Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Môi trường đầu tư và tăng trưởng Những bước tiến và thách thức đối với các nền kinh tế châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.2 KB, 16 trang )

Môi trường đầu tư và tăng trưởng : Những bước tiến và thách thức đối với
các nền kinh tế châu Á
Trong hai thập kỷ qua, nhiều nước châu Á đã và đang duy trì được mức tăng trưởng thực tế
cao trên 6%. Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), trong năm 2004, ngoại
trừ các nước đang phát triển khu vực Thái Bình Dương, gần như tất cả các nước châu Á đều
đạt mức tăng trưởng trên 5%. Do đó, một trong những thách thức lớn đối với chính phủ các
nước châu Á và các đối tác quốc tế trong thập niên tới là bảo đảm cho các nền kinh tế đang
tăng trưởng tốt vẫn giữ được đà tăng trưởng; đồng thời đẩy mạnh tăng trưởng ở những quốc
gia và khu vực tăng trưởng chậm hơn.
Xu hướng tăng trưởng cao ở các nước châu Á nêu trên một phần là nhờ vốn đầu tư của các
công ty trong nước và quốc tế đổ vào khu vực này. Để đảm bảo đà tăng trưởng của những
nước đang tăng trưởng tốt cũng như thúc đẩy các khu vực hiện đang tăng trưởng chậm, việc
cần làm là tiếp tục cải thiện các điều kiện giúp các công ty có thể đầu tư sinh lời, hay nói cách
khác là củng cố môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư là một tổng thể, gồm các yếu tố vật chất, luật pháp, kinh tế và chính trị
giúp một quốc gia trở thành điểm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và là địa điểm mà các doanh
nghiệp trong nước dù có quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau,
đều mong muốn được đầu tư. Tóm lại, các thành phần của môi trường đầu tư có thể được chia
thành hai nhóm nhân tố chính: Nhóm nhân tố về quản lý và nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng.
Nhóm nhân tố về quản lý bao gồm các đặc điểm của môi trường đầu tư như mức độ tham
nhũng, hệ thống pháp luật minh bạch, chính sách khuyến khích cạnh tranh, vv… Cơ sở
hạ tầng gồm có cơ sở hạ tầng phần cứng (các hệ thống thủy lợi, cảng, đường bộ, cầu cống, sân
bay) và cơ sở hạ tầng phần mềm (hệ thống điện thoại, các công nghệ khác, vv…).
Thực tế phát triển kinh tế của một số nước châu Á hoàn toàn khác với những lý thuyết về
mối quan hệ giữa môi trường đầu tư và tăng trưởng vẫn được công nhận từ trước đến nay. Ví
dụ, các tài liệu về môi trường đầu tư thường nhấn mạnh đến vai trò của công tác điều hành,
trong khi trên thực tế, các nước châu Á vẫn đạt tốc độ tăng trưởng và mức đầu tư cao trong
hai thập niên qua mặc dù mức độ tham nhũng và các quy định ở các nước này không giống
như những “điều kiện tốt nhất” được định nghĩa trong tài liệu. Do vậy, thực tế của các khu
vực châu Á đã chứng minh các nền kinh tế có thể tăng trưởng ngay cả khi không tiến hành cải
cách toàn diện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, cải cách môi trường đầu tư sẽ giúp tăng trưởng


đạt được tốc độ bền vững hơn; ngược lại, môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể sẽ có tác
động tích cực đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.


Bảng 1. Tổng mức đầu tư cố định ở một số nước châu Á được nghiên cứu
(% GDP), 2001 - 2005
Mức trung

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Trung Quốc

38,4

38,8

42,1

43,8


43,6

41,3

41,3

Ấn Độ

21,9

22,2

22,7

23,7

24,8

23,1

23,1

Inđônêxia

19,3

19,0

18,9


21,0

21,4

19,9

19,9

Malaixia

24,9

23,1

22,1

20,5

20,5

22,2

22,2

Pakixtan

15,9

15,5


15,3

15,6

15,3

15,5

15,5

Philippin

18,0

17,6

16,7

16,5

16,1

17,0

17,0

Xri Lanka

22,3


21,1

21,9

24,9

27,1

23,4

23,4

Thái Lan

23,0

22,8

24,0

25,9

29,5

25,0

25,0

Việt Nam


29,1

31,1

33,3

33,3

37,6

32,9

32,9

bình

Nguồn: Cơ quan tình báo kinh tế (EIU).
Để hiểu được mối quan hệ giữa cải cách môi trường đầu tư và tăng trưởng kinh tế, trước
tiên cần hiểu rõ khái niệm và những thành phần của môi trường đầu tư.
1. Khái niệm về môi trường đầu tư – Mối quan hệ giữa môi trường đầu tư và tăng
trưởng
1.1. Định nghĩa môi trường đầu tư
Để đánh giá được tác động của việc cải thiện môi trường đầu tư đối với tăng trưởng và xóa
đói giảm nghèo, trước tiên cần hiểu khái niệm về môi trường đầu tư. Theo Báo cáo phát triển
của Ngân hàng Thế giới năm 2005 (WDR) với tiêu đề “Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi
người”: "Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố cụ thể hình thành nên các cơ hội và động
cơ để các công ty có thể đầu tư một cách có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng hoạt động của
mình"
Theo định nghĩa này, hành vi của Chính phủ là rất quan trọng vì thông qua cách lựa chọn
chính sách của Chính phủ sẽ xác định được tình hình môi trường đầu tư. Như vậy, khái niệm

về môi trường đầu tư liên quan chặt chẽ đến những nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của
công tác điều hành, các thể chế có chất lượng cao và cơ sở hạ tầng xã hội trong việc tạo ra
tăng trưởng. Nhìn chung, tiền đề của tăng trưởng được khái quát từ khái niệm về một môi
trường đầu tư lành mạnh trong đó bao gồm các yếu tố: Sự ổn định về kinh tế và chính trị, luật
pháp; cơ sở hạ tầng thích hợp, thuế và các quy định tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh,
chính sách lao động và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính. Các yếu tố này được chia thành
2 nhóm: Nhóm các yếu tố điều hành và nhóm các yếu tố cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố điều hành
4


Sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô là yếu tố quan trọng nhất của môi trường đầu tư.
Theo Khảo sát Môi trường Đầu tư (ICS) của Ngân hàng Thế giới (WB), mức độ không chắc
chắn của các chính sách và những bất ổn trong môi trường kinh tế vĩ mô chiếm hơn 50%
những lo ngại của các doanh nghiệp về môi trường đầu tư.


Sức mạnh của hệ thống luật pháp là yếu tố khẳng định sự ổn định về mặt chính trị và bảo
đảm quyền sở hữu tài sản bằng cách cung cấp cho các nhà đầu tư cơ sở để giải quyết các tranh
chấp.


Nạn tham nhũng trên lý thuyết sẽ kìm hãm tăng trưởng và giảm động lực thúc đẩy các
công ty tham gia vào khu vực kinh tế chính thức. Tuy nhiên, ở một số nền kinh tế châu Á, tình
hình không như vậy. Ở các nền kinh tế này, các hệ thống tổ chức kinh tế chính trị được các
quan sát viên nước ngoài phân loại là “tham nhũng” hoặc “bè phái” lại có tác động tích cực
đối với tốc độ tăng trưởng và các biện pháp khuyến khích đầu tư.


Các quy định rất đa dạng, từ các quy định tạo điều kiện thuận lợi để các công ty có thể

bắt đầu hoặc chấm dứt kinh doanh, cho tới các quy định về thuế và hải quan. Việc giảm bớt
các quy định không đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư lành
mạnh; thay vào đó môi trường đầu tư lành mạnh thường có các quy định phù hợp có thể được
thực hiện mà không làm giảm động lực đầu tư hoặc làm tăng chi phí một cách bất hợp lý.
Thuế là một trong những vấn đề về quy định mà các doanh nghiệp thường gặp phải. Việc cải
cách cơ cấu thuế và cải cách hành chính giúp giảm thiểu các chi phí bắt buộc và do đó khuyến
khích đầu tư. Chính vì vậy, mục đích cải cách thuế không chỉ đơn giản là giảm gánh nặng
thuế mà còn nhằm thiết kế một hệ thống thuế phù hợp cho tất cả các loại hình kinh doanh và
ngành nghề. Mức độ cạnh tranh cũng là yếu tố quyết định chất lượng của môi trường đầu tư.
Quy định bất hợp lý, chặt chẽ và sự thiếu tính cạnh tranh trong hoạt động của cả doanh nghiệp
và Chính phủ không cao có thể làm giảm động lực đầu tư. Các chính sách về lao động phần
nào cũng chịu ảnh hưởng của các quy định – ví dụ như thời gian cần thiết để thuê và sa thải
một công nhân, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố mang tính xã hội – ví dụ
như kỹ năng và sự đa dạng của lực lượng lao động.


Các yếu tố về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố cơ bản và quan trọng của môi trường đầu tư và có thể
được phân chia thành cơ sở hạ tầng “phần cứng” như chất lượng đường bộ, hệ thống tưới tiêu,
cảng, các sân bay và cơ sở hạ tầng “phần mềm” như chất lượng của việc cung cấp điện, nước
và điện thoại. Cả hai loại cơ sở hạ tầng này đều quan trọng đối với sản xuất và thương mại
bên trong và bên ngoài một quốc gia, và cơ sở hạ tầng thường được đánh giá là một trong
những rào cản lớn nhất đối với đầu tư (đặc biệt là ở các nước Đông Nam Á). Công nghệ cũng
là một thành phần thiết yếu để tăng cường chức năng của cơ sở hạ tầng phần mềm – ví dụ,
việc sử dụng rộng rãi điện thoại di động để thay thế cho việc lắp đặt cáp điện thoại cố định
vốn tốn kém hơn nhiều - đã giúp khu vực nông thôn có thêm điều kiện cần thiết để tiếp cận
thông tin.


Các hệ thống tài chính cũng rất quan trọng đối với đầu tư. Hệ thống tài chính có thể

khuyến khích đầu tư bằng cách huy động nguồn vốn tiết kiệm cũng như giúp các nhà đầu tư
kiểm soát rủi ro. Hệ thống tài chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xoá đói giảm
nghèo. Hệ thống tài chính có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng, từ đó tác động gián tiếp tới việc


5


xoá đói giảm nghèo. Hệ thống tài chính cũng có thể tác động trực tiếp hơn tới xoá đói giảm
nghèo thông qua việc cho phép người nghèo có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài
chính. Việc tiếp cận các tài khoản tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và kiều hối cũng giúp các hộ
gia đình kiểm soát tốt hơn những biến động về thu nhập, và cho phép người nghèo đầu tư vào
các dịch vụ thiết yếu như y tế và giáo dục.
1.2. Mối quan hệ thực tế giữa môi trường đầu tư và tăng trưởng
Giữa môi trường đầu tư thuận lợi và tăng trưởng kinh tế có một mối quan hệ rõ ràng và
tích cực. Phần lớn các nghiên cứu (trong đó có cả những nghiên cứu của WB) cho thấy chất
lượng của môi trường đầu tư đóng góp vào tăng trưởng thông qua vai trò quyết định của nó
đối với Tổng năng suất yếu tố (TFP). TFP được định nghĩa là phần dư ra của tăng trưởng mà
không phải do những thay đổi về vốn và lao động, và là một khái niệm rất khó đo lường chính
xác. Nghiên cứu gần đây cho thấy các thể chế của một nước (ví dụ như sự đảm bảo về quyền
sở hữu hoặc các quy định của pháp luật) có tác động tới TFP, mà các quy định này lại liên
quan đến môi trường đầu tư. Do vậy môi trường đầu tư có tác động tới tăng trưởng. Một kênh
ảnh hưởng khác của môi trường đầu tư tới tăng trưởng là thông qua tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI): Môi trường đầu tư thuận lợi sẽ khiến lượng vốn FDI tăng lên, và khi
FDI tăng sẽ có tác động thúc đẩy tăng trưởng. Cuối cùng, có một mối liên hệ giữa các thị
trường nông nghiệp, tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo: Năng suất nông nghiệp được cải
thiện sẽ giúp ổn định và giảm giá lương thực, và điều quan trọng nhất là nó tác động rất lớn
tới tăng trưởng của các khu vực phi nông nghiệp.
Chứng minh về mối liên hệ giữa tăng trưởng và môi trường đầu tư ở châu Á, một nghiên
cứu gần đây của Viện Toàn cầu Mc Kinsey ước tính tăng trưởng GDP của Ấn Độ có thể được

tăng hơn 4% mỗi năm nếu nước này tiến hành cải cách môi trường đầu tư. Cụ thể, nghiên cứu
chỉ ra rằng mức tăng trưởng 5,5% hiện nay có thể sẽ tăng lên mức tiềm năng là 10,1% nhờ
những nhân tố sau: Cải cách các quy định trong từng lĩnh vực cụ thể (đóng góp 1,6%), giải
quyết các vấn đề liên quan tới thị trường đất đai (1,0%), giảm tình trạng thực thi luật pháp
không công bằng và những “rào cản không chính thức” (1,0%), giảm bớt quyền sở hữu của
Chính phủ (0,7%) và các biện pháp khác (bao gồm cải cách thị trường lao động, khu vực giáo
dục và cơ sở hạ tầng) (0,3%).
1.3. Lựa chọn chính sách đầu tư: Tập trung hay phân cấp
Câu hỏi đặt ra liên quan trực tiếp tới những vấn đề trên là liệu Chính phủ nên thực hiện
một chính sách đầu tư thống nhất (chính sách tập trung) trong cả nước hay xây dựng hàng loạt
những chính sách đơn lẻ (chính sách phân cấp). Theo phân tích của WB, môi trường đầu tư là
một “chỉnh thể” trong đó các yếu tố về điều hành và cơ sở hạ tầng được coi là các bộ phận
trong toàn bộ chỉnh thể đó, vì vậy việc áp dụng từng chiến lược cho từng bộ phận có vẻ sẽ có
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong cùng một quốc gia, việc áp dụng những chiến lược đơn lẻ có
thể sẽ tạo nên sự cạnh tranh không tích cực giữa các thành phố và các miền trong việc thu hút
đầu tư thông qua chính sách thuế và những biện pháp tài khoá khác. Bên cạnh đó, việc xây
dựng một chính sách đầu tư không thống nhất trong cả nước sẽ làm tăng nguy cơ có một bộ
phận được hưởng nhiều lợi ích hơn, và trong tương lai họ sẽ là những người phản đối tiến
hành cải cách môi trường đầu tư.
2. Môi trường đầu tư châu Á - Một số ví dụ về cải thiện môi trường đầu tư ở một số
nước
6


Một môi trường đầu tư lành mạnh sẽ giúp các công ty, cả các công ty lớn trong nước và các
công ty đa quốc gia cũng như các công ty nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (bao gồm cả
người lao động ở nông thôn như nông dân) có được các quyết định kinh doanh đúng đắn và có
cơ hội tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt thường khác
nhau. Dưới đây là một số thách thức mà các doanh nghiệp trong các ngành phải đối mặt và
một số bài học kinh nghiệm của các nước châu Á trong việc cải thiện môi trường đầu tư.

2.1. Môi trường đầu tư châu Á trong ngành nông nghiệp và nông thôn
Năng suất nông nghiệp tăng sẽ giúp xoá đói giảm nghèo bằng cách giảm giá cả thực phẩm,
tăng thu nhập cho người nông dân và tạo thêm nhiều cơ hội việc làm. Ở những vùng có trình
độ phát triển thấp, có thể thấy rõ rằng các ngành kinh tế khác chưa đủ khả năng thay thế được
ngành nông nghiệp trong vai trò là động lực tăng trưởng chính. Trong tình trạng phát triển
thấp, những lĩnh vực khác của nền kinh tế khu vực ít có khả năng thay thế được nông nghiệp
trong vai trò là ngành tăng trưởng quan trọng nhất. Thực tế tại các nước châu Á cho thấy
những thay đổi to lớn về kỹ thuật và năng suất lao động trong ngành nông nghiệp đã đóng góp
đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, xây dựng một môi trường đầu tư khuyến khích
ngành nông nghiệp và lực lượng lao động nông thôn là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và giảm nghèo ở các nước đang phát triển.
Môi trường đầu tư có thể ảnh hưởng tới năng suất nông nghiệp thông qua các yếu tố:
Một mạng lưới hạ tầng cơ sở và thông tin liên lạc ở mức vừa đủ, các chi phí giao dịch
được giảm thiểu tối đa, các chính sách nhất quán và hỗ trợ lẫn nhau; khả năng tiếp cận tài
chính, đặc biệt là đối với tín dụng ngắn hạn theo mùa vụ; và khả năng tiếp cận với đất đai,
việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Những kỹ năng và khả năng tiếp cận với thông tin và
công nghệ, cũng rất quan trọng, đặc biệt là tại những vùng còn lạc hậu và có ít cơ hội để
nâng cao năng suất. Tuy nhiên, nói chung, những cuộc điều tra về môi trường đầu tư có
thể không nắm bắt chính xác và đầy đủ những thách thức mà người nông dân hay người
lao động ở vùng nông thôn phải đối mặt – chính vì vậy cần phải có những nghiên cứu sâu
sắc hơn về mối quan hệ giữa môi trường đầu tư và tăng trưởng trong nông nghiệp. Một
thách thức quan trọng nữa mà người nông dân phải đối mặt là những rủi ro do những diễn
biến về thời tiết, giá cả, sâu bệnh. Trong khi đó tại nhiều nước châu Á, các thị trường ( ví
dụ như thị trường bảo hiểm) lại phát triển quá yếu nên không thể giúp người dân đối phó
với những rủi ro này. Khi người dân càng nhận thức rõ những rủi ro, mong muốn đầu tư
của họ càng giảm đi. Vì vậy, cần phải có những chính sách nhằm khuyến khích thị trường
bảo hiểm và những thị trường liên quan khác phát triển, đồng thời cung cấp cơ sở hạ tầng
nhằm giảm rủi ro (như hệ thống thuỷ lợi).
Sản lượng nông nghiệp tại châu Á đã tăng trưởng ấn tượng kể từ sau cuộc Cách Mạng
Xanh trong thập kỷ 60. Trong giai đoạn 1961 - 2001, sản lượng ngũ cốc hàng năm của châu

Á đã tăng từ 309 tấn lên đến 962 triệu tấn chủ yếu nhờ vào cải thiện năng suất của đất trồng:
Năng suất tăng lên từ trung bình 1,2 tấn/ha tới 3,3 tấn/ha trong khi quỹ đất nông nghiệp chỉ
tăng 40%. Bảo hộ quyền sở hữu tài sản và những hỗ trợ của Chính phủ là hai yếu tố quan
trọng nhất tạo ra những thành tựu này. Ví dụ, ngay khi mới bắt đầu cuộc Cách mạng Xanh,
Ấn Độ đã tiến hành đầu tư vào đường sá, giáo dục, hệ thống tưới tiêu và việc nghiên cứu nông
nghiệp nhằm giúp kinh tế tăng trưởng. Tương tự như vậy, vào đầu những năm 80, Thái
Lan bắt đầu một dự án kéo dài trong 20 năm về cấp đất nông nghiệp cho người nông dân,
7


cho phép người nông dân có nhiều hội tiếp cận tín dụng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản cho
người nông dân để thúc đẩy đầu tư trong dài hạn. Số liệu của WB cho thấy dự án đã thành
công cả về số người đăng ký sở hữu đất (tăng từ 4,5 triệu người lên đến 18 triệu người) và cả
về năng suất trên đất được đăng ký.
Tuy nhiên, những thách thức lớn trong việc cải thiện môi trường đầu tư đối với những nhà
sản xuất nông nghiệp châu Á vẫn còn tồn tại. Ở nhiều khu vực của châu Á, năng suất nông
nghiệp vẫn còn thấp khiến người dân vẫn còn phải sống trong nghèo khổ và trong một nền
kinh tế tăng trưởng thấp. Trong những khu vực đó, rõ ràng là nông nghiệp là ngành duy nhất
có thể tác động đến việc làm, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng của khu vực phi nông nghiệp
và giảm đói nghèo. Cải thiện môi trường đầu tư cho người nông dân là việc làm hết sức quan
trọng bởi lẽ nếu môi trường đầu tư trong sản xuất nông nghiệp và nông thôn ở khu vực châu
Á không được cải thiện sẽ dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và giữa những tiểu
vùng sẽ gia tăng; nông nghiệp tăng trưởng chậm lại, hậu quả là làm giảm tốc độ tăng trưởng
của cả nền kinh tế và chậm tốc độ xoá đói giảm nghèo; việc quản lý các nguồn tài nguyên
không có hiệu quả, ảnh hưởng xấu đến năng suất và tăng trưởng trong tương lai; những tranh
chấp liên quan tới tài nguyên gia tăng; và/hoặc giá cả thực phẩm tăng mạnh làm tăng thêm
tình trạng đói nghèo, suy dinh dưỡng.
2.2. Các doanh nghiệp phi nông nghiệp trong nước ở châu Á
Môi trường đầu tư có tác động mạnh mẽ đến các công ty trong nước ở tất cả các quy mô
khác nhau – từ các doanh nghiệp nhỏ đến các tập đoàn lớn. Trong đó khu vực tư nhân ở châu

Á cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), những doanh nghiệp thường được coi là
trái tim của cộng đồng doanh nghiệp của một nước đang phát triển, sẽ chịu ảnh hưởng nhiều
nhất. Các doanh nghiệp này thường tạo ra nhiều việc làm mới và các khoản đầu tư sinh lời, và
là động lực tăng trưởng của một nước đang phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo. Những
thách thức trong môi trường đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là không đồng đều. Đối với các doanh nghiệp này những cản trở về luật pháp có vẻ ở
mức cao, và điều này đã ngăn cản các doanh nghiệp đầu tư vào hoặc trở thành một phần của
thị trường chính thức.
Ở châu Á, gánh nặng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiến hành công việc kinh
doanh là rất khác nhau; tuy nhiên ở một số nước đã có những bước tiến nhất định. Việc giảm
bớt những cản trở đối với các nhà sản xuất nhỏ tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh
tế, và trong nhiều trường hợp, việc khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ phát triển có tác động
trực tiếp tới đời sống của người nghèo nhiều hơn là khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
lớn.
Các công ty lớn trong nước cũng là những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế vĩ mô, đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP, tạo việc làm ở cả khu vực thành thị và nông thôn
(ví dụ như các xí nghiệp ở các vùng nông thôn Trung Quốc) và cung cấp ngoại tệ cho đất
nước thông qua mối liên hệ của họ với các thị trường quốc tế. Những công ty này nói chung
thường cạnh tranh với các công ty đa quốc gia ở cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu.
Vì thế, môi trường đầu tư, đặc biệt là các nhân tố của môi trường đầu tư có liên quan đến thế
giới bên ngoài như thuế quan, các quy định về hải quan và hiện trạng các cảng và sân bay là
đặc biệt quan trọng đối với các công ty lớn. Chính phủ nhiều nước châu Á (đặc biệt là các
8


nước Đông Á) từng có chính sách ưu tiên phát triển các công ty này để tăng khả năng cạnh
tranh của họ so với các công ty đa quốc gia thông qua rất nhiều các công cụ chính sách ngành.
Tuy nhiên, những sáng kiến nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp lớn trong
nước không nên được xây dựng theo hướng ưu đãi nhiều hơn cho doanh nghiệp trong nước
so với các doanh nghiệp nước ngoài.

2.3. Môi trường đầu tư và các tập đoàn đa quốc gia ở châu Á
Các tập đoàn đa quốc gia ngày càng có mặt nhiều ở châu Á cũng là một vấn đề cần quan
tâm khi bàn về môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư là yếu tố quyết định các luồng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng GDP và làm tăng dự trữ ngoại
tệ. FDI cũng sẽ thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng và giúp nước nhận đầu tư được tiếp nhận thêm
nhiều công nghệ chuyển giao. Trong khu vực châu Á, độ hấp dẫn của từng nước đối với các
luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là khác nhau. Trong năm 2003, Trung Quốc là nước
tiếp nhận nhiều FDI nhất (vượt qua cả Mỹ), Đông Á và Đông Nam Á nói chung tiếp nhận một
tỷ lệ FDI tương đối lớn so với quy mô kinh tế của mình - điều này có nghĩa là hệ số luồng vốn
FDI toàn cầu vào khu vực Đông Á so với tỷ trọng của khu vực trong GDP toàn cầu là 1,54.
Trong khi đó hệ số này ở khu vực Nam và Tây Á chỉ là 0,3 và 0,31.
Chính phủ các nước châu Á đã thực hiện hàng loạt các chính sách thu hút FDI, và đã đạt
được nhiều thành công cả về kinh tế và xã hội. Một công cụ chính sách được nhiều chính phủ
châu Á sử dụng đó là ký kết các thoả thuận đầu tư song phương (BIT), trong đó có những
điều khoản bảo vệ các nhà đầu tư đa quốc gia. Bănglađét, Hồng Công (TQ), Ấn Độ,
Inđônêxia, Hàn Quốc, Lào, Malaixia, Nêpan, Pakixtan, Philippin, Xingapo, Xri Lanca, Thái
Lan và gần đây nhất là Việt Nam đã ký BIT với Anh và một số nước khác. Trên lý thuyết, BIT
có vai trò như một cơ chế cam kết, theo đó các nước đang phát triển cam kết sẽ đối xử “an
toàn” đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đổi lại các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các
nước đang phát triển sẽ tăng lên dù các thể chế hay độ tin cậy của các nước này còn yếu. Tuy
nhiên, sự ổn định dành cho các nhà đầu tư thông qua BIT và những hạn chế của các BIT đối
với các chính phủ (đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế)
là tương đối ngang bằng nhau. Việc ký kết BIT sẽ làm tăng sức hấp dẫn FDI của một nước,
nhưng BIT chỉ đóng vai trò bổ sung chứ không thay thế được cho các thể chế chính trị và
pháp luật mạnh. Các BIT cũng có quan hệ mật thiết với các nước đi đầu tư và các luồng vốn
FDI.
2.4. Các ví dụ về cải thiện môi trường đầu tư ở một số nước châu Á
2.4.1. Tăng cường cơ hội tiếp cận các nguồn tài chính đối với các doanh nghiệp ở nông
thôn Ấn Độ
Thẻ tín dụng Kisan được các ngân hàng thương mại, ngân hàng nông thôn phát hành là

một sáng kiến về mặt kỹ thuật trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế nông nghiệp
ở Ấn Độ, trong đó bao gồm những hộ kinh doanh nhỏ. Kể từ khi được phát hành lần đầu giai
đoạn 1998-1999, tính đến tháng 4/2003, số thẻ tín dụng được phát hành đã lên tới 31,6 triệu
thẻ. Loại thẻ này sử dụng rất tiện lợi cho cả người cho vay và người đi vay tín dụng. Chúng
giúp người nông dân có thể đi vay một cách dễ dàng, làm giảm số lượt người phải trực tiếp
đến các ngân hàng vay vốn và tăng số tài khoản của người nông dân trong ngân hàng.
9


Mức độ tinh vi của thị trường tài chính ngày càng tăng càng cho phép người nông dân có
thể điều chỉnh các khoản thu nhập của mình trước sự biến động của giá cả và mùa màng. Thị
trường tương lai còn non trẻ cho phép người nông dân cố định được mức giá mà họ sẽ mua
trong tương lai. Những đổi mới trong hệ thống bảo hiểm cũng tạo điều kiện người nông dân
tự bảo vệ mình trước những thiệt hại do diễn biến thời tiết xấu gây ra. Việc thanh toán nợ
được căn cứ vào một chỉ số đo lường thời tiết của địa phương, theo đó cho phép có được
quyết định hoàn toàn khách quan về số tiền phải trả và duy trì động lực đối với người nông
dân để tối đa hoá sản lượng của họ ngay cả trong điều kiện thời tiết xấu.
2.4.2. Việt Nam nới lỏng các hạn chế đối với các doanh nghiệp nhỏ
Kể từ cuối những năm 90, Việt Nam đã chuyển đổi theo hướng duy trì kinh tế vĩ mô ổn
định hơn và cải cách môi trường đầu tư như nới lỏng các hạn chế đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Việt Nam đã tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương và
cam kết tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN trong năm 2006.
Bước tiến quan trọng nhất là việc Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ
tháng 12/2001, sau đó là hoàn thành các thoả thuận về cải cách kinh tế với Tổ chức Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB).
Việc nới lỏng các hạn chế đối với các doanh nghiệp nhỏ năm 2001 đã giúp kinh tế Việt
Nam tăng trưởng nhanh chóng vì hàng triệu các hộ nông dân nghèo tìm được những công việc
với hiệu quả và năng suất cao hơn (ví dụ như vào làm việc ở các nông trại trồng cà phê hay
nuôi tôm, hoặc làm công nhân cho các xí nghiệp dệt và sản xuất giày).
2.4.3. Trung Quốc khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước phát triển

Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch nhằm xây dựng ngành đầu tư mạo hiểm trong
nước để cấp vốn cho các công ty ở những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ.
Động thái này đã giúp làm tăng sức cạnh tranh của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước và
làm giảm lợi nhuận cho các nhóm cổ phần tư nhân của nước ngoài.
Sáng kiến này của Ủy ban Cải cách và Phát triển Trung Quốc, cơ quan kế hoạch kinh tế hàng
đầu Trung Quốc, được xây dựng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các nhà đầu tư mạo hiểm
trong nước bằng cách dành cho họ những ưu đãi về thuế và được rút lui khỏi thị trường dễ dàng
hơn các đối thủ nước ngoài.
Các quy định của Ủy ban Cải cách và phát triển Trung Quốc khuyến khích chính quyền các
địa phương cung cấp những khoản đầu tư trực tiếp, các khoản vay và bảo lãnh nợ cho các quỹ
đầu tư mạo hiểm trong nước - đó là các quỹ mà các nhà đầu tư và quản lý cao nhất phải có
quốc tịch Trung Quốc.
Biện pháp này sẽ giúp giải quyết những vấn đề về vốn của phần lớn các doanh nghiệp nhỏ
của Trung Quốc vốn không được các ngân hàng nhà nước quan tâm đến (Các ngân hàng nhà
nước thường dành ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp của chính phủ).
2.4.4. Sáng kiến về chính phủ điện tử của Xingapo
Những tiến bộ về công nghệ thông tin, trong đó có Internet, đã mở đường cho những cải
thiện về môi trường đầu tư, trong đó làm giảm các yêu cầu về các thủ tục hành chính công,
tăng cường tính minh bạch và nới lỏng gánh nặng đối với các công ty.

10


Sáng kiến về chính phủ điện tử được Xingapo thực hiện năm 2000 bao gồm cả hoạt động
đăng ký kinh doanh và các thủ tục cấp giấy phép. Sáng kiến này cung cấp một hệ thống đăng
ký kinh doanh và xin cấp giấy phép kinh doanh trực tuyến và một hệ thống đăng ký một
chặng trực tuyến đối với một số giấy phép đặc biệt vốn trước đây đòi hỏi phải được thông qua
sự đồng ý của 12 nhà chức trách chịu trách nhiệm về luật.
Cách tiếp cận tích hợp này đã giúp làm giảm chi phí tổ chức một công ty mới từ mức từ
700-20.000 USD xuống một mức phí chung là 175 USD. Những thủ tục trước đây mất 2 ngày

mới giải quyết được nay chỉ mất chưa đến 2 tiếng đồng hồ. Việc tổ chức tốt quy trình phê
duyệt để có được giấy phép xây dựng đã giúp người nộp đơn tiết kiệm được hơn 260 USD.
3. Phân tích môi trường đầu tư hiện nay tại châu Á
Việc phân tích các nguồn thông tin thực tế về những khác biệt trong môi trường đầu tư
giữa các quốc gia sẽ cho ta thấy một cái nhìn hệ thống hơn về môi trường đầu tư tại châu Á.
Hai cuộc điều tra của Ngân hàng thế giới (WB) tiến hành là Điều tra môi trường đầu tư (ICS)
và Điều tra hoạt động kinh doanh (DBS) được lấy từ hai nguồn dữ liệu khác nhau; cách thức
công bố, nội dung điều tra và thời điểm điều tra cũng khác nhau. Số quốc gia được điều tra
theo ICS ít hơn, chỉ là 10 nước so với 18 trong DBS. Sử dụng hai nguồn thông tin này kết hợp
với một số dự báo của khu vực tư nhân về môi trường kinh doanh (ví dụ như theo Cơ quan
tình báo kinh tế – EIU), sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn những thành tựu mà các nền kinh tế
châu Á đã đạt được trong việc xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, và xác định được
những thách thức còn tồn tại. Tuy nhiên, các cuộc điều tra này thường không phản ánh chính
xác những thách thức mà các doanh nghiệp ở nông thôn hoặc các doanh nghiệp hoạt động
trong ngành nông nghiệp phải đối mặt.
Về môi trường đầu tư ở châu Á, xét theo khu vực, Đông Á áp dụng nhiều biện pháp hiệu
quả hơn Nam Á, cải thiện mức độ hấp dẫn chung của môi trường đầu tư mặc dù giữa các nền
kinh tế trong vùng vẫn còn có những khác biệt lớn. Trong khi đó việc vận hành một doanh
nghiệp ở Nam Á gặp phải nhiều quy định khó khăn vào bậc nhất trên thế giới, chỉ khu vực sau
cận Xahara của châu Phi. Tuy nhiên, việc thành lập một doanh nghiệp tại Nam Á lại tương đối
dễ dàng do thiếu những yêu cầu tối thiểu về vốn và các quy định về thủ tục. Không chỉ giữa
các vùng, giữa các nền kinh tế mà thậm chí các vùng khác nhau của mỗi quốc gia cũng có sự
khác biệt, chẳng hạn sự khác nhau về môi trường đầu tư giữa các thành phố của Trung Quốc
Dưới đây là kết quả của hai cuộc khảo sát về môi trường đầu tư tại Đông Á của WB (Khảo
sát môi trường đầu tư ICS và Điều tra môi trường kinh doanh DBS), bên cạnh đó là một số
đánh giá của Cơ quan tình báo kinh tế (EIU), trong đó phân tích các yếu tố của môi trường
đầu tư của khu vực này.
3.1. Điều hành
3.1.1. Sự ổn định về chính trị và kinh tế
Tại hầu hết các quốc gia châu Á, những bất ổn về chính trị và kinh tế vĩ mô không phải là

những nhân tố chính dẫn tới những yếu kém của môi trường đầu tư . Theo các kết quả điều tra
của WB, không có bất kỳ doanh nghiệp được hỏi nào cho rằng sự không ổn định của các
chính sách là vấn đề nghiêm trọng nhất của đất nước, mặt dù các doanh nghiệp tại Inđônêxia
và Philippin lại rất lo lắng về những bất ổn kinh tế vĩ mô hiện nay ở các nước này.

11


Theo ICS, mức độ bất ổn về kinh tế vĩ mô và chính trị giữa các quốc gia châu Á là rất khác
nhau. Ở Inđonêxia, đây là hai vấn đề khiến các doanh nghiệp lo lắng nhiều nhất, trong khi ở
Ấn Độ và Trung Quốc, mức độ lo lắng của các doanh nghiệp lại thấp hơn. Điều khá thú vị là
các doanh nghiệp lớn của Trung Quốc (có trên 250 lao động) lại thường hay cho rằng sự
không ổn định của chính sách kinh tế và các quy định là rào cản lớn, thậm chí là nghiêm trọng
đối với doanh nghiệp. Tình hình ở Ấn Độ cũng tương tự như ở Trung Quốc dù rằng các doanh
nghiệp thuộc ngành dệt may thường tỏ ra lo lắng về những vấn đề này hơn các doanh nghiệp
khác.
Tuy nhiên, theo Cơ quan tình báo kinh tế (EIU), vốn vẫn đánh giá những rủi ro kể trên dựa
trên quan điểm hướng tới các nhà đầu tư quốc tế, thì rủi ro tại Inđônêxia lại không lớn bằng
tại Pakitxtan và Trung Quốc. Thêm vào đó, cần lưu ý rằng sự ổn định về chính trị và hiệu lực
điều hành của chính phủ thường bị xem là vấn đề nghiêm trọng hơn so với rủi ro về kinh tế vĩ
mô tại hầu hết các quốc gia châu Á, ngoại trừ Nhật Bản.
3.1.2. Pháp luật
Theo kết quả các cuộc khảo sát nói trên, hệ thống pháp luật ở Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia,
Philippin và Xri Lanca được đánh giá là hoạt động khá tốt. Tuy nhiên ở Ấn Độ, chỉ số lòng tin của
doanh nghiệp đối với hệ thống luật pháp lại có sự khác nhau khá lớn giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tưnước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài lại có niềm tin hơn đối với hệ thống pháp
luật trong việc cưỡng chế tuân thủ các quy định (71% so với chỉ 56% của các nhà đầu tư trong
nước). Tại Trung Quốc, khoảng 80% doanh nghiệp ở cả khu vực trong nước và nước ngoài rất tin
tưởng vào hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, các cuộc điều tra lại không thể hiện được liệu có sự
khác biệt về nhận thức đối với các luật lệ quy định giữa các nhà đầu tư nhỏ và các nhà đầu tư ở

nông thôn hay không. Đây là những đối tượng rất lo lắng về sự chuyên quyền của hệ thống pháp
luật ở địa phương.
Theo kết quả của ICS, có thể thấy rằng tỷ lệ tham nhũng tại Bănglađét và Campuchia cao
hơn rất nhiều so với các quốc gia châu Á khác được điều tra. Thực tế này cũng thống nhất với
kết quả xếp hạng Chỉ số tham nhũng do Tổ chức minh bạch quốc tế (TI) công bố, theo đó
Bănglađét và Chát là hai quốc gia có tình trạng tham nhũng nghiêm trọng (cùng đứng thứ
130/158). Mức độ tham nhũng của Pakitxtan thậm chí còn nghiêm trọng hơn (144/158).
Tương tự, tỷ lệ các hành vi phi cạnh tranh, tội phạm, trộm cắp và các vụ lộn xộn tại Bănglađét
và Campuchia cũng cao hơn những quốc gia khác.
3.1.3. Thuế và các quy định
Theo khảo sát DBS của WB, có sự khác biệt trong môi trường kinh doanh tại nhiều nước
Nam Á. Điều đáng chú ý là trong một số khía cạnh, việc kinh doanh tại Ấn Độ khó khăn hơn
so với Bănglađét.
Trong khu vực Đông Nam Á, mặc dù, việc tiến hành kinh doanh cũng như chấm dứt hoạt
động kinh doanh tại Malaixia và Thái Lan được đánh giá là dễ dàng hơn so với các nước khác
trong khu vực, nhưng quá trình xin cấp phép và giải quyết thủ tục xuất nhập khẩu cũng tốn
không ít thời gian của các doanh nghiệp. Trong khu vực này, Xingapo là nước có kết quả tốt
nhất. Còn Việt Nam là nước có số thuế thực tế mà một công ty phải nộp vào loại nhiều nhất.
Một công ty quy mô trung bình ở Việt Nam phải nộp thuế 44 lần, cần 1.050 giờ để thực hiện
đầy đủ các quy định về thuế và thuế chiếm gần 31,5% tổng lợi nhuận của một công ty. Việc
12


kinh doanh tại nhóm các quốc gia và vùng lãnh thổ bao gồm cả các nước phát triển và đang
phát triển ở khu vực Đông Á dễ dàng hơn so với phần lớn các nước Nam và Đông Nam Á
khác (ngoại trừ Xingapo).
Bảng 2. Thành lập và điều hành một doanh nghiệp
ở một số nước châu Á
Đơn vị tính: Ngày


Nước

Thời gian Thời gian
Thời
Thời gian
Thời
thành lập xin cấp
gian
đóng cửa
gian nộp
một
giấy phép đăng ký
một
các loại
doanh
kinh
sở hữu
doanh
thuế
nghiệp
doanh
tài sản
nghiệp

Campuchia

86

247


56

97

-

Inđônêxia

151

224

42

560

5,5

Malaixia

30

281

143

-

2,2


Philippin

48

197

33

94

5,7

Xingapo

6

129

9

30

0,8

Thái Lan

33

147


2

52

2,7

Việt Nam

50

143

67

1.050

5,0

Trung Quốc

48

363

32

584

2,4


Nhật Bản

31

87

14

315

0,6

Hàn Quốc

22

60

11

290

1,5

Nguồn: Doing Business Survey, WB.

Khảo sát ICS cũng cung cấp những thông tin về thuế suất và các thủ tục hành chính cũng
như những thông tin về thủ tục hải quan và cấp phép kinh doanh. Pakixtan và Bănglađét
được xem là hai nước có môi trường đầu tư không thuận lợi. Thuế, quy định hải quan và việc
cấp phép kinh doanh tại Trung Quốc là được xem là khó khăn hơn so với Ấn Độ. Đánh giá

này tương đối khác với ý kiến của các chuyên gia về thuế, luật pháp và kinh tế của các nước
được hỏi trong khảo sát DBS. Trong khi đó kết quả điều tra của EIU trong việc so sánh môi
trường kinh doanh tại Trung Quốc và Ấn Độ tương đối giống với những kết quả của DBS..
3.1.4. Chính sách lao động
Các chính sách lao động tác động tới môi trường đầu tư có thể chia làm hai nhóm: Nhóm
các chỉ số về kỹ năng và tính đa dạng của lực lượng lao động, và mức độ linh hoạt của thị
trường lao động khi xem xét các quy định về thuê và sa thải lao động. Nhóm chỉ số thứ hai
về thị trường lao động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ tác động đến thị trường lao
động một cách trực tiếp và nhanh chóng. Xét về độ linh hoạt của thị trường lao động, có sự
khác biệt giữa Nam Á và Đông Nam Á. Theo DBS, chi phí thuê nhân công trung bình tại
Nam Á bằng 5,1% chi phí tiền lương và chi phí sa thải nhân công tương đương với 75 tuần
lương. Tại Đông và Đông Nam Á, chi phí thuê nhân công cao hơn một chút (8,8% chi phí
13


tiền lương) trong khi chi phí sa thải nhân công thấp hơn đáng kể (tương đương 44 tuần
lương). Chi phí sa thải nhân công tại Trung Quốc ngang bằng với chi phí này tại khu vực
Nam Á (90 tuần lương) và chi phí thuê nhân công rất cao (30% tiền lương).
Bảng 3. Mức độ linh hoạt của thị trường lao động một số nước châu Á
Độ cứng nhắc của chỉ số việc làm
Bănglađét

24

Trung Quốc

30

Inđônêxia


57

Malaixia

10

Thái Lan

18

Việt Nam

51

Ghi chú: Điểm số càng cao, mức độ cứng nhắc càng lớn.
Nguồn: Doing Business Survey, WB.

Cuộc khảo sát ICS tại Trung Quốc cho thấy tại nước này kỹ năng và trình độ văn hoá của
người lao động được quan tâm hơn so với các nước khác. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp trong
nước coi đây là một trở ngại chính trong kinh doanh hơn là các nhà đầu tư quốc tế.
Ngoài ra, ICS còn cung cấp những thông tin về các chỉ số xã hội trong những chính sách
lao động. Điểm đáng chú ý là mức độ đào tạo cho người lao động tại Trung Quốc so với các
nước khác cao hơn rất nhiều và Pakixtan là nước duy nhất đưa ra những số liệu về sự tham gia
của phụ nữ trong quản lý cấp cao.
Còn khảo sát EIU đưa ra những đánh giá về những rui ro tại thị trường lao động. Theo đó,
mức độ rủi ro lớn nhất là tại các nước như Việt Nam, Inđônêxia; Rủi ro tại thị trường lao động
Trung Quốc và Ấn Độ cũng ở mức cao như nhau.
3.2. Cơ sở hạ tầng
3.2.1 Những hạn chế về cơ sở hạ tầng
Những hạn chế về cơ sở hạ tầng tại các nước Nam Á còn nghiêm trọng hơn nhiều so với

Đông Á và Đông Nam Á. Bănglađét là một ví dụ điển hình: Theo kết quả ICS cho thấy thời
gian phải chờ để được mắc điện ở Bănglađét là 80 ngày và số ngày bị mất điện trong một năm
lên tới gần 250 ngày. Trong khi đó tại Ấn Độ, thời gian chờ để được cấp điện thậm chí còn lâu
hơn 82 ngày, còn số liệu về thời gian mất điện thì chưa được thống kê. Và nhìn chung tình
trạng thiếu điện được coi là rào cản lớn nhất về cơ sở hạ tầng đối với việc kinh doanh ở châu
Á.
Bảng 4. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng tại Nam Á

Thời gian chờ để

Bănglađét

Ấn Độ

Pakixtan

Xri
Lanca

80

82

33

65

14



Bănglađét

Ấn Độ

Pakixtan

Xri
Lanca

Số ngày mất điện
trong 1 năm

249

-

15

-

Giá trị bị tổn thất
do mất điện (%
doanh số bán
hàng)

3,3

9,0

5,4


-

Thời gian chờ để
được cấp nước
(ngày)

32

-

5

12

Giá trị bị tổn thất
do mất nước (%
doanh số bán
hàng)

150

87

25

63

Số ngày mất kết
nối điện thoại


71

64

42

75

Giá trị bị tổn thất
do mất kết nối
điện thoại (%
doanh số)

70

62

34

68

Các doanh nghiệp
cung ứng

31

36

18


29

được mắc điện
(ngày)

3.2.2. Tài chính
Về khả năng tiếp cận tài chính ở châu Á phụ thuộc vào từng nước và từng ngành. Khảo
sát ICS đã đưa ra những thông tin về mức độ sẵn có và tính hiệu quả của tài chính ở nhiều
nước.
Bảng 5. Tiếp cận tài chính tại một số nước châu Á
Nguồn tài
Nguồn
chính
đầu tư
mới từ
mới từ
các quỹ
các ngân
trong
hàng
nước

Tỷ lệ các Tỷ lệ thế
Số ngày
doanh chấp cần
thanh
nghiệp
thiết để
toán một

thấu chi vay vốn
tờ séc
(%)
(%)

Bănglađét

60

30

66

95

2,9

Trung Quốc

27

36

24

85

4,5

-


-

58

101

11,1

Ấn Độ

15


Inđônêxia

42

16

20

116

14,3

Pakixtan

58


7

23

72

1,9

Philíppin

58

13

31

61

-

Tuy nhiên, những con số thống kê này không cho thấy sự khác biệt giữa các doanh nghiệp
và các lĩnh vực có quy mô khác nhau.
Bảng 6. Tiếp cận tài chính trong các nền kinh tế châu Á, theo quy mô của doanh nghiệp
Tỷ lệ các doanh nghiệp
thấu chi (%)

Tỷ lệ thế chấp cần
thiết để vay vốn(%)

Nhỏ


Nhỏ

Vừa

Lớn

Vừa

Lớn

Bănglađét

53

69

72

80

98

97

Trung Quốc

12

23


39

98

85

82

Ấn Độ

52

71

90

100

99

110

Pakixtan

16

40

58


76

68

64

Philíppin

19

44

45

62

55

69

Các doanh nghiệp nhỏ ở hầu hết các nước đang gặp phải nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận một khoản thấu chi, và trong nhiều trường hợp tỷ lệ thế chấp ở các doanh nghiệp nhỏ cao
hơn so với các doanh nghiệp vừa và lớn. Chi phí và việc tiếp cận nguồn tài chính là những
vấn đề rất lớn ở Bănglađét và Pakixtan.
4. Giải pháp
Thứ nhất, cần lưu ý rằng những thảo luận về môi trường đầu tư thường chủ yếu tập trung
vào các lợi ích về tăng trưởng thu được từ việc cải cách môi trường đầu tư nhưng lại không
nhắc đến những chi phí về tài chính và chính trị của quá trình cải cách. Mặc dù chính quyền
các nước châu Á mong muốn cải cách môi trường đầu tư nhưng vẫn còn nhiều rào cản kinh tế

và chính trị. Cải cách môi trường đầu tư tại nhiều nước thường được tiến hành thông qua hàng
loạt các chính sách riêng rẽ, bắt nguồn từ nỗ lực của các chính phủ nhằm ưu tiên một số
ngành hoặc một số khu vực nhất định. Theo đó, những người được hưởng lợi từ những chính
sách này ví dụ như những doanh nghiệp hoặc các chính quyền địa phương và khu vực, sẽ
ngăn cản việc cải cách để duy trì nguyên lợi ích của mình. Chính vì vậy việc chuyển sang một
khung chính sách môi trường đầu tư tập trung hoặc sửa đổi các chính sách đang hạn chế sự
tăng trưởng vì người nghèo là việc làm rất khó khăn đối với các chính phủ. .
Chính quyền mỗi nước thường xác định những ưu tiên cải cách dựa trên nhu cầu của các
doanh nghiệp cũng như những nghiên cứu về chi phí và lợi ích của việc cải cách, nhưng phần
lớn các chính quyền châu Á sẽ có lợi khi tập trung cải cách hai lĩnh vực sau: Khuyến khích
đầu tư vào cơ sở hạ tầng và giảm thiểu các quy định làm tăng chi phí thời gian trong kinh
doanh. Mặc dù các nền kinh tế châu Á có thể đạt được mức tăng trưởng cao mà không nhất
thiết phải thực hiện một chương trình cải cách môi trường đầu tư một cách triệt để, nhưng
điều quan trọng là các biện pháp can thiệp chính sách phải hướng tới sự tăng trưởng vì người
nghèo. Điều này đồng nghĩa với việc phải chú ý tới những trở ngại về mặt luật pháp, đất đai
16


và quy định đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và doanh nghiệp
tại vùng nông thôn, những người dân nghèo ở những khu vực “lạc hậu”, chủ yếu làm nông
nghiệp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những nước có tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức
trung bình của khu vực.
Để đạt được những mục tiêu này, cần phải có những sáng kiến ở tầm quốc gia, những nỗ
lực ở tầm khu vực và quốc tế:
 Các

tổ chức quốc tế có thể cung cấp các dữ liệu ở tầm vi mô có chất lượng cao về những
rào cản trong môi trường đầu tư tại nhiều nước châu Á. Dựa vào các số liệu này, các tổ chức
quốc tế có thể phối hợp các chính quyền ở châu Á nhằm đánh giá chi phí và lợi ích của những
chương trình cải cách của từng quốc gia, tác động tích cực tới tốc độ tăng trưởng và các yếu

tố của môi trường đầu tư. Hơn nữa, các tổ chức quốc tế có thể giúp đỡ một cách thiết thực
bằng cách gợi ý việc tổ chức các cuộc thảo luận ở tầm quốc gia với những người được hưởng
lợi từ việc cải cách và những bài học kinh nghiệm tại các quốc gia và khu vực khác trên thế
giới.
 Ngoài

ra, các chính quyền châu Á có thể cùng trao đổi về những quá trình cải cách thành
công. Các thể chế quốc tế (đặc biệt những thể chế có tầm hoạt động mang tính khu vực như
Ngân hàng phát triển châu Á - ADB) có thể hỗ trợ việc tổ chức các cuộc họp nhằm khuyến
khích hoạt động trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước. Đồng thời, việc thúc đẩy các
mối liên kết trong khu vực trong một số lĩnh vực (ví dụ lĩnh vực thương mại) cũng tạo điều
kiện hài hoà hoá các khía cạnh chính của môi trường đầu tư, ví dụ như các cơ chế luật pháp.
Theo đó, các đối tác quốc tế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này thông qua việc
xem xét lại các mối quan hệ thương mại song phương, khu vực và đa phương với các nước
châu Á trong các lĩnh vực có thể hợp tác khu vực, bao gồm cả việc đơn giản hoá các quy định
về nguồn gốc xuất xứ theo các chương trình ưu đãi khu vực.
Một số khuyến nghị cụ thể:
 Nhằm

thúc đẩy tăng trưởng vì người nghèo, cần nỗ lực hơn nữa trong việc cải cách chi
tiêu công vốn đang dành ưu đãi cho những chủ đất lớn như trợ cấp khai thác nước ngầm phục
vụ tưới tiêu. Hơn nữa, cần nỗ lực chuyển dần sang gieo trồng những loại cây có giá trị cao, đa
dạng cơ cấu cây trồng và tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho người nghèo. Cuối cùng, cần tăng
cường các chính sách, thể chế và áp dụng những công cụ kinh tế, luật pháp và xã hội nhằm
đối phó với tình trạng suy thoái các nguồn lực mà có thể cản trở tính hiệu quả và bền vững
trong việc sử dụng các nguồn lực. Các tổ chức quốc tế theo đó cần tập trung nhiều nguồn lực
hơn cho các chương trình nông nghiệp và nông thôn.
 Đẩy

mạnh việc xây dựng chính sách cạnh tranh bao gồm việc tăng cường năng lực của

Chính phủ trong việc đánh giá khả năng cạnh tranh, nghiên cứu tác động của các chính sách
đối với những ngành chủ lực trong nền kinh tế. Hơn nữa, cần hỗ trợ việc nghiên cứu và sửa
đổi các luật về thương mại có tác động tiêu cực tới cạnh tranh trong kinh doanh.
 Tiến

hành thêm những nghiên cứu về các rào cản đối với đầu tư. Bộ Phát triển quốc tế
Anh (DFID) và Ngân hàng Thế giới (WB) đang hỗ trợ tiến hành điều tra về khả năng tiếp cận
các nguồn tài chính nhằm thực hiện cải cách chính sách và cải cách thương mại ở châu Á.
Đến nay, việc hỗ trợ đã được thực hiện tại Ấn Độ, Bănglađét và Pakixtan và có thể mở rộng
17


sang các nước khác.
 DFID

đang lập kế hoạch thiết lập một cơ sở nghiên cứu tác động chính sách thuộc chính
quyền trung ương Bănglađét nhằm xây dụng tốt hơn hệ thống chính sách ở tầm quốc gia.
Những biện pháp như vậy cũng rất cần thiết ở tầm khu vực và tại các quốc gia khác.
 Khuyến

khích quá trình đối thoại giữa Nhà nước và khu vực tư nhân một cách hiệu
quả và có hệ thống hơn nhằm huy động sự hỗ trợ của khu vực tư nhân trong việc cải thiện
các chính sách công nhằm phát triển khu vực tư nhân trong khu vực.
Tổng hợp theo các báo cáo của Bộ Phát triển quốc tế Anh (DFIF), Cơ quan tình báo kinh tế
(EIU), Doing Business Survey và Investment Climate Surveys của WB

Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia

18




×