TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2012 - 2013
Đề tài:
VẤN ĐỀ XÁC LẬP QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
Giảng viên hướng dẫn :
Ths. Bùi Thị Mỹ Hƣơng
Bộ môn Luật Thƣơng mại
Sinh viên thực hiện:
Dƣơng Nguyệt Thanh
MSSV: 5095557
Lớp: Luật Thƣơng mại 1 - K35
Cần Thơ, 4/2013
LỜI CẢM ƠN
Bốn năm học dưới mái trường Đại học Cần
Thơ đã trôi qua một cách nhanh chóng, để lại
trong em nhiều kỉ niệm đẹp và những luyến tiếc về
những dự định dang dỡ. Kết thúc khóa học, bước
sang một trang mới của cuộc đời, mỗi sinh viên
chúng em giờ đây cùng có một tâm trạng vui, buồn
khó tả. Xa rời nơi đây, lời cảm ơn sâu sắc nhất em
muốn gửi đến quý thầy cô Khoa Luật trường Đại
học Cần Thơ đã mang đến cho em nhiều tri thức
trong khoảng thời gian học tập. Đặc biệt em muốn
gửi lời cảm ơn đến cô Bùi Thị Mỹ Hương người đã
hướng dẫn em rất nhiệt tình trong suốt quá trình
làm luận văn tốt nghiệp. Cuối lời, em xin chúc quý
thầy, cô được nhiều sức khỏe và thành công hơn
trong giảng dạy, mãi mãi là ngọn hải đăng sáng
dẫn dắt nhiều thế hệ sinh viên Luật bước đi đến
con đường tương lai mới.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, tháng 4 năm 2013
Dương Nguyệt Thanh
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày... tháng... năm 2013
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................... Trang 01
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ XÁC LẬP QUAN HỆ NUÔI
CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .. Trang 04
1.1.1.Khái niệm nuôi con nuôi ............................................................ Trang 04
1.1.2.Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và xác lập quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài .................................................................... Trang 05
1.2. Mục đích, ý nghĩa, bản chất của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài............................................................................................................ Trang 06
1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
..................................................................................................................... Trang 06
1.2.2.Bản chất của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài..... Trang 07
1.3. Đặc trƣng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .......... Trang 09
1.3.1.Đối tượng điều chỉnh ................................................................. Trang 09
1.3.1.1.Yếu tố chủ thể ................................................................ Trang 09
1.3.1.2.Yếu tố khách thể ............................................................ Trang 10
1.3.1.3.Sự kiện pháp lý .............................................................. Trang 11
1.3.1.4.Yếu tố nơi cư trú ............................................................ Trang 11
1.3.2.Phương pháp điều chỉnh ............................................................ Trang 12
1.3.2.1.Phương pháp xung đột ................................................... Trang 12
1.3.2.2.Phương pháp thực chất .................................................. Trang 12
1.3.3.Nguồn điều chỉnh ...................................................................... Trang 13
1.3.3.1.Điều ước quốc tế ............................................................ Trang 13
1.3.3.2.Pháp luật quốc gia .......................................................... Trang 14
1.3.4.Nguyên tắc điều chỉnh ............................................................... Trang 15
1.3.4.1.Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự ....................... Trang 15
1.3.4.2.Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự ....................... Trang 15
1.3.4.3.Nguyên tắc luật của nước có tòa án ............................... Trang 16
1.3.4.4.Nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi ........................... Trang 17
1.4.Sơ lƣợc quá trình hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam .............................. Trang 17
1.4.1.Thời kỳ từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1959 ...................... Trang 17
1.4.2.Thời kỳ từ Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp 1980 ...................... Trang 18
1.4.3.Thời kỳ từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992 ...................... Trang 19
1.4.4.Thời kỳ từ Hiến pháp 1992 đến trước năm 2001 ...................... Trang 20
1.4.5.Thời kỳ từ năm 2001 đến nay.................................................... Trang 21
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ XÁC LẬP QUAN HỆ
NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI_ THỰC TRẠNG VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN
2.1. Quy định chung về việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
theo luật hiện hành .................................................................................... Trang 23
2.1.1. Đối tượng điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài .................................................................... Trang 23
2.1.1.1. Đối tượng là người được nhận làm con nuôi ................ Trang 23
2.1.1.2. Đối tượng là người nhận nuôi con nuôi ........................ Trang 23
2.1.1.3. Quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài ............................................................................................... Trang 24
2.1.2. Điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và các hành vi bị cấm khi
nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................................................... Trang 25
2.1.2.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi ........ Trang 25
2.1.2.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi ................ Trang 28
2.1.2.3. Các hành vi bị cấm khi nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
..................................................................................................................... Trang 31
2.1.3. Thẩm quyền giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
..................................................................................................................... Trang 34
2.1.3.1. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi con
nuôi tại Việt Nam ........................................................................................ Trang 34
2.1.3.2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi tại cơ
quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ............................................................. Trang 41
2.1.3.3. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi nước
ngoài ở khu vực biên giới............................................................................ Trang 44
2.1.3.4. Thẩm quyền cấp phép, trình tự thành lập, quyền và nghĩa vụ của
Tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài tại Việt Nam ........................................ Trang 47
2.1.4. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .. Trang 50
2.1.4.1. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi ................................ Trang 50
2.1.4.2. Quan hệ với gia đình gốc .............................................. Trang 52
2.2. Thực trạng và hƣớng hoàn thiện pháp luật về việc xác lập quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay .............................. Trang 53
2.2.1. Thực trạng về việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
..................................................................................................................... Trang 53
2.2.1.1. Thành tựu trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ................................................................................................... Trang 53
2.2.1.2. Hạn chế trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ............................................................................................................ Trang 57
2.2.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay......................... Trang 61
KẾT LUẬN ................................................................................................ Trang 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên
thế giới và được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các nước trên cơ sở phù hợp
với điều kiện kinh tế và mục đích xã hội của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được Đảng và
nhà nước quan tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước còn phải chịu những di
chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, mức
thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần có mái ấm
gia đình… thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội.
Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp
phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc biệt là những
cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, sống đơn thân…
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi ở nước ta được hình thành từ khá
sớm và trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện
quyền của trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia
đình; động viên khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam;
giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong
nhân dân.
Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập ngày nay vấn đề bảo vệ trẻ em không chỉ
là nhiệm vụ của riêng một quốc gia nào, sự hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi
trẻ em ngày càng được phát triển sâu rộng. Trẻ em hơn ai hết là người cần được
hưởng đầy đủ nhất quyền được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục... vấn
đề nuôi con nuôi cần phải được nhắc đến nhất là vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
Luật Nuôi con nuôi 2010 chính là cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng trong nước và người nước ngoài mong
muốn có con nuôi; bảo vệ quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư
tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ. Bên cạnh
đó, việc ban hành Luật Nuôi con nuôi còn thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế
của nhà nước ta khi tham gia công ước quốc tế về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo
đảm các quyền trẻ em, bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc
nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề nuôi con nuôi, đặc biệt là việc xác lập nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài kể từ khi có Luật Nuôi con nuôi 2010 ra đời, qua đó có
thể so sánh, phân tích và thấy được những điểm mới, tính ưu việt của đạo luật này;
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
1
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
đồng thời đề ra những cơ chế đảm bảo và biện pháp đưa pháp luật nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng vào đời sống xã hội, vì vậy
người viết đã chọn đề tài “Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài” làm đề tài luận văn cho mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Nuôi con nuôi là vấn đề rộng lớn, nhạy cảm và liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau trong quan hệ dân sự và hôn nhân gia đình. Trong điều kiện hạn hẹp về
thời gian cũng như giới hạn của đề tài nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu ở
phương diện pháp lý của việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
từ đó đưa ra thực trạng cần phải giải quyết hiện nay trong vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài.
Chương 1, người viết tập trung vào các vấn đề về khái niệm nuôi con nuôi,
xác lập, bản chất, đặc trưng của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đồng thời
xem xét phương pháp và nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ này dựa trên những
nguồn pháp luật điều chỉnh cụ thể, lịch sử phát triển qua các giai đoạn.
Chương 2, người viết phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ đó, thông
qua những thành tựu, đồng thời đúc kết những tồn tại và hạn chế trong quá trình thi
hành và áp dụng pháp luật, đưa ra hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành trong công tác thực hiện việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài trên thực tiễn.
Với đề tài này, người viết dựa trên cơ sở những tài liệu, những điều ước
quốc tế, quy định pháp luật được áp dụng ở một số quốc gia trên thế giới và văn bản
pháp luật nước nhà.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài”, giúp ta hiểu thêm quy định của pháp luật quốc gia và pháp
luật các nước, những điều ước quốc tế... về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, cũng như những vấn đề còn hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề này.
Từ đó đưa ra quan điểm của người viết, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật
nước nhà việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Và hiểu thêm về bản chất, ý
nghĩa, vai trò của nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để một lần nữa nhấn mạnh sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đối sự ổn định, phát triển của gia đình tạo
nền tảng cho sự phát triển xã hội.
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
2
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm đề giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài, người viết thể hiện một
số phương pháp: phân tích, tổng hợp, liệt kê, so sánh…cho bài luận văn của mình.
Từ đó, làm rõ hơn quy định của pháp luật quốc gia về vấn đề nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài.
5. Bố cục đề tài
Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được thể hiện như sau:
Chương 1: Lý luận chung về vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài;
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài_ thực trạng và hướng hoàn thiện.
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
3
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC XÁC LẬP NUÔI CON
NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi, nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài và xác lập
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia
đình nói riêng và trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung bởi nó điều chỉnh
mối quan hệ gắn bó giữa cha mẹ con trong gia đình. “Quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi
được thiết lập không qua con đường sinh sản mà theo quyết định của cơ quan Nhà
nước có thầm quyền”.1 Từ đó, việc nuôi con nuôi phải thể hiện được sự trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn
tật, bị cha mẹ bỏ rơi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cho rằng: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên”, cho nên việc nuôi con nuôi, trước hết phải xuất phát từ
mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi. Nhằm mang
lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi
dưỡng, chăm sóc và hơn hết người được nhận làm con nuôi phải được giáo dục tốt
để mai này trở thành một người có ích cho xã hội, làm giàu thêm cho đất nước. Bên
cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm thực sự của người
nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái trong gia
đình chung.
Theo Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể về
vấn đề này : “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm
con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã
hội”.
Kế thừa quy định trên về nuôi con nuôi trong Luật hôn nhân và gia đình,
Luật Nuôi con nuôi 2010 đã đưa ra khái niệm của việc nuôi con nuôi như sau:
“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi
với người được nhận làm con nuôi”.2 Khái niệm này, cho thấy nuôi con nuôi là một
quan hệ pháp luật đặc biệt vì nó có tính chất xác lập mối quan hệ cha, mẹ, con bằng
1
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân gia đình Việt Nam, Nxb trẻ TP. Hồ Chí Minh, 2002,
tr 197
2
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
4
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
sự ghi nhận về mặt pháp lý. Sự ghi nhận của pháp luật là điều kiện quan trọng cho
việc xác lập mối quan hệ cha, mẹ, con.
Cùng với mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, thì việc
nuôi con nuôi phải bảo đảm vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi,
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài và xác lập quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một vấn đề hiện được nhiều nước trên
thế giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và đã
được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
Ở Việt Nam, “nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài” là một thuật ngữ của
chuyên ngành tư pháp quốc tế. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong
nhóm quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, được điều chỉnh trong hệ
thống pháp luật về quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.
Tại Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 khái niệm: “Nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công
nhân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài ”. Qua khái niệm đã nêu
lên việc xác lập quan hệ cha mẹ con bằng con đường nuôi dưỡng để phân biệt với
hình thức cha mẹ con trên cơ sở huyết thống. Nếu như quan hệ giữa cha mẹ đẻ và
con đẻ là quan hệ gia đình huyết thống được hình thành từ việc sinh đẻ thì quan hệ
cha mẹ con nuôi là quan hệ nhân tạo được xác lập về mặt pháp lý. Một quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ được xác lập khi có sự tham gia cùng lúc của hai
loại chủ thể hưởng quyền, có điều kiện và khả năng thực hiện các quyền chủ thể
tương ứng “chủ thể nhận con nuôi” và “chủ thể được nhận làm con nuôi”.3
Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là
thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng
đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Điều đáng lưu ý
là trẻ em Việt Nam chỉ được giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài khi đã
thực hiện các biện pháp tìm gia đình thay thế nhưng vẫn không được nhận làm con
nuôi trong nước, nghĩa là pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn ưu tiên tìm mái ấm
trong nước cho trẻ em.
3
Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr38.
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
5
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.2. Mục đích, ý nghĩa, bản chất của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài
1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
“Sống trong cuộc sống cần có một tấm lòng” là lời một bài hát, mang ý nghĩa
sâu sắc về tình người và mối quan hệ của con người trong cuộc sống. Sống cần có
tấm lòng để tha thứ bao dung cho những ai lầm lỗi cũng như dang rộng tay mình
che chở cho những trẻ em không may mắn tìm lại được hạnh phúc trong gia đình. Ở
Việt Nam có hàng nghàn trẻ em rơi vào hoàn cảnh cơ nhở, trẻ em mồ côi, bị cha mẹ
bỏ rơi, bị di chứng, bệnh tật... chưa được sự quan tâm của cộng đồng, trẻ em cần có
một mái ấm tình thương để được bảo bọc, che chở nhằm vượt qua khó khăn, gian
khổ này. Bởi thế, việc nhận nuôi con nuôi nói riêng và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài nói chung là một việc làm vô cùng cao cả, việc làm đó đem lại tình yêu, sự
hạnh phúc, một tương lai mới, một cuộc đời mới cho trẻ em lang thang Việt Nam.
Thực tế cho thấy, nếu không có chính sách hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, nhiều trẻ em Việt Nam không có điều kiện được quan
tâm, chăm sóc để phát triển toàn diện. Trẻ em được tiếp xúc với môi trường văn
hóa, ngôn ngữ mới... làm phong phú thêm kiến thức của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ
phát huy hết năng lực và tiềm năng sẳn có của mình, theo đuổi những hoài bảo ước
mơ của mình để sau này đem cái hay, cái mới nơi xứ người về quê hương phục vụ
cho đất nước.
Vì vậy, việc nhận nuôi con nuôi phải lâu dài, bền vững vì lợi ích của người
được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trong môi trường gia đình. Các trường hợp nhận trẻ về làm con nuôi phải đảm
bảo mục đích và yêu cầu trên, nếu việc nhận nuôi con nuôi không vì quyền lợi của
người được nhận nuôi, làm sai lệch mục đích ý nghĩa của việc nhận con nuôi, thì
việc nhận nuôi con nuôi đó sẽ không được công nhận.
Việc xác định mục đích của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một
việc làm khó khăn, khó kiểm soát, đây cũng là một nguyên tắc cơ bản để thiết lập
quan hệ cha mẹ con nuôi của nhiều nước trên thế giới, chẳng hạn: “ Mục đích của
việc nhận con nuôi là phải nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con cái giữa người
nuôi và người được nhận nuôi, đảm bảo vì sự hạnh phúc của người nuôi”.4 Việc
nuôi con nuôi phải xuất phát từ mục đích lợi ích của người được nhận nuôi sẽ được
pháp luật bảo hộ và mang một ý nghĩa nhân văn, tình người sâu sắc. Sự quan tâm
của toàn xã hội Việt Nam trước những mãnh đời bất hạnh của trẻ em là vô cùng cần
4
Điều 2 Luật nuôi con nuôi của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1999
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
6
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
thiết. Vì vậy việc mở rộng tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng có ý nghĩa thiết
thực.
1.2.2. Bản chất của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Bản chất xã hội
Nuôi con nuôi là một hoạt động nhân dạo sâu sắc, trong đó vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài thể hiện mối quan tâm rộng rãi đối với những con người
bất hạnh, việc làm này không chỉ bó hẹp trong phạm vi một nước mà lang ra toàn
thế giới. Thể hiện sự quan tâm của cộng đồng người trong phạm vi quốc tế về vấn
đề mái ấm gia đình cho trẻ em ngày mai. Bản chất xã hội cao nhất của vấn đề nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài là tin thần hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong sự
phát triển cũng như chia sẻ, giúp đỡ các vấn đề về bảo vệ quyền lợi trẻ em phù hợp
với các quy định quốc tế. Từ đó, tạo ra nhiều khả năng mang lại cơ hội phát triển
cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác, nhận nuôi con còn thúc đẩy và nhân
rộng mối quan hệ giữa các nước đưa đến những cơ hội hợp tác đa dạng trong bảo vệ
quyền lợi trẻ em.
Ngoài ra, vấn đề nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn thể hiện ở
mục đích mang lại nhiều cơ hội cho những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở những
nước nghèo, được sự quan tâm và chăm sóc của cộng đồng xã hội. Đem lại hạnh
phúc, tương lai, bảo vệ quyền lợi cho trẻ là việc làm phù hợp với đạo lý xã hội và
xu hướng của thời đại. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài đã phần nào làm kết chặt mối quan hệ pháp lý giữa các
quốc gia. Gắn kết mối quan hệ có tính chất thiêng liêng trong gia đình giữa cha, mẹ
và con, xóa dần khoảng cách phân biệt giai cấp, chủng tộc, màu da... mở rộng tình
người và thiết lập mối quan hệ cha, mẹ và con giữa công dân các nước. Quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thể hiện ý chí chung của tất cả các quốc gia trên
thế giới trong việc hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ em phù hợp với các
điều ước quốc tế. Sự quan tâm này xuất phát từ mục đích nhân đạo của cộng đồng
xã hội bản chất xã hội của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có giá trị đích
thực khi nó xuất phát từ mục đích nhân đạo vì quyền lợi chung của trẻ em.
Bản chất pháp lý
Bản chất pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước hết
là sự ghi nhận về các quan hệ phát sinh giữa cha, mẹ và con trước cơ quan có thẩm
quyền hay nói cách khác là sự ghi nhận của pháp luật về ý chí của các chủ thể phát
sinh trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cơ quan có thẩm quyền chỉ
có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ ràng ý chí của
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
7
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
mình đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của việc nuôi con nuôi. Nói
cách khác cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi
khi các sự kiện cấu thành đã hội tụ đầy đủ và được liên kết lại với nhau tại thời
điểm phát sinh quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi
Việc nhận nuôi con nuôi có bản chất pháp lý là sự thể hiện ý chí của các bên
trong việc xác lập quan hệ cha, mẹ nuôi – con nuôi, là sự thể hiện ý chí của người
nhận nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ của người được nhận làm con nuôi. Việc cho
con mình làm con nuôi người khác thường là việc làm bất đắc dĩ trong những điều
kiện, hoàn cảnh nhất định. Do đó, cha mẹ đẻ luôn cân nhắc, suy nghĩ kĩ trước khi
quyết định cho con mình làm con nuôi với mong muốn đứa trẻ sẽ có môi trường,
điều kiện sống tốt hơn, khi bản thân họ không thể có điều kiện nuôi dưỡng, chăm
sóc cho trẻ. Việc cho con làm con nuôi phải xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của
cha mẹ đẻ trên cơ sở lợi ích của đứa trẻ. Sự tự nguyện thật sự là sự tự nguyện được
hình thành trên cơ sở nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và hậu quả pháp lí của việc
cho con làm con nuôi, phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù hợp
với lợi ích của người con nuôi. Mọi sự đồng ý cho con làm con nuôi vì mục đích
trục lợi đều không phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và không phải tự
nguyện thật sự. Ngược lại, mọi sự tác động, dụ dỗ, lừa dối, cưỡng ép… để có được
sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi cũng đều không hợp
pháp và về nguyên tắc không có giá trị pháp lí. Sự đồng ý cho con mình làm con
nuôi người khác phải xuất phát từ tự nguyện và ý chí độc lập của cha mẹ đẻ.
Đứa trẻ có quyền quyết định một cách độc lập có đồng ý làm con nuôi người
khác hay không trên cơ sở tự nguyện thật sự, phù hợp với nhận thức, tình cảm của
đứa trẻ đối với việc được nhận làm con nuôi. Do đó, bản chất của việc nhận nuôi
con nuôi nói riêng và việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói chung phải
thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi. Chỉ trên cơ sở đó thì sự đồng ý
của đứa trẻ mới có giá trị pháp lí vì nó minh bạch, rõ ràng. Sự đồng ý của đứa trẻ có
được do dụ dỗ, mua chuộc hay bị lừa dối, cưỡng ép, khống chế… dù từ bất cứ ai
đều làm cho việc nuôi con nuôi không có giá trị pháp lí. Vì vậy, sự đồng ý của bản
thân người được nhận làm con nuôi được coi là hành vi pháp lí đơn phương, phát
sinh một cách độc lập, vào bất cứ thời điểm nào mà không phụ thuộc vào ý chí của
cha mẹ đẻ, người giám hộ.
Bởi quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một nhóm trong mối quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng nên hệ thống pháp luật và bản chât pháp lý của vấn đề
này chịu sự điều chỉnh của ngành luật tư pháp quốc tế. Từ đó cho thấy các hiện
tượng về xung đột pháp luật, xung đột về thẩm quyền xét xử, các vấn đề áp dụng
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
8
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
pháp luật giải quyết... sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc cơ bản của luật tư
pháp quốc tế. Sự điều chỉnh này có tác dụng quan trọng trong việc đưa vấn đề nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài vào khuôn khổ của hệ thống pháp luật quốc tế về các
nguyên tắc, phương pháp giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục quốc tế. Và theo đó
bảo đảm bình đằng quyền giữa các quốc gia về quyền lợi của chủ thể tham gia quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trên các nguyên tắc giải quyết của các quốc
gia với nhau.
1.3. Đặc trƣng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.1. Đối tƣợng điều chỉnh
1.3.1.1. Yếu tố chủ thể
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một nhóm trong quan hệ pháp luật dân
sự có yếu tố nước ngoài, vậy nên yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài cũng chính là yếu tố chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa
rộng hay quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài.
Yếu tố chủ thể của pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài là đối tượng quan
trọng trong tư pháp quốc tế, khi xem xét vấn đề chủ thể thông thường các quốc gia
trên thế giới điều dựa vào các vấn đề như: Quốc tịch nơi cư trú của đương sự năng
lực hành vi dân sự của đương sự … Pháp luật Việt Nam về vấn đề chủ thể trong
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nói riêng được xác định dựa trên những dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu quốc tịch, “Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài” trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có các chủ thể là người Việt Nam và
chủ thể là người nước ngoài do đó các chủ thể có quốc tịch khác nhau.
Vấn đề đặt ra theo dấu hiệu quốc tịch là việc phải xác định quốc tịch của một
cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì về nguyên tắc
việc xác định một người là công dân của một nước thì phải dựa trên căn cứ quốc
tịch nơi mà người đó được hưởng. Tức là nơi mà người đó chịu sự điều chỉnh của
pháp luật và phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với pháp luật của quốc gia đó.
Việc xác định quốc tịch của một cá nhân trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài đòi hỏi các bên tham gia phải có năng lực chủ thể nhất định theo quy
định của pháp luật tức là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đây là hai thuộc
tính pháp lý bắt buộc khôn thể thiếu khi chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật.
- Dấu hiệu nơi cư trú, “Giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam” dấu hiệu này phát sinh quan hệ nuôi con nuôi giữa hai người có quốc tịch
nước ngoài không đồng thời có quốc tịch Việt Nam; hoặc quan hệ pháp sinh giữa
người nước ngoài và người không có quốc tịch thường trú trên lãnh thổ Việt Nam
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
9
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
hoặc giữa người không có quốc tịch với nhau thường trú trên lãnh thổ Việt Nam
được xem là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. “Giữa công dân Việt Nam
với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”, điều này làm phát sinh quan hệ nuôi
con nuôi giữa cả hai đồng thời đều có quốc tịch Việt Nam hoặc bên định cư ở nước
ngoài mang hai quốc tịch (một quốc tịch Việt Nam, một quốc tịch của nước nơi
người đó định cư) với một bên mang quốc tịch Việt Nam và đang thường trú Việt
Nam.
Thực tiễn, vấn đề xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ chủ thể nuôi con
nuôi ở Việt Nam và các nước cũng thường phát sinh từ yếu tố cư trú của đương sự
và quốc tịch của chủ thể.
1.3.1.2. Yếu tố khách thể
Những phát sinh khi xảy ra khi tranh chấp trong quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài là những quan hệ về quyền nhân thân và quyền tài sản nó cũng
chính là yếu tố khách thể trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Đối với quyền tài sản, theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Tài sản bao gồm
vật tiền giấy tờ có giá và các quyền về tài sản”.5 Pháp luật Việt Nam quy định tài
sản bao gồm động sản và bất động sản.6 Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề quy định về
tài sản trên thế giới có những đểm khác nhau có quốc gia loại đó được xem là tài
sản nhưng cũng có quốc gia không xem là tài sản có quốc gia xem đó là bất động
sản nhưng cũng có quốc gia xem đó là động sản. Đây là hiện tượng thường gặp
trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt là vấn đề thừa kế trong quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; tranh chấp về quyền sở hữu tài
sản…Khi đó vấn đề lựa chọn áp dụng luật để giải quyết xung đột pháp luật xung đột
thẩm quyền xét xử và các vấn đề có liên quan thuộc chuyên nghành tư pháp quốc tế
được đề cặp đến để giải quyết. Về nguyên tắc áp dụng theo hệ thuộc luật tài sản của
nước có tài sản, đối với bất động sản theo hệ thuộc luật quốc tịch luật cư trú đối với
tài sản là bất động sản.
- Quyền nhân thân: Trong pháp luật Việt Nam và các nước trên thế giới quyền
nhân thân phát sinh trong quan hệ nuôi có yếu tố nước ngoài được giải quyết theo
nguyên tắc luật nhân thân của đương sự. Theo quy định của pháp luật Việt Nam tùy
theo quan hệ cụ thể mà pháp luật Việt Nam cho phép áp dụng hệ thuộc luật quốc
tịch hay luật cư trú của chủ thể để giải quyết. Vấn đề lựa chọn luật áp dụng để điều
chỉnh xung đột pháp luật về quyền của nhân thân giữa các thành viên trong gia đình
5
Điều 163 Bộ Luật dân sự 2005
6
Điều 174 Bộ Luật dân sự 2005
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
10
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
có yếu tố nước ngoài liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài xuất
phát từ thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên trong gia đình.
1.3.1.3. Sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là những sự
kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh việc nuôi con nuôi nước ngoài được hiểu là sự
kiện có tính chất pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa các chủ thể trong đó làm phát
sinh quan hệ cha mẹ - con nuôi có yếu tố nước ngoài với nhau.
Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là
những sự kiện làm thay đổi quyền và nghĩa vụ được xác lập trước đó giữa các chủ
thể trong quan hệ này. Sự kiện này có thể xảy ra do ý chí của hai bên chủ thể hay do
ý chí của một bên hoặc của bên thứ ba theo quy định của pháp luật.
Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là
sự kiện xảy ra làm chấm dứt mối quan hệ đã được xác lập. Trong quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài sự kiện pháp lý làm chấm dứt mối quan hệ là sự kiện làm
chấm dứt mối quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi.
1.3.1.4. Yếu tố nơi cư trú
Khoảng 01 Điều 52 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Nơi cư trú của cá
nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống”. Việc xác định nơi cư trú rất quan
trọng trong mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích giải quyết
trong vấn đề phát sinh trong quan hệ như việc lựa chọn áp dụng luật các quy định về
quyền nghĩa vụ liên quan đến nơi cư trú của đương sự.
Trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài yếu tố nơi cư trú được
pháp luật quy định như:
Yếu tố nơi cư trú của chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam bao gồm: giữa công dân Viêt Nam với người nước
ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
- Người nước ngoài cư trú trên ngoài lãnh thổ Việt Nam: Quan hệ giữa các chủ
thể gồm: Giữa người nước ngoài với nhau thường trú trên lãnh thổ Việt Nam; Giữa
người nước ngoài với người Việt Nam định cư trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là chủ
thể phát sinh ngày càng tăng theo chiều hướng hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế
của đất nước ta trong đó vấn đề hôn nhân và gia đình ngày một gia tăng đặc biệt là
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
11
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Người Việt Nam cư trú ở nước ngoài: Chủ thể ở đây gồm: Giữa công dân
Việt Nam định cư ở nước ngoài với công dân Việt Nam định cư trên lãnh thổ Việt
Nam; Giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau. Các chủ thể ở đây
chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài trong quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài.
Việc xác định dấu hiệu yếu tố nơi cư trú trong quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài trong đó đặc biệt là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là nền tảng
cơ sở cho việc thiết lập và áp dụng luật trong vấn đề giải quyết phát sinh trong quan
hệ này.
1.3.2. Phƣơng pháp điều chỉnh
1.3.2.1. Phương pháp xung đột
Đây là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết vấn đề
phát sinh trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm xung đột
không trực tiếp giải quyết cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mà nó chỉ làm động tác dẫn chiếu (chọn luật)
đến một hệ thống pháp luật của một quốc gia nào đó nhằm giải quyết vấn đề quyền
và nghĩa vụ của các bên.
Khoảng 04 Điều 759 Bộ Luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định : “Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài không được Bộ luật này các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế nếu
việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Khoảng 01 Điều 29 Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật nơi người đó thường trú và quy định tại Điều
14 của Luật này”. Như vậy, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong
phương pháp xung đột được pháp luật điều chỉnh trước hết là từ nguồn pháp luật
quốc gia và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và gia nhập cụ thể là trong
những hiệp định về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia trên thế
giới.
1.3.2.2. Phương pháp thực chất
Đây là phương pháp dụng các quy phạm pháp luật thực chất nhằm giải quyết
nội dung của quan hệ pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các bên) theo một hệ thống
pháp luật nhất định. Phương pháp điều chỉnh này còn gọi là phương pháp điều
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
12
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
chỉnh trực tiếp dựa vào các quy phạm pháp luật thực chất giải quyết các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài trong từng pháp luật của từng quốc gia trên thế giới
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định
ra các quy phạm thực chất thống nhất.
Các quy phạm thực chất điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế về cơ bản
được các quốc gia thỏa thuận xây dựng nên qua các điều ước quốc tế hoặc qua việc
thừa nhận các tập quán quốc tế theo quy ước các quy phạm này gọi là các quy phạm
thực chất thống nhất.
Quy phạm xung đột được áp dụng trong hai trường hợp:
Thứ nhất, áp dụng một cách trực tiếp vào quan hệ pháp luật nhất định
Ví dụ: Theo Khoản 2 Điều 100 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam quy định:
“Trong quan hệ hôn nhân gia đình với công dân Việt Nam người nước ngoài tại
Việt Nam được hưởng các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam”. Điều này
có nghĩa là người nước ngoài trong quan hệ hôn nhân gia đình sẽ cũng được áp
dụng tương tự như các quyền và nghĩa vụ mà công dân Việt Nam được hưởng.
Thứ hai, là khi có vi phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật
của một nước mà thông thường áp dụng chủ yếu là các quy phạm xung đột thực
chất của quốc gia đó trừ trường hợp việc dẫn chiếu từ quy phạm xung đột đến một
quy phạm xung đột quy định dẫn chiếu đến một nước thứ ba.
Ví dụ: Trẻ em được nhận là con nuôi phải đáp ứng điều kiện theo quy định
của Nước gốc và một số điều kiện khác theo quy định tại Hiệp định.7 Như vậy,
trong trường hợp người nước Đan Mạch nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nếu áp
dụng quy phạm xung đột này dẫn chiếu đến pháp luật của Việt Nam về điều kiện
của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi, sẽ được áp dụng với các quy định cụ
thể. Đây được xem là trường hợp quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng
quy phạm thực chất.
1.3.3. Nguồn điều chỉnh
1.3.3.1. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế, với một định nghĩa tương đối thống nhất, được hiểu là
“một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp
luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.8
7
Điều 9 Hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Đan
Mạch.
8
Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
13
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế thể hiện sự thỏa thuận của các chủ thể
pháp luật quốc tế trước hết là các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm
quy định, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các bên ký kết trong quan hệ
quốc tế phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là nguồn pháp luật
quan trọng trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và trở
thành cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quy định các nguyên tắc áp dụng pháp
luật chung cho các quốc gia ký kết. Do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, điều kiện
kinh tế - xã hội, quy định riêng biệt của pháp luật từng nước nên xung đột pháp luật
trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là điều không thể
tránh khỏi. Để khắc phục điều đó trong quá trình hợp tác và phát triển, đã có khá
nhiều Điều ước quốc tế đa phương và song phương nhằm điều chỉnh kịp thời các
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Bên cạnh đó, để điều chỉnh
tốt quan hệ nuôi con nuôi giữa nước ta với các nước, Việt Nam đã ký kết một số
Hiệp định song phương về nuôi con nuôi với một số nước. Ngoài ra, quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được điều chỉnh qua các Hiệp định tương trợ tư
pháp và pháp lý, Hiệp định lãnh sự giữa nước ta với các nước. Việc áp dụng điều
ước quốc tế sẽ được thực hiện theo nguyên tắc được ưu tiên, theo nguyên tắc điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
1.3.3.2. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là một trong những nguồn pháp luật cơ bản và phồ biến
được áp dụng bên cạnh các điều ước quốc tế, được xây dựng trên cơ sở các quy
phạm pháp luật như : Hiến pháp, Luật, Nghị định, Thông tư... để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài được pháp luật quốc gia điều chỉnh quy định trong các văn bản pháp
luật như: Bộ luật dân sự năm 2005; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật Nuôi
con nuôi năm 2010, và một số văn bản hướng dẫn chi tiết. Đây là cơ sở quan trọng
trong việc điều chỉnh phù hợp các vấn đề phát sinh trong quan hệ này.
Hoạt động nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một hoạt mang lại nhiều lợi
ích thiết thực vì quyền lợi trẻ em. Để hoạt động này ngày càng được tăng cường và
phát triển, việc hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước cần phải được quan
tâm nhằm hướng đến gia nhập các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi là vấn đề quan
trọng của Việt Nam và các quốc gia.
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
14
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.3.4. Nguyên tắc điều chỉnh
1.3.4.1. Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự
Đây là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài trong đó đặc biệt là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm phân
biệt cá nhân là người Việt Nam hay người nước ngoài từ đó lựa chọn áp dụng các
chế độ pháp lý của pháp luật một cách phù hợp. Theo nguyên tắc này thì quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài phát sinh giữa công dân nước nào thì áp
dụng pháp luật của quốc gia đó điều chỉnh.9 Trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài đây được xem là nguyên tắc quan trọng thường được các quốc gia trong
đó có Việt Nam áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ thể tham gia
vào qua hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Trong pháp luật Việt Nam nguyên tắc luật quốc tịch được ghi nhận trong
nhiều văn bản luật như: Bộ Luật dân sự 2005, Luật Hôn nhân và gia đình 2000,
Luật Nuôi con nuôi 2010 và các Nghị định. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp
giữa Việt Nam và các nước nguyên tắc này đã trở thành nguyên tắc quan trọng như
trong Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Pháp qui định: “Việc quyết định cho trẻ em làm con nuôi thuộc
thẩm quyền cơ quan nhà nước của nước ký kết mà trẻ em đó là công dân”10. Vấn đề
áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
là vấn đề hết sức cần thiết nhằm thiết lập mối quan hệ pháp luật giữa các chủ thể
xác định pháp luật áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài một cách khách quan và chính xác.
1.3.4.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự
Luật nơi cư trú được hiểu là luật của quốc gia, mà ở đó đương sự có nơi cư
trú ổn định (cư trú ổn định là nơi thường trú).11 Theo nguyên tắc này, quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của nước nơi
đương sự có nơi cư trú. Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự được áp dụng rộng
rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật Việt Nam quy định nguyên tắc này
được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau và được ghi nhận không chỉ trong
nguồn pháp luật quốc gia mà còn trong các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và các
9
Quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Tư pháp
Hà Nội, 2006, tr 106
10
Điều 7, Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
Pháp
11
Giáo trình Tư pháp quốc tế, trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr46
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
15
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nước. Theo Khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi 2010 nguyên tắc luật nơi cư trú
được áp dụng trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau: “Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận
người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật
nơi người đó thường trú... ”.
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự cũng như về vấn
đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, nguyên tắc nơi cư trú của đương sự cũng
thường được áp dụng. Như trong Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn
đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Liên Ban Nga đã quy định: “Các
vấn đề về công nhận việc nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của Bên ký
kết mà người nuôi là công dân vào thời điểm xin nhận con nuôi. Nếu người nuôi là
công dân của Bên ký kết này, nhưng thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, thì
áp dụng pháp luật của Bên ký kết nơi người ấy thường trú”.12
1.3.4.3. Nguyên tắc luật của nước có tòa án
Luật tòa án được hiểu là pháp luật của nước có tòa án thẩm quyền. Hiện nay
trong khoa học pháp lý nói chung và Việt Nam nói riêng thì Luật tòa án thường
được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng gồm có luật nội dung và luật tố tụng.
Theo nghĩa hẹp thường hay áp dụng trong lĩnh vực tố tụng khi xét xử các vụ
án có yếu tố nước ngoài đặc biệt là các vụ án trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài về nguyên tắc thì tòa chỉ áp dụng pháp luật của nước mình. Trong pháp
luật của hầu hết các nước trên thế giới điều ghi nhận các nguyên tắc này đây là
nguyên tắc áp dụng phổ biến nhất trong việc giải quyết các vấn đề tố tụng trong tư
pháp quốc tế.
Tuy vậy, cũng có những trường hợp ngoại lệ không áp dụng luật của tòa án
là: Khi các hiệp định quốc tế và luật trong nước có quy định rằng có thể áp dụng
hình thức tố tụng nước ngoài; Khi luật trong nước có quy định năng lực hành vi tố
tụng của những người trong các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài hoặc có thể được
xác định theo luật của tòa án hoặc có thể được xác định theo luật nhân thân.
Theo pháp luật Việt Nam, áp dụng nguyên tắc luật của tòa án khi giải quyết
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ là
Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương hoặc Ủy ban nhân dân cấp
xã, nếu ở khu vực bên giới, hoặc cơ quan đại diện ngoại giao cơ quan lãnh sự Việt
Nam, thực hiện các thẩm quyền về việc đăng ký giải quyết và pháp luật áp dụng là
12
Điều 30, Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt
Nam và Liên Ban Nga, năm 1999
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
16
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
pháp luật Việt Nam điều chỉnh các quan hệ liên quan vấn đề này. Đối với việc giải
quyết tranh chấp trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo nguyên tắc
này theo pháp luật Việt Nam thì tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa Án nhân
dân cấp tỉnh hoặc tòa án nhân dân cấp huyện khu vực biên giới nơi cư trú của
đương sự.
Nguyên tắc luật của nước nơi có Tòa Án là một trong những nguyên tắc quan
trọng được áp dụng nhiều trong các quan hệ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài trong đó đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài việc áp dụng
nguyên tắc này đòi hỏi phải chính xác và phải tuân thủ hoàn toàn theo các quy định
pháp luật của quốc gia. Nguyên tắc Luật của nước có tòa án còn được áp dụng để
điều chỉnh các vấn đề công nhận tại Việt Nam, các quyết định nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Việc công
nhận thực hiện theo pháp luật Việt Nam và được ghi nhận trong sổ quản lý hộ tịch
của pháp luật Việt Nam.
1.3.4.4. Nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi
Đây là nguyên tắc áp dụng khá phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong nguyên
tắc này thì hành vi được thực hiện ở nước nào thì sẽ chịu sự điều chỉnh theo pháp
luật của nước thực hiện hành vi đó. Nếu pháp luật của nước nơi thực hiện hành vi
không có quy định điều chỉnh hành vi đó thì sẽ áp dụng điều ước quốc tế. Nguyên
tắc này được áp dụng khi có các quan hệ phát sinh như: xác định quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ nuôi – con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Ví dụ, trong Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi gữa Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Italia: “Những hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
theo quy định của Hiệp định này được xác định theo pháp luật của Nước ký kết nơi
hoàn tất thủ tục nuôi con nuôi”.
Việc áp dụng nguyên tắc này đã mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật Việt
Nam vì xuất phát từ thực tế chủ yếu trẻ em ở Việt Nam làm con nuôi người nước
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết một cách
nhanh chóng và thuận tiện.
1.4. Sơ lƣợc quá trình hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt nam
1.4.1. Thời kỳ từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1959
Đây là thời kỳ mang tính chất khai phá trong các qui định về nuôi con nuôi.
Tuy còn nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ tổ quốc ở chặng đường phía trước
nhưng trên tin thần dân tộc và ý chí kiên cường bảo vệ Tồ quổc của quân và dân ta.
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
17
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Hiến pháp 1946 ra đời như một mốc son lịch sử của dân tộc với nhiều qui định về
bảo hộ quyền của công dân. Hiến pháp đã đặt cơ sở cho việc qui định bào hộ các
quyền của con người trong đó đặc biệt là vấn đề bảo vệ quyền lợi trẻ em và lĩnh vực
hôn nhân gia đình. Sự quan tâm đến quyền lợi của trẻ em bước đầu được chú trọng.
Vấn đề nuôi con nuôi bước đầu được ghi nhận trong Thông tư 30-NV/DC năm 1958
thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch đơn giản tại vùng dân tộc ít người do Bộ Nội vụ
ban hành. Thông tư 87-NV/DC năm 1958 ấn định thể thức và hướng dẫn thi hành
Nghị định 484-NĐ/LB về việc xét các đơn xin thay đổi họ tên do Bộ Nội Vụ ban
hành và Thông tư, Nghị định 764-TTg ngày 8/5/1956 ban hành bảng Điều lệ đăng
ký Hộ tịch và Thông tư 6/NV ngày 25/5/1956 về việc thi hành Điều lệ đăng ký Hộ
lịch mới. Các văn bản này đã cơ bản đưa ra những nguyên tắc, điều kiện các trường
hợp xác lập, chấm dứt quan hệ con nuôi cụ thể, nhưng việc nuôi con nuôi vẫn còn bị
giới hạn bởi phạm vi khi đối tượng được quy định nhận nuôi con nuôi chỉ là “ Công
dân Việt Nam thường trú trên lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, trong giai đoạn này
vấn đề nuôi con nuôi chỉ được thừa nhận cho người Việt Nam và trên phạm vi lãnh
thổ Việt Nam. Vấn đề “nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài” chưa được đề cập
trong các qui dịnh pháp luật. Tuy nhiên các qui định về vấn đề nuôi con nuôi cùng
tạo ra cơ sở pháp lý khá vững chắc cho vấn đề nhận con nuôi trong giai đoạn này.
Hơn nữa nó là cơ sở cho các qui định về vấn đề nuôi con nuôi trong tương lai đặc
biệt là vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.4.2. Thời kỳ từ Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp 1980
Đây là thời kỳ đất nước ta vẫn đang chung sức trong công cuộc đấu tranh,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn này đã khẳng định sự phát triển của
nền lập pháp nước ta trong đó các chế định về lĩnh vực hôn nhân gia đình ngày càng
được quan tâm. Cùng với sự ra đời cùa Hiến pháp 1959, Luật Hôn nhân gia đình
1959 ra đời càng khẳng định tính quan trọng trong việc điều chỉnh các vấn đề về
hôn nhân gia đình, “Nuôi con nuôi” là một chế định được thừa nhận tại Điều 24
Luật Hôn nhân và gia đình 1959. Tuy nhiên, luật chưa đề cập một cách cụ thể các
vấn đề về nguyên tắc và điều kiện cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên trong
việc nuôi nhận con nuôi mà các qui định này chủ yếu trong các Nghị định như:
Nghị định số 4/CP ngày 16/1/1961; Thông tư 05/NV ngày 21/1/1961 của Bộ Nội
Vụ hướng dẫn thi hành Điều lệ đăng ký Hộ tịch mới; Thông tư số 141/11 ngày
15/71977 hướng dẫn thực hiện công tác đăng ký hộ tịch ở các tỉnh Thành phố phía
Nam, Nghị định số 04/CP ban hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới và bãi bỏ Điều lệ
đăng ký Hộ tịch kèm theo Nghị định 764/ TTg ngày 8/5/1956. Các qui định này đã
cụ thể hoá các qui định và điều kiện nuôi con nuôi so với trước đây. Hướng tiếp cận
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
18
SVTH: Dương Nguyệt Thanh
Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
của chế định nuôi con nuôi chỉ mới có các qui định chính thức cho việc nuôi nhận
con nuôi trong nước giữa người Việt Nam với nhau. Các văn bản luật và văn bản
hướng dẫn chưa đề cập mội cách cụ thể về vần đề "nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài”.
1.4.3. Thời kỳ từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992
Đây là thời kỳ đánh dấu bước phát triển về chất trong công tác làm luật ở nước
ta. Hoàn cảnh đất nước giành được độc lập hoàn toàn cũng tác động nhiều đến việc
phát triển về lập pháp cũng như việc ban hành các chính sách pháp luật cũng ngày
càng thể hiện tính khách quan phù hợp với thực tiễn hơn. Vấn đề quyền được bảo
vệ và chăm sóc trẻ em cũng ngày càng được chú trọng. Điều này khẳng định Nhà
nước ta bắt đầu quan tâm đến quyền lợi của trẻ đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi
cũng được qui định một cách cụ thể. Hiến pháp 1980 ra đời cùng với đó là Luật
Hôn nhân gia đình 1986 cũng được ban hành. Hai văn bản quan trọng này đã đưa
đến nhừng bước tiến mới trong việc qui định chế định nuôi con nuôi ở nước ta trong
thời gian này. Những qui định về chế định nuôi con nuôi ngày càng mang tính cụ
thể, rõ ràng với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Luật Hôn nhân
và gia đình 1986 đã giành hẳn Chương IV để qui định về vấn đề nuôi con nuôi. Với
qui định này các vấn đề nuôi con nuôi được cụ thể hóa bởi các qui định về điều kiện
cũng như các qui định về thủ tục, quyền và nghĩa vụ các bên, vấn đề chấm dứt nuôi
con nuôi cũng được thề hiện rõ ràng. Các văn bản và Nghị định hướng dẫn vấn đề
này cũng được mở rộng với các vấn đề về thừa kế trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi,
cha mẹ đẻ trong Nghị quyết 02/1/ HĐTP ngày 19/10/1990, Nghị quyết số 01/
HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và một số
văn bản khác hướng dẫn thi hành vấn đề hôn nhân gia đình. Đặc biệt trong giai đoạn
này vấn đề “nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài” đã được luật điều chỉnh trong
quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoải. Sự ghi nhận này đã khẳng định
cho sự phát triển hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài vốn đã
trở nên cấp thiết. Điều này hoàn hoàn phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước
trong hoàn cảnh Đại hội lần IV Ban chấp hành Trung ương Đảng đã mở ra cánh cửa
đường lối đối ngoại ở nước ta. Quan hệ hợp tác quốc tể giữa Việt Nam với các nước
ngày càng sâu rộng. Lĩnh vực tư pháp quốc tế ra đời điều chỉnh các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài đã không còn xa lạ. Nhận thấy vấn đề nuôi con nuôi không
còn giới hạn bởi phạm vi trong nước mà tất yếu phải chịu sự điều chỉnh bởi các
quan hệ hợp tác quốc tế. Đảng và Nhà nước ta không ngừng chú trọng đến việc ban
hành các văn bản về điều chỉnh vấn đề này như Hiến pháp 1992, Bộ Luật Dân sự
1995, Luật Hôn nhân gia đình 1986, Luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em 1990 và Nghị
GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
19
SVTH: Dương Nguyệt Thanh