao dịch nhằm mục đích tiêu dùng.
Thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp (B-to-B) :
GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

11

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

Các doanh nghiệp bán buôn thông qua các catalogue bán hàng trực
tuyến cho các doanh nghiệp khác. Khi nghiên cứu mô hình này, người ta thường
chú ý tới thương mại hàng hóa phục vụ duy trì, sửa chữa và vận hành (thí dụ, các
linh kiện, phụ tùng phục vụ lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử). Bán buôn, bán
thành phẩm thường thực hiện qua các đơn đặt hàng sản xuất lớn. Tất nhiên, các
hệ thống và công nghệ thương mại trực tuyến (như hệ thống trao đổi dữ liệu điện
tử - EDI) cũng được sử dụng trong trao đổi bán buôn các mặt hàng này.
Thương mại thông tin ( Information Commerce ) :
Đây là một lĩnh vực rộng bao gồm các doanh nghiệp phân phối trực
tuyến các hàng hóa số (sản phẩm và dịch vụ thông tin ) qua mạng. Các nhà xuất

bản tạp chí trực tuyến, các nhà phân phối trực tuyến các phần mềm máy tính,
mặc dù hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, nhưng đều thuộc nhóm
này.
Hiện nay xu thế giao dịch thương mại điện tử khá phổ biến ở những quốc
gia có nền công nghệ cao như Mỹ, Canada, Nhật Bản…Trong khi đó, Việt Nam
đang ở trong tình trạng của một nước đi sau, kém phát triển về mọi mặt, nhưng
đâu là nguyên nhân của việc thương mại điện tử chưa được ứng dụng nhiều ở
Việt Nam? Trong thế so sánh với tình hình phát triển thương mại điện tử đạt mức
doanh thu 200% mỗi năm của Mỹ trong những năm gần đây, có một con số rất
đáng để cho chúng ta suy nghĩ đó là, con số 6.000 doanh nghiệp trong một cuộc
điều tra mới đây thì chỉ có 3% số doanh nghiệp ứng dụng một số khâu của
thương mại điện tử, 7% mới có dự tính và thật ngạc nhiên với con số 90% doanh
nghiệp hầu như chưa hề biết là có thể làm cho công việc kinh doanh của mình
thuận tiện hơn nhờ thương mại điện tử. Để thoát khỏi thực trang đáng buồn trên,
chúng ta hãy cùng đi tìm nguyên nhân, và khi đã tìm ra nguyên nhân thì sẽ có
giải pháp để thúc đẩy thương mại điện tử nước ta đạt một bước chuyển biến mới
trong những năm tới.
-Hiện tại cước truy cập Internet ở nước ta còn ở mức khá cao, so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng trong
thời gian tới sẽ có nhiều thay đổi, khi 1/7 vừa qua Bộ Bưu chính Viễn thông đã
bắt đầu áp dụng mức cước mới cho các dịch vụ điện thoại, và sắp tới sẽ là cơ hội
đầu tư cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này nhiều hơn, và người
được lợi nhất là những ai sử dụng các dịch vụ liên quan đến những lĩnh vực trên,
trong đó có việc thực thi thương mại điện tử.
-Một nguyên nhân quan trọng là môi trường pháp lý không đảm bảo việc
tham gia thương mại điện tử của các doanh nghiệp. Có thể xem đây, là nguyên
nhân chủ yếu, bởi vì các chủ thể khi tham gia thương mại điện tử rất e ngại trừ
khi có một khung pháp lý đủ mạnh để các bên có thể căn cứ vào đó mà thực hiện
các giao dịch của mình và Nhà nước cũng có cơ sở để quản lý các hoạt động kinh
doanh nói trên. Mặc dù, hiện tại Việt Nam đã có hẳn một sàn giao dịch thương

mại điện tử, song các văn bản pháp luật để áp dụng riêng cho nó thì chưa theo
kịp với thực tế phát triển đó, các chủ thể khi tham gia vào thương mại điện tử thì
chỉ có thể áp dụng những quy định của pháp luật dành cho thương mại truyền
thống trong hoàn cảnh của một môi trường kinh doanh có nhiều điểm khác biệt

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

12

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

so với thương mại truyền thống như cách thức tiến hành giao kết hợp đồng,
phương thức thanh toán, bảo mật thông tin…
Trong khi chờ đợi một văn bản
pháp luật chính thức về vấn đề thương mại điện tử, thì chúng ta hãy cùng tìm
hiểu xem hiện tại trên thế giới và Việt Nam đã có những quy chế pháp lý nào
dành cho loại hình kinh doanh này hay chưa, quy chế pháp lý dành cho các hợp
đồng giao kết qua mạng có gì khác biệt so với hợp đồng truyền thống, và liệu có
cần ban hành một quy chế pháp lý dành riêng cho nó hay không ?

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

13

SVTH: Phan Huy ền Trân



Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

CHƯƠNG II.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN HỢP ĐỒNG GIAO
KẾT QUA MẠNG

Thương mại điện tử là một hình thức kinh doanh mới mẻ, với cách thức
tiến hành kinh doanh hoàn toàn khác với thương mại truyền thống, nhưng có
những vấn đề mà hai hình thức giao kết hợp đồng này đều đòi hỏi cần phải có đó
là việc xác định tư cách chủ thể (trong thương mại điện tử, việc xác định tư cách
chủ thể sẽ gặp khó khăn hơn so với thương mại truyền thống vì đây là hình thức
giao kết hợp đồng gián tiếp, các bên không thể gặp nhau trực tiếp do khoảng
cách địa lý quá xa nhau hay nhiều khi họ cho rằng điều đó là không cần thiết,
việc xác định đối tác liệu có phải là chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không),
đáp ứng đòi hỏi pháp lý về hình thức hợp đồng, việc xác định pháp luật áp dụng
khi phát sinh tranh chấp…
Bên cạnh những quy định về thương mại điện tử và bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), hay các đạo luật về thương
mại điện tử, chữ ký điện tử của các quốc gia có nền thương mại điện tử phát
triển như Mỹ, Canada… thì Bộ luật mẫu về thương mại điện tử và chữ ký điện tử
của UNCITRAl được xem là khung pháp lý mẫu mực cho các hoạt động thương
mại điện tử trên thế giới. Do đó, những vấn đề pháp lý liên quan đến đến hợp
đồng giao kết qua mạng sẽ được phân tích sau đây dựa trên những quy định của
Bộ luật mẫu về thương mại điện tử và chữ ký điện tử của UNCITRAL, cùng với
những gì mà pháp luật Việt Nam đã có và sẽ có trong tương lai gần về vấn đề
thương mại điện tử.


I. HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI TRUYỀN THỐNG VÀ
HỢP ĐỒNG “ĐIỆN TỬ”.
Thương mại điện tử không giới hạn, biên giới quốc gia là vô nghĩa,
thương mại điện tử giúp tiết kiệm chi phí…. Tất cả những điều đó nghe rất hấp
dẫn, nhưng thương mại điện tử cũng có những giới hạn (đã đề cập ở phần trên),
và có rất nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình ứng dụng thương mại điện tử,
cũng giống như rất nhiều hoạt động xã hội khác, thương mại điện tử cần một
khung pháp luật mới, để cho những ai tham gia vào thương mại điện tử biết mình
đang tiến hành những công việc được pháp luật bảo vệ….
Các vấn đề liên quan đến hợp đồng trong thương mại truyền thống cũng
là vấn đề sẽ được tìm hiểu trong thương mại điện tử như vấn đề chủ thể hợp
đồng, hình thức, nội dung hợp đồng, thời gian và địa điểm giao kết, hiệu lực
pháp lý, giải quyết tranh chấp.

1. CHỦ THỂ :
Tại điều 47 Luật Thương mại: “chủ thể của quan hệ mua bán hàng hoá là
thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Nhưng, ai là người đủ tư cách là

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

14

SVTH: Phan Huy ền Trân


Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

Luận văn tốt nghiệp – k26


thương nhân? Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại
theo qui định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở
thành thương nhân9. Theo đó, thương nhân theo quy định của luật Thương mại
có thể chia làm ba loại:
-Thương nhân là cá nhân:
Để trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá, cá nhân phải có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ, năng lực pháp luật là đương
nhiên có của mỗi chủ thể khi họ được sinh ra, còn năng lực hành vi thì như trên
đã đề cập, người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên là đã có năng lực hành vi dân sự
nếu không mắc bịnh tâm thần hoặc những bịnh khác làm hạn chế năng lực hành
vi.
-Thương nhân là pháp nhân:
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi hội đủ các điều kiện
sau:
+ Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho
phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẻ;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập.

10

Theo luật Việt Nam, thương nhân là pháp nhân phải hoạt động theo đúng
mục đích đã đăng ký kinh doanh, nếu có thay đổi mục đích hoạt động thì phải
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và người đại diện của pháp nhân
để ký kết các hợp đồng thường là người đứng đầu pháp nhân nếu không sẽ là

người được người đứng đầu pháp nhân uỷ quyền.
Các thương nhân là pháp nhân chủ yếu bao gồm các loại sâu đây:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước
+ Các hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã
+ Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
9

Điều 17 LTM 97
Điều 94 BLDS

10

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

15

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

-Thương nhân là tổ hợp tác, hộ gia đình: hộ gia đình là chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hoá không phải hiểu theo nghĩa thông thường của một hộ gia đình
có quan hệ huyết thống, mà là hộ gia đình có đặc điểm tham gia hoạt động kinh
tế chung.
-Có một chủ thể khác có thể tham gia vào các giao dịch dân sự hay thươmg

mại, mà cả Bộ luật Dân sự và luật Thương mại đều không có đề cập đến đó là
chủ thể đặc biệt của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương - quốc gia, gọi là
chủ thể đặc biệt là vì quốc gia là một chủ thể có chủ quyền, và có những quyền
miễn trừ mà tất cả các chủ thể trên đều không có, mà trong đó có một quyền chủ
yếu đó là quyền miễn trừ xét xử. Không một toà án nào có quyền xét xử quốc
gia, tuy nhiên quốc gia có thể từ bỏ các quyền miễn trừ của mình. Điển hình là
Nhà nước Việt Nam nêu rõ trong luật rằng những tài sản của Nhà nước đem ra
giao dịch vì mục đích thương mại thì không còn hưởng quyền miễn trừ xét xử.11
(NĐ 60/CP, 6-6-1997)
Bên cạnh đó luật cũng giới hạn một số chủ thể sẽ không được công nhận
tư cách là thương nhân do đặc điểm nghề nghiệp của họ, tại điều 9 Luật Doanh
nghiệp12.
Khi đề cập đến thương mại điện tử, các hợp đồng được giao kết qua mạng
trong trường hợp này đa phần là mang tính thương mại, luật Thương mại 1997
quy định rằng “ chủ thể của quan hệ mua bán hàng hoá là thương nhân hoặc một
bên là thương nhân” (Đ47). Với thương mại điện tử thì quy định này sẽ hạn chế
khả năng tham gia của rất nhiều chủ thể, và vấn đề xem xét mở rộng tư cách chủ
thể trong thương mại điện tử so với thương mại truyền thống là cần thiết. Bởi vì,
trong môi trường điện tử có những hợp đồng trên thực tế được giao kết giữa
những chủ thể không phải là thương nhân, như việc có một cá nhân không có
11

Điều 9. Quyền sở hữu tài sản (NĐ 60/CP của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành các quy định của
Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài)
3.Tài sản của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hưởng quyền miễn trừ tư pháp;
nếu sử dụng vào mục đích kinh doanh thì không được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, trừ trường hợp
pháp luật Việt Nam có quy định khác.
12
Điều 9. Tổ chức cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp trừ các trường hợp sau: (luật
Doanh nghiệp)

-Cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Nhân dân sử dụng tại sản của Nhà nước và
công qũy để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình
-Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức
-Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân
-Cán bộ lãnh đạo quản lý nghiệp vụ trong các cơ quan Nhà nước, trừ những người được cử làm
đại diện để quản lý phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp khác
-Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám
đốc), chủ tịch và các thành viên hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản không đựơc quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong thời
hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, trừ các trường hợp quy định tại luật
phá sản
-Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

16

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

đăng ký kinh doanh tiến hành việc thông báo bán đấu giá một mặt hàng nào đó
trên mục đăng quảng cáo miễn phí của một trang web, và khả năng có một cá
nhân khác cũng không có đăng ký kinh doanh thực hiện giao dịch với cá nhân
đăng quảng cáo trên là có thể xảy ra, thế thì hợp đồng đó được điều chỉnh bởi

những quy định của luật dân sự hay thương mại?
Và theo quy định của Luật Thương mại, thì loại hợp đồng vừa đề cập
không đáp ứng về tư cách chủ thể, mặc dù mục đích của việc thực hiện giao dịch
ấy rất nhiều khả năng là mang tính lợi nhuận, nhưng lại không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Thương mại, còn luật Dân sự lại không có quy định nào về
hình thức hợp đồng giao kếtqua mạng. Như vậy vấn đề còn lại lúc này là căn cứ
vào phương tiện giao kết hợp đồng, để đặt những hợp đồng dạng như vậy thuộc
phạm vi điều chỉnh của luật hợp đồng trong lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng
lại vẫn phát sinh vấn đề là, trên lĩnh vực thương mại điện tử chúng ta chỉ mới ở
mức độ Pháp lệnh (Dự thảo), do đó các hợp đồng có liên quan đến lĩnh vực
thương mại thì đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại (giá trị pháp
lý cao hơn Pháp lệnh). Lúc này, lại xảy ra một vòng lẩn quẫn, dẫn đến dạng hợp
đồng kể trên không thuộc phạm vi điều chỉnh của bất kỳ luật nào. Do vậy, hoặc
là thay đổi những quy định về hạn chế chủ có thể tham gia vào giao kết hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại, hoặc là sẽ đưa những thay đổi này vào Luật giao dịch
điện tử trong tương lai.
Luật quốc tế quy định về chủ thể có đủ năng lực giao kết hợp đồng sẽ có
một vài khác biệt tuỳ theo pháp luật từng nước quy định về độ tuổi của người
thành niên. Nhưng tựu chung lại, vẫn là những tổ chức, cá nhân có đầy đủ năng
lực hành vi và năng lực pháp luật. Những chủ thể như trên đã đề cập vẫn là chủ
thể chủ yếu của hợp đồng giao kết qua mạng, nhưng sẽ có rất nhiều vấn đề phát
sinh khi xác định tư cách chủ thể của hình thức hợp đồng giao kết này.
Bộ luật mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL 1996 - không đề cập
cụ thể những ai là người đủ tư cách là chủ thể của hợp đồng điện tử. Nhưng sẽ
không có gì là không đúng khi xem các chủ thể của hợp đồng truyền thống cũng
là chủ thể của hợp đồng điện tử. Chẳng có lý do nào để pháp luật hạn chế tư cách
chủ thể của họ khi họ tham gia ký kết hợp đồng điện tử cả.
Tương tự như luật quốc tế, Dự thảo 6 Pháp lệnh Thương mại điện tử
cũng không đề cập đến tư cách chủ thể khi tham gia ký kết các hợp đồng điện tử
và theo suy luận logic, đối với luật Việt Nam cũng áp dụng các qui định về tư

cách chủ thể của các hợp đồng truyền thống cho các hợp đồng điện tử.
Quy định về Năng lực hành vi dân sự của cá nhân, đây là cơ sở để xác
định một người liệu có khả năng tham gia vào các giao dịch dân sự nói chung
hay các giao dịch thương mại nói riêng hay không. Vấn đề này, đặt ra đối với các
hợp đồng giao kết qua mạng là vô cùng khó xác định và nếu không nói là không
thể xác định được vì khi giao kết hợp đồng theo hình thức này thì các đối tác
không gặp nhau trực tiếp. Đây là điều rất gây trở ngại cho các bên khi giao kết.
Liệu rằng một người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khi giao kết
hợp đồng qua mạng thì hợp đồng ấy có bị xem là đương nhiên vô hiệu hay
không? Làm sao để xác định được năng lực hành vi dân sự của một người ở cách

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

17

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

xa ta hàng ngàn cây số? Chỉ có thể tin vào sự “hợp tác” của đôi bên, và hy vọng
rằng mỗi bên đều xác định rõ rằng khi có một trong hai bên lừa dối khi tiến hành
giao kết, thì hậu quả là họ có thể bị thiệt hại nhiều hơn người bị lừa dối.
Thêm vào đó sẽ là cả một vấn đề khi xác định rằng một người nào đó có
đang ở trong tình trạng đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang trong
thời gian bị Toà án tước quyền hành nghề hay không? Để giải quyết tất cả những
vấn đề trên, chắc chắn rằng trong 5 hay 10 năm tới cũng không thể làm được mà
phải mất nhiều năm sau đó nữa, bởi vì muốn kiểm tra những thông số liên quan

đến đời tư cá nhân như tình trạng sức khoẻ, lịch sử bản thân của tất cả các công
dân của một quốc gia thì chỉ có thể là một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành bằng một cơ sở dữ liệu quản lý thống nhất. Ở các quốc gia phát triển như
Mỹ, Chính phủ có hẳn một cơ sở dữ liệu lưu trữ về những thông tin tương tự như
vậy. Nhưng để áp dụng vào hoàn cảnh nước ta sẽ không hoàn toàn đơn giản, vì
theo tập quán Việt Nam, người ta rất ngại phải công bố những thông tin liên quan
đến vấn đề cá nhân, lịch sử bản thân…
Có lẽ tất cả các vấn đề trên chỉ còn một giải pháp, đó là vẫn áp dụng
những điều khoản yêu cầu về chủ thể của hợp đồng truyền thống vào hình thức
kinh doanh mới - kinh doanh qua mạng, cùng với nhiều uyển chuyển hơn một
chút (bổ sung nếu cần). Ví dụ như, trong thương mại truyền thống, tuy pháp luật
có quy định rằng những trẻ em (dưới 6 tuổi) khi thực hiện các giao dịch phải
thông qua người giám hộ, nhưng trong thực tế, các trẻ em này vẫn thực hiện
thành công nhiều giao dịch (mang tính phục vụ nhu cầu hằng ngày), và người có
quyền cũng không có phản ứng gì khác thì hợp đồng của trẻ em giao kết vẫn có
hiệu lực trong thực tế. Từ thực tế đó, gợi mở một vấn đề là, yêu cầu về chủ thể
của thương mại điện tử cũng sẽ có những ngoại lệ. Nếu như trẻ em, hay bất kỳ
chủ thể nào khác bị hạn chế năng lực giao kết, khi họ thực hiện các giao dịch qua
mạng (các giao dịch này có liên quan đến yếu tố tài sản, hay thanh toán), nếu các
hợp đồng vẫn được tiến hành bình thường và không gây thiệt hại cho ai (hai bên
giao kết, người thứ ba), thì nên chăng vẫn xem các hợp đồng này là có hiệu lực
(mặc dù được giao kết bởi những chủ thể bị hạn chế bởi các quy định của luật).
Nếu có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra, lúc này vấn đề tư cách chủ thể đặt ra, và
chắc chắn rằng hợp đồng được giao kết là vô hiệu, nhưng giải quyết ra sao về hậu
quả, các bên hoàn lại cho nhau những gì đã nhận là điều chắc chắn và sẽ là cả
bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra, nhưng ai sẽ bồi thường lại là vấn đề
không dễ xác định, có phải người tin vào giao dịch cũng có lỗi hay không khi
không thực hiện việc xác thực thông tin đã được cung cấp? hay phần lỗi hoàn
toàn thuộc về người đưa ra đề nghị giao dịch (họ đã lừa dối), vấn đề này sẽ
không thể có câu trả lời chung cho tất cả các tình huống mà tuỳ từng trường hợp

cụ thể khi xét xử Toà án/Trọng tài sẽ dựa vào tình huống cụ thể mà đưa ra phán
quyết cuối cùng.
Có một điều khoản mà luật Thương mại quy định cho thương mại truyền
thống hợp đồng mua bán với thươngnhân nước ngoài phải tiến hành đăng ký tại
cơ quan có thẩm quyền (là cơ sở để tính thuế xuất nhập khẩu), sẽ không còn hợp
lý trong môi trường thương mại điện tử, vì yếu tố thương nhân nước ngoài xảy ra
hàng giờ trong các giao dịch trên mạng (thương mại điện tử là không biên giới),
do đó cơ quan thuế sẽ phải có những biện pháp khác để tiến hành kiểm soát các

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

18

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

hợp đồng với thương nhân nước ngoài (bằng một phần mềm tổng quan chẳng
hạn, ở đây vấn đề lại thuộc một phạm trù khác hoàn toàn với khả năng chuyên
môn của người viết, nên các giải pháp đưa ra đối với vấn đề này có thể là không
thoả đáng).

2. HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG
Đối với các loại hợp đồng truyền thống, vấn đề hình thức hợp đồng, pháp
luật dân sự, kinh tế, thương mại Việt Nam đều qui định hình thức của hợp đồng,
theo đó hợp đồng có thể được thực hiện bằng lời nói, văn bản, hành vi cụ thể tuỳ
theo tính chất của từng loại hợp đồng. Điều 400 Bộ luật dân sự qui định : “Hợp

đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể”. Trong pháp luật thương mại cũng quy định hình thức của hợp đồng
thương mại “phải lập thành văn bản”, tuy nhiên đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa, quy định tại điều 49 thì : “ hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện bằng
lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể.....đối với các loại hàng hóa mà quy
định pháp luật phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các qui định đó
(nếu các bên không tuân thủ điều này, thì đây chính là cơ sở pháp lý dẫn đến hợp
đồng vô hiệu); điện báo, telex, fax, thư điện tử ....và các hình thức thông tin điện
tử khác cũng được coi là hình thức văn bản”. Hình thức “văn bản điện tử” mới
chỉ được thừa nhận rõ ràng về mặt pháp lý trong hợp đồng mua bán hàng hóa
thương mại, còn các hợp đồng kinh tế, dân sự, thương mại khác thì chưa được
thừa nhận rõ ràng, nhưng sắp tới điều này sẽ thay đổi. Các quốc gia khác trên thế
giới cũng có cùng quan điểm như luật Việt Nam, tức là chấp nhận các hình thức
hợp đồng bằng văn bản, lời nói và hành vi cụ thể. Nhưng để đảm bảo an toàn, các
bên tham gia giao kết hợp đồng, thường là chọn hình thức văn bản - cơ sở chắc
chắn hơn các hình thức còn lại.
Bên cạnh vấn đề về hình thức của hợp đồng, trong thương mại truyền
thống, luật Thương mại 1997, cũng quy định những nội dung chính của hợp đồng
tại Đ50, bao gồm các điều khoản sau:
-Tên hàng;
-Số lượng;
-Quy cách, chất lượng;
-Giá cả;
-Phương thức thanh toán;
-Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng
Theo quy định của luật, thì một hợp đồng thương mại bắt buộc phải có
những điều khoản trên (đều khoản bắt buộc), ngoài ra các bên cũng có thể thoả
thuận những điều khoản tuỳ nghi, miễn là hai bên cùng đồng ý với những điều
khoản ấy là được (không trái pháp luật và đạo đức xã hội). Nếu hợp đồng thiếu
những điều khoản bắt buộc trên thì đấy cũng là căn cứ pháp lý dẫn đến hợp đồng

vô hiệu.

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

19

SVTH: Phan Huy ền Trân


Luận văn tốt nghiệp – k26

Quy chế pháp lý dành cho các hợp đồng giao kết qua mạng

Nếu trong thương mại truyền thống, các hợp đồng được ký kết và được
thể hiện trên giấy tờ, thì đối với thương mại điện tử, chúng ta phải làm quen với
một loại văn bản mới là văn bản điện tử. Tại điều 11, Bộ luật mẫu về thương mại
điện tử, thừa nhận rằng thông điệp dữ liệu cũng là dạng thức của hợp đồng, và nó
có giá trị pháp lý ngang như hợp đồng được giao kết và tiến hành trên giấy tờ,
giá trị pháp lý của nó được thừa nhận một cách bắt buộc (Điều 12)13 . Theo Dự
thảo lần 6 Pháp lệnh Thương mại điện tử, hình thức của hợp đồng dưới dạng cơ
sở dữ liệu thì cơ sở dữ liệu đó phải chắc chắn là truy cập tới được để dùng vào
mục đích tham chiếu sau này.14
Đối với một phương tiện điện tử đặc thù như điện thoại, khi các bên thực
hiện giao dịch thông qua điện thoại, và sau đó tiến hành thực hiện hợp đồng trên
cơ sở đã thỏa thuận mà không hề có bất cứ bản ghi nhận nào về quá trình đã
thương lượng trước đó, sẽ không là vấn đề gì nếu các bên thực hiện đúng những
gì đã cam kết (bằng hành vi cụ thể, giao hàng và chuyển tiền). Nhưng sẽ là vấn
đề khi phát sinh tranh chấp, vì các bên thường hay cố gắng giảm thiểu thiệt hại
của mình đến mức ít nhất bằng cách hạn chế những phần lỗi của mình xuống
mức thấp nhất, và đổ lỗi cho phía đối tác, lúc này thật khó cho Tòa án hay Trọng

tài xác định được ai là người có lỗi và phải gánh chịu trách nhiệm đến đâu. Và
cũng chẵng có cơ sở cho cơ quan thuế tính thuế (vì không có hợp đồng). Thế thì
để tránh những thiệt hại không đáng có và để tạo được niềm tin cho đối tác, dù
thực hiện giao dịch thông qua điện thoại thì các bên cũng nên có một bản ghi âm
của các cuộc giao dịch đó (cơ sở dữ liệu dưới dạng âm thanh), và cũng là yếu tố
làm chứng cứ khi có phát sinh tranh chấp.
Nội dung và hình thức là hai vấn đề đi đôi khi xét đến tính hiệu lực của
hợp đồng bên cạnh các yếu tố khác. Đối với thương mại điện tử, nội dung của
hợp đồng có lẽ là không thể theo chuẫn mực như quy định của thương mại truyền
thống (như bên A, bên B kèm theo các điều khoản cụ thể), nhưng một hợp đồng
mẫu trong thương mại điện tử sẽ như thế nào, thông thường bên bán sẽ trưng bày
hàng hoá (trên mạng) – hàng hoá ảo, kèm theo giá, nếu có khách hàng viếng
13

Điều 11 Dạng thức và tính hiệu lực của các hợp đồng

Xét về hình thức hợp đồng, trừ khi có một hình thức nào khác mà các bên đã nhất trí, đơn đặt
hàng và việc chấp thuận đơn đặt hàng đó có thể được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Khi thông
điệp dữ liệu được thể hiện dưới dạng một hợp đồng, hợp đồng đó sẽ không bị phủ nhận tính hiệu lực hay
tính bắt buộc nếu chỉ vì thông điệp dữ liệu được sử dụng vì mục đích xây dựng hợp đồng.
Điều 12 Thừa nhận giá trị thông điệp dữ liệu của các bên

Xét giữa người gửi và người nhận thông điệp dữ liệu, một cam kết hay mong muốn sẽ
được tính là có giá trị pháp lý, tính hiệu lực và bắt buột chỉ cần nó được truyền tải dưới dạng
thông điệp dữ liệu
14

Điều 5 Đáp ứng đòi hỏi pháp lý về hình thức văn bản :

a.Một thông điệp dữ liệu đáp ứng các đòi hỏi pháp lý về hình thức văn bản nếu thông tin hàm

chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể được truy cập tới để sử dụng vào mục đích tham chiếu sau này
b.Khoản (a) áp dụng trong trường hợp đòi hỏi pháp lý là một nghĩa vụ hoặc trong trường hợp
pháp luật qui định về những hậu quả đối với thông tin không được thể hiện ở dạng văn bản.

GVHD: Ths.Đặng Thị Thu Thảo

20

SVTH: Phan Huy ền Trân


×