Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Tư tưởng đạo đức hồ chí minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở thành phố quy nhơn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.26 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN VIỆT QUANG

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN Ở THÀNH PHỐ QUY NHƠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Hồng Lưu

Đà Nẵng, năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Trần Việt Quang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
KTTT


XHCN
CNXH
UBKT
CNH, HĐH
ANQP

Ý nghĩa
Kinh tế thị trường
Xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội
Ủy ban kiểm tra
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
An ninh quốc phòng


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...............................................................3
MỤC LỤC........................................................................................................4
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn..............................................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................................................................6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài...................................................................................................7
7. Kết cấu của luận văn..................................................................................................................................7

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH............8
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH.....................................................................8
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH...............................................13

1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân.................................................................................................... 13
1.2.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình..........................................................................14
1.2.3 . Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.................................................................................... 17
1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng................................................................................................... 18
1.3. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................20
1.3.1. Khái niệm cán bộ và đảng viên................................................................................................. 20
1.3.2. Vai trò của đạo đức người cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay...........................................22
1.4. YÊU CẦU VỀ ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..........................23
1.4.1. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến sự biến đổi đạo đức người cán bộ, đảng viên........23
1.4.2. Yêu cầu về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.................................................29

CHƯƠNG 2....................................................................................................39
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,............................39
ĐẢNG VIÊN Ở THÀNH PHỐ QUY NHƠN HIỆN NAY..........................39
2.1. VÀI NÉT VỀ THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH........................................................................39
2.2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở QUY NHƠN HIỆN NAY.......................................40
2.2.1. Thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên ở Quy Nhơn hiện nay...................................................40
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên ở Quy Nhơn hiện nay........................57

CHƯƠNG 3....................................................................................................69
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN Ở THÀNH PHỐ QUY NHƠN HIỆN NAY..........................69


3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH GIẢI PHÁP............................................................................................................69
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THÀNH PHỐ
QUY NHƠN HIỆN NAY..................................................................................................................................78
3.2.1. Phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên.............................................................................................................. 78
3.2.2. Nâng cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong công tác, trong đạo

đức, lối sống ở Quy Nhơn.................................................................................................................. 84
3.2.3. Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cách mạng, tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho
cán bộ, đảng viên ở Quy Nhơn........................................................................................................... 87
3.2.4. Nâng cao tính tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Quy Nhơn hiện nay
.......................................................................................................................................................... 94
3.2.5. Nâng cao hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng, đẩy mạnh đấu tranh
chống tham nhũng............................................................................................................................ 96

KẾT LUẬN..................................................................................................103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức cách mạng là sự tích hợp nhiều giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc và đạo đức nhân loại. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
đạo đức đã sớm xuất hiện trong lịch sử loài người và khẳng định vai trò to lớn
trong việc đảm bảo sự ổn định, phát triển của mỗi chế độ xã hội. Chính vì vậy,
việc xây dựng đạo đức của con người nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng là
vấn đề mà mọi chế độ xã hội từ trước tới nay đều quan tâm.
Ở mỗi thời kỳ cách mạng, đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhân
tố có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước ta. Đạo đức - từ lâu đã trở thành nền tảng tinh thần của xã hội
ta, một di sản văn hóa vô cùng quý báu, đã và đang là động lực tinh thần to
lớn cho toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển theo mục
tiêu của Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả

đức lẫn tài, trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?" [56, tr.253].
Thực tế cho thấy, sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và
trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ. Đa số


2

cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động,
sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt
trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, Đảng ta cũng đang đối mặt với những
suy thoái về đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Đáng chú ý là sự suy thoái này ngày một gia tăng. Điều đó Đảng ta đã
khẳng định qua các kỳ Đại hội: Tại Đại hội Đảng lần thứ VI nhận định: "Tình
trạng vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước nghiêm trọng kéo dài chưa
giảm"[15, tr.9]. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra: "Số đảng viên vi phạm
kỷ luật trong số được kiểm tra tăng lên nhiều hơn"[16, tr.10]. Đại hội Đảng
lần thứ VIII cũng khẳng định: "Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng
viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức"[17, tr.27].
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Tình trạng tham
nhũng, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng"[21, tr.76]. Đại hội X của Đảng, một lần
nữa nhấn mạnh: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ

chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương
mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ” [24, tr.65].
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp… làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”
[25, tr.173].
Còn tại Đại hội IX, khi đánh giá về những khuyết điểm, yếu kém trong
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã chỉ rõ: "Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra


3

nghiêm trọng"(5). Thậm chí, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán
bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong,
gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết chỉ rõ: “Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức
rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ
nhân dân, được nhân dân tin tưởng”. Bên cạnh kết quả đạt được, “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
[26, tr.22]

Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ, trong
đó, đạo đức cán bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cũng
không nằm ngoài tình trạng chung đó. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi
chọn đề tài: “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản
và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những
phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới;
yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
Vấn đề đạo đức nói chung và xây dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên nói riêng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa


4

học và có nhiều cá nhân và tập thể tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía
cạnh khác nhau, với những cách tiếp cận khác nhau như: "Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976; "Chủ tịch Hồ Chí Minh với
vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986; Nguyễn
Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức
trong việc đổi mới tư duy", "Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân
tộc, nhân loại", Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993;
"Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cán bộ", Đức Vượng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995; "Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, Thang Văn Phúc (chủ
biên); "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường", Viện Thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Trần Thành: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức", Nxb Chính trị quốc gia, 1996; Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai

mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 2/1997; Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá
trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho
cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;
Nguyễn Ngọc Long (chủ biên): "Giáo trình đạo đức học", Nxb Chính trị quốc
gia, 2000; Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế trị trường Việt Nam hiện nay",
Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2000; Nguyễn Thế Thắng: "Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh", Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Trần Hồng Lưu “Nâng cao trình độ
nhận thức lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên”, In trong sách Công tác lý
luận thời kỳ đổi mới- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 04. NXB Chính trị
quốc gia, 2010; Trần Hồng Lưu “Hồ Chí Minh kế thừa và cải tạo đạo đức
Nho giáo xây dựng và phát triển nền đạo đức mới toàn diện” tại Hội thảo


5

Quốc tế: Nho giáo Việt Nam truyền thống và đổi mới - Viện Triết học Việt
Nam và Viện KTXH Đài Loan tổ chức tại Huế ngày 5-6/9/2011.Trần Văn
Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay",
Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện
đạo đức cán bộ đảng viên", Phạm Quốc Thành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004.
Một số luận văn tiến sĩ và thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng đạo
đức cho cán bộ, đảng viên của các tác giả như: "Vấn đề đạo đức cách mạng
của người cán bộ hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện
nay", Hà Nguyên Cát - Luận án tiến sĩ triết học, 2000; Đặng Thanh Giang:
"Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay" (qua thực tế ở tỉnh Thái Bình), Luận văn Thạc sĩ

triết học, Hà Nội, 2001; "Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ quản lý
lãnh đạo hiện nay", Phạm Huy Kỳ, Luận án tiến sĩ triết học, 2001; Dương
Xuân Lộc: "Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho
cán bộ, đảng viên hiện nay" (qua thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh), Luận
văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2001; Trương Thế Thắng: "Vấn đề xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh
Hà Giang hiện nay", Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vấn đề xây
dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh Đăk Lăk
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Nguyễn Tuyên Quang, Luận văn
thạc sĩ triết học, 2003...
Những công trình trên chính là nguồn tư liệu quý giá; là cơ sở giúp tác
giả luận văn đi sâu vào nghiên cứu đề tài đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích


6

Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và từ thực trạng
đạo đức cán bộ, đảng viên ở Quy Nhơn, luận văn đề ra những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Trình bày thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn.
- Đề xuất cơ sở và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cho cán
bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Đạo đức cán bộ, đảng viên ở thành phố Quy Nhơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng
viên thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác - Lênin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời luận văn kế thừa các thành tựu của một số công trình khoa học đã được
công bố có liên quan đến nội dung mà đề tài luận văn đề cập.


7

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích
và tổng hợp; thống kê, phương pháp điều tra xã hội học... đã được sử dụng để
thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức. Đánh giá khách quan về thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên thành
phố Quy Nhơn. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cho cán bộ,
đảng viên thành phố Quy Nhơn.
- Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực trong việc rèn luyện phương
pháp nghiên cứu khoa học và vận dụng vào công tác thực tiễn, góp phần nâng
cao đạo đức cho tác giả và những người quan tâm. Sau khi hoàn thành đề tài
có thể được dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng

Hồ Chí Minh trong các lớp tập huấn nâng cao nhận thức cho các cán bộ, đảng
viên các cấp, trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


8

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình
đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần
yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ
về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và
quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu nước, cứu dân.
Ngày 05/6/1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc
vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu
tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Năm 1917, thắng lợi vang dội của
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng
dân tộc và giải phóng xã hội.
Ngày 03/02/1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản họp
tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo.
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự

nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong
những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.
Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người về nước, triệu tập
Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng
minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn


9

cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 02/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng MácxítLêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng
lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm
gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân,
của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà

nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...


10

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” [21, tr.83].
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi, nhưng Người đã để lại cho
dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng
về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về
đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức.
Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người
yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người
đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo
đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng
(3/2/1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác
cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo
đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và
phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và
phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng

đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản
và toàn diện về đạo đức, bao gồm vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức, những
phẩm chất cơ bản của đạo đức, yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách
mạng.


11

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc
“tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo
đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc.
Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [57, tr.283].
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
[55, tr.252-253]
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Người viết: “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn
giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt

hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa” [53, tr.466].
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng


12

lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hay kém” [55, tr.269]. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức
mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây

dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người
thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người
nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên
mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả
ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ,


13

đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc
bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư” [59, tr.510].
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ
CHÍ MINH
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác. Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và
phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều
kiện mới. Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức
truyền thống của xã hội phong kiến, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung
mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Trung với nước,
hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất
nước.

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [58, tr.350]. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức
cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Từ nội dung và ý nghĩa của vấn đề đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “trung với
nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất, đó chính
là tiêu chuẩn số một của người cách mạng, là tiêu chí để phân biệt những kẻ


14

cơ hội, những kẻ giả danh cách mạng chỉ tìm mọi cách thu vén lợi ích cá
nhân, “trung với nước, hiếu với dân” thể hiện phẩm chất đạo đức hàng đầu
của người cách mạng, là giá trị văn hóa cao đẹp nhất, điển hình của người cán
bộ, đảng viên và còn là mối quan hệ rộng lớn của mỗi con người với Tổ quốc,
với dân tộc, với toàn thể nhân dân. Như vậy, trung với nước, trung với Đảng
là yêu cầu hàng đầu trong phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ,
đảng viên, là biểu hiện cao nhất thể hiện sự trung thành tuyệt đối với mục tiêu
lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc, trung thành với chế độ xã hội chủ
nghĩa, trung thành với lợi ích của nhân dân.
Người đã dạy: Mỗi người có ba trách nhiệm trước Đảng, trước dân, trước
công việc. Trong đó, trước hết cần có ý thức trách nhiệm cao trước công việc,
trước nhân dân làm cho thật tốt rồi đem kết quả đó báo cáo với Đảng, với cấp
trên. Theo Người, xây dựng Tổ quốc là một cuộc chiến đấu khổng lồ cần phải
dựa vào sức mạnh của nhân dân, sự nghiệp xây dựng Tổ quốc muốn thành
công thì nhân tố hàng đầu là phải phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tập
thể, đẩy mạnh tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng thực dụng, cục bộ địa phương. Đó là tinh thần trách nhiệm, ý

thức chính trị của chúng ta trước yêu cầu mới của cách mạng. Đồng thời, phải
đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, công
chức có phẩm chất đạo đức cách mạng, trong giai đoạn cách mạng mới, làm
cho Đảng trong sạch vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh vĩ đại là lãnh đạo nhân
dân, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đây
là mục đích cao cả, lợi ích thiêng liêng của Đảng và của nhân dân ta.
1.2.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của
nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con


15

người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những
người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành" [54, tr.161].
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt
họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt
một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong
tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết

làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có
thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp
họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy
lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người.
Yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại đa số
nhân dân, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Phải làm mọi việc để


16

phát huy sức mạnh của mỗi người; đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục
tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Yêu thương con người thì phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người
lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp
hơn. Phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con
người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người. Đối với
người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác – Lênin
để thương yêu nhau hơn. Người viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải
sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”[59, tr.554].
Hồ Chí Minh – Bác Hồ kính yêu của chúng ta, Người đã cống hiến cả
đời mình cho non sông, đất nước, cho dân tộc; đem lại độc lập, tự do, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Cả cuộc đời mình Bác chỉ có một ham muốn duy

nhất, lớn nhất: đó là làm sao cho đất nước được độc lập tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Qua những câu chuyện kể về
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đều khắc họa đậm nét tình thương yêu bao
la của Bác đối với con người - một tấm lòng vị tha, bao dung…
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về yêu thương con người, sống
có nghĩa có tình, mỗi cán bộ, đảng viên cần đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Bác.
Trong mối quan hệ giữa người với người phải khoan dung, độ lượng,
chân thành, tránh ác cảm, thù hằn, cá nhân. Phải có tình yêu nhân dân, tôn
trọng nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, bảo vệ những quyền lợi chính
đáng của nhân dân; không được coi mình là quan cách mạng để nhũng nhiễu,


17

gây khó dễ cho nhân dân. Phải luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu để cùng cảm
thông, cùng chia sẻ nhất là khi nhân dân gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn.
Đối với đồng sự phải có lòng yêu thương, trương trợ, giúp đỡ nhau để
cùng tiến bộ và ngày càng tốt đẹp hơn. Luôn thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tự phê bình và phê bình, trên tinh thần thẳng thắn và chân thật, không “lựa gió
bẻ măng”, “vơ đũa cả nắm”, nâng cao quan điểm để “đánh một đòn cho tới
chết”.
Khi nhận xét, đánh giá một con người phải có tính bao quát, tránh nhìn
nhận, đánh giá một cách phiến diện, chỉ nói đến khuyết điểm mà không thấy
ưu điểm của con người. Đối với những hành vi sai trái phải nghiêm khắc phê
bình, xử lý nhưng cũng tạo cơ hội để đồng chí mình sửa chữa, khắc phục và
vươn lên. Trong đấu tranh phê bình phải cụ thể, rõ ràng, không nói chung
chung kiểu ai hiểu thế nào cũng được.
1.2.3 . Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là

phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ
Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ
thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”.


18

Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong
công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”,
“không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”;
“không tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối
trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì
để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ
mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí

công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá
nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý",
không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công,
vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí
công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được
cần, kiệm, liêm, chính.
1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại,


19

vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế
giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản
quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện
của chủ ngĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...

Tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng
mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày
công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng
sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt
Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến
bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và
hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng.


20

1.3. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.3.1. Khái niệm cán bộ và đảng viên
Cán bộ - theo Từ điển tiếng Việt - có hai nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, là khái niệm chỉ "người làm công tác có nghiệp vụ chuyên
môn trong nhà nước" [77, tr.121] như: cán bộ nhà nước; cán bộ khoa học; cán
bộ chính trị...
Thứ hai, là khái niệm chỉ "người làm công tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ" [77,
tr.121].
Trong khuôn khổ đề cập của luận văn này chúng ta hiểu cán bộ theo cả
hai nghĩa như trên.
Đảng viên - theo Từ điển tiếng Việt - có hai nghĩa sau:
Thứ nhất, "người ở trong tổ chức của một chính đảng" [77, tr.291].

Thứ hai, "đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (nói tắt)" [77, tr.291].
Trong khuôn khổ của luận văn này chúng ta hiểu đảng viên theo nghĩa
thứ hai.
Hiện nay ở nước ta, khái niệm cán bộ thường kèm theo từ công chức
hoặc viên chức, được dùng để chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà
nước, thuộc diện biên chế nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, người
cán bộ thường là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên có thêm cụm từ
ghép cán bộ, đảng viên. Như vậy, ở một góc độ nhất định, khái niệm cán bộ
công chức và cán bộ, đảng viên có nghĩa gần giống nhau. Vừa là cán bộ công
chức vừa là đảng viên cộng sản.
* Một số đặc điểm hoạt động của người cán bộ, đảng viên:
Khi đi sâu vào xem xét, phân tích cho thấy, hoạt động của cán bộ, đảng
viên có những đặc điểm sau:


×