Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP BIỆN PHÁP cấm đi KHỎI nơi cư TRÚ, bảo LĨNH, đặt TIỀN HOẶC tài sản có GIÁ TRỊ để bảo đảm TRONG tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.9 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
  

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 33 (2007 - 2011)
Đề tài:

BIỆN PHÁP CẤM ĐI KHỎI NƠI CƢ TRÚ, BẢO LĨNH,
ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. Mạc Giáng Châu

Trần Thị Tuyết Trinh

Bộ môn: Luật Tƣ pháp

MSSV: 5075153
Lớp: Luật Tƣ pháp 2 - K33

Cần thơ, tháng 4 năm 2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
  



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 33 (2007 - 2011)
Đề tài:

BIỆN PHÁP CẤM ĐI KHỎI NƠI CƢ TRÚ, BẢO LĨNH,
ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. Mạc Giáng Châu

Trần Thị Tuyết Trinh

Bộ môn: Luật Tƣ pháp

MSSV: 5075153
Lớp: Luật Tƣ pháp 2 - K33

Cần thơ, tháng 4 năm 2011


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP CẤM ĐI KHỎI
NƠI CƢ TRÚ, BẢO LĨNH, ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ
BẢO ĐẢM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................... 3
1.1. Khái niệm chung về các biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt Nam..................... 3
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 3
1.1.1.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú........................................................................... 3
1.1.1.2. Bảo lĩnh................................................................................................. 4
1.1.1.3. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ........................................... 5
1.1.2. Đặc điểm ..................................................................................................... 6
1.1.2.1. Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ........................................................... 6
1.1.2.2. Biện pháp bảo lĩnh ................................................................................ 7
1.1.2.3. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ........................... 9
1.1.3. Căn cứ áp dụng ........................................................................................... 9
1.2. Tầm quan trọng của các biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ................................................................ 15
1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự ........................................................................................................................... 15
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo

lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đối với bị can, bị cáo..................... 16
1.2.3. Ảnh hưởng của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đối với cộng đồng....................................... 18
CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP CẤM ĐI KHỎI NƠI CƢ TRÚ, BẢO
LĨNH, ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM .................. 20
2.1. Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú ................................................................. 20
2.1.1. Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú ......................................................................................................................... 20
2.1.2. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ............. 21
2.1.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ........................ 23


2.2. Biện pháp bảo lĩnh ........................................................................................ 25
2.2.1. Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng biện pháp bảo lĩnh ................... 25
2.2.2. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh ................................... 30
2.2.3. Trình tự và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh .......................................... 31
2.3. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ................................. 33
2.3.1. Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm .................................................................................................. 33
2.3.2. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm ................................................................................................................. 34
2.3.3. Trình tự thủ tục áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm........................................................................................................................ 36
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT .......................... 39
3.1. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú .................................................... 39
3.1.1. Về mặt pháp lý .......................................................................................... 39
3.1.1.1. Tồn tại ................................................................................................. 39
3.1.1.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 42
3.1.2. Về mặt thực tiễn ....................................................................................... 43

3.1.2.1. Tồn tại ................................................................................................. 43
3.1.2.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 43
3.2. Đối với biện pháp bảo lĩnh ............................................................................ 44
3.2.1. Về mặt pháp lý .......................................................................................... 44
3.2.1.1. Tồn tại ................................................................................................. 44
3.2.1.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 45
3.2.2. Về mặt thực tiễn ........................................................................................ 46
3.2.2.1. Tồn tại ................................................................................................. 46
3.2.2.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 47
3.3. Đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm .................... 48
3.3.1. Về mặt pháp lý .......................................................................................... 48
3.3.1.1. Tồn tại ................................................................................................. 48
3.3.1.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 51
3.3.2. Về mặt thực tiễn ........................................................................................ 53
3.3.2.1. Tồn tại................................................................................................. 53
3.3.2.2. Giải pháp đề xuất ................................................................................ 54
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế Tố tụng hình sự Việt Nam thì các biện
pháp ngăn chặn nói chung và các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi
lẽ, việc áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn này sẽ giúp các cơ quan tiến hành
tố tụng có các điều kiện thuận lợi để giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác,

khách quan, kịp thời ngăn chặn các hành vi phạm tội đang xảy ra hoặc có thể xảy ra.
Từ đó, có thể bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự là chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn thể hiện sự tôn trọng, bảo vệ các quyền và
lợi ích của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng ba biện pháp là cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong thực tiễn hiện nay còn tồn
tại nhiều vướng mắc, bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng các biện pháp này.
Do đó, với mong muốn tìm hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn về các biện pháp
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tác giả
quyết định chọn đề tài “Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu
nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện hơn những quy định của
pháp luật về ba biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm. Từ đó góp phần khắc phục những khó khăn, thiếu sót trong công tác
xây dựng và thực hành pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
2. Phạm vi nghiên cứu
Do có sự hạn chế về tài liệu cũng như thời gian hoàn thành luận văn, nên trong
phạm vi nghiên cứu đề tài “Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các căn cứ, chủ
thể có thẩm quyền và trình tự thủ tục áp dụng cho từng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Còn các vấn đề về việc quản
lý người bị áp dụng biện pháp này của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh



Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

cáo cư trú; vấn đề về trách nhiệm của cá nhân hoặc tổ chức khi nhận bảo lĩnh; trình
tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá trị tài sản phải đặt để đảm bảo, việc tạm giữ, hoàn trả,
không hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã đặt tác giả không nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài “Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm” nhằm giúp người viết tìm hiểu rõ hơn về
các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Từ đó, tác giả mong muốn có thể tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tình hình hiện nay,
giúp cho việc áp dụng các biện pháp này đạt hiệu quả cao hơn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài “Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên
cứu phân tích luật viết, phương pháp tổng hợp. Cụ thể tác giả dựa trên các văn bản
pháp luật, giáo trình, sách báo, tạp chí chuyên ngành, trang tin điện tử,... để phân tích,
tổng hợp để hoàn thiện đề tài này.
5. Bố cục đề tài
Đề tài gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung chính và phần kết luận.
Trong đó, phần nội dung chính gồm có ba Chương:
- Chương 1: Khái quát chung về các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về các
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
- Chương 3: Một số tồn tại và giải pháp đề xuất.

Đề tài nghiên cứu về “Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm” còn tồn tại nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập.
Do đó nó đòi hỏi người nghiên cứu phải nắm bắt được các vấn đề cốt lõi để từ đó tìm
ra những nguyên nhân, giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, lần đầu tiên được tiếp cận một đề tài nghiên cứu khoa học mà thời gian
nghiên cứu cũng như vốn kiến thức của tác giả còn hạn chế. Vì vậy, khó tránh khỏi
những sai lầm và thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của Quý Thầy Cô, các nhà nghiên cứu pháp luật và các bạn sinh viên.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP CẤM ĐI KHỎI NƠI CƢ
TRÚ, BẢO LĨNH, ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chung về các biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Cấm đi khỏi nơi cƣ trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam. Khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: “Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị

can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”.
Theo quy định của pháp luật thì cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa
điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú, hoặc tạm trú. Còn nơi cư
trú của công dân là chổ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống, là nơi họ
thường trú hoặc tạm trú1.
Bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là vì nhằm mục đích
bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi cơ quan có thẩm quyền cần triệu tập để điều
tra, giải quyết vụ án. Khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú thì bị can, bị cáo chỉ đi lại, sinh
hoạt và cư trú trong phạm vi nơi họ thường trú hoặc tạm trú nên việc triệu tập bị can,
bị cáo sẽ được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn do đã biết rõ nơi bị can, bị cáo
cư trú.
Cấm đi khỏi nơi cư trú được gọi là biện pháp ngăn chặn vì thông qua biện pháp
này sẽ cấm bị can, bị cáo đi khỏi nơi cư trú của mình trong một thời gian nhất định.
Theo đó người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (chủ thể có thẩm quyền trong Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho
chính quyền xã, phường, thị trấn để tiện cho việc quản lý, theo dõi họ. Từ đó giúp
cho việc điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn. Nên
thực chất của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn nhưng không
cách ly người bị áp dụng với gia đình và xã hội mà chỉ hạn chế quyền tự do đi lại, tự
1 Điều 1, Điều 12 Luật cư trú năm 2006.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

trong Tố tụng hình sự Việt Nam

do cư trú của người bị áp dụng và buộc người đó không được tự ý đi khỏi nơi cư trú
của mình nếu như không có sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo đảm
sự có mặt của họ khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án có yêu cầu triệu
tập họ để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú chỉ hạn chế quyền tự do cư trú, tự do đi lại của
bị can, bị cáo, vì khi bị áp dụng biện pháp này bị can bị cáo vẫn được sinh sống trong
phạm vi nơi cư trú của mình thông qua sự giám sát của chính quyền địa phương. Và
khi có nhu cầu đi khỏi nơi cư trú của mình thì người bị áp dụng vẫn có thể tạm thời
đi khỏi nơi cư trú nếu được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
Vậy, cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy
định trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm hạn chế quyền tự
do đi lại, tự do cư trú của bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu
tập của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.1.2. Bảo lĩnh
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam. Khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Bảo lĩnh
là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh".
Theo từ điển Tiếng Việt2 thì bảo lĩnh là việc một người dùng tư cách, uy tín của
mình để bảo đảm cho người khác thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu
người đó không thực hiện nghĩa vụ đã cam đoan. Còn theo quy định của pháp luật thì
bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng
đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức đứng ra bảo lĩnh cho họ.
Bị can, bị cáo có thể bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh khi căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo,
cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải cách ly bị can, bị cáo với gia

đình và xã hội thì quyết định cho bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh để
thay thế cho biện pháp tạm giam. Trong trường hợp này, khi cho bị can, bị cáo được
áp dụng biện pháp bảo lĩnh sẽ tạo điều kiện cho bị can, bị cáo có cơ hội hòa nhập với
xã hội, giúp cho bị can, bị cáo có ý thức trân trọng sự tự do của mình hơn. Ngoài ra,
2 Từ điển Tiếng Việt - Ngôn ngữ học Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 1998, tr .56.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

việc cho bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh để thay thế cho biện pháp
tạm giam còn giúp giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước trong việc giam giữ người
phạm tội, góp phần làm giảm tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và nhà tạm
giữ.
Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải
đảm bảo các điều kiện do pháp luật quy định. Cụ thể khoản 4 Điều 92 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 quy định: "Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là
người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh
phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có
xác nhận của người đứng đầu tổ chức". Bên cạnh đó thì khi nhận bảo lĩnh, cá nhân
hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Tòa án3.

Vậy, bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức đứng ra bảo lĩnh cho họ để
thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội
và có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.1.3. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Tương tự như biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và biện pháp bảo lĩnh, biện pháp
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cũng là biện pháp ngăn chặn được quy định
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Khoản 1 Điều 93 bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: “Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn
chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập”.
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam. Đây là biện
pháp khá linh hoạt trong tố tụng hình sự nhằm ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của
bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ khi cơ quan có thẩm quyền cần triệu tập.
3 Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam


Bị can, bị cáo có thể được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can, bị cáo
mà vẫn có thể đảm bảo bị can, bị cáo không gây khó khăn cho các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và cũng sẽ không tiếp tục phạm tội mới. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp
này cơ quan có thẩm quyền thường căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo đã gây ra để xem xét là có cho bị can, bị
cáo được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế
cho biện pháp tạm giam hay không. Bên cạnh đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án còn căn cứ vào nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo để quyết định
là có cho họ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế
cho biện pháp tạm giam. Tương tự với biện pháp bảo lĩnh, thì việc cho bị can, bị cáo
được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cũng sẽ góp phần
cải thiện tinh thần cho bị can, bị cáo, góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước
trong việc giam giữ người phạm tội và làm giảm tình trạng quá tải trong các trại tạm
giam và nhà tạm giữ trong tình hình hiện nay.
Vậy, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một trong những biện pháp
ngăn chặn được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, do Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo để thay thế cho biện pháp
tạm giam và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm
quyền.
1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn được
quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, có các đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với
bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.
Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi
người đó thường xuyên sinh sống. 2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của
cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh
sống". Vậy nơi cư trú của bị can, bị cáo là nơi bị can, bị cáo thường xuyên sinh sống

hoặc là nơi bị can, bị cáo đang sinh sống. Do đây là biện pháp "cấm đi khỏi nơi cư
trú'' nên việc xác định nơi cư trú của bị can, bị cáo là rất quan trọng. Vì chỉ khi biết rõ
nơi cư trú của bị can, bị cáo thì việc quản lý bị can, bị cáo mới thuận lợi, từ đó đảm

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

bảo được mục đích của việc áp dụng biện pháp này là bảo đảm sự có mặt của bị can,
bị cáo khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có yêu cầu triệu tập họ. Còn các
đối tượng là bị can, bị cáo mà không có nơi cư trú rõ ràng sẽ không được áp dụng
biện pháp này, vì khi áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, cơ quan có
thẩm quyền ra lệnh cấm bị can, bị cáo đi khỏi nơi cư trú sẽ thông báo cho chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để quản lý, theo dõi họ. Do đó,
nếu bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng thì việc quy định giao cho chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để quản lý bị can, bị cáo sẽ gặp rất nhiều
khó khăn, vì nếu không xác định được nơi cư trú của bị can, bị cáo được rõ ràng thì
việc quản lý của chính quyền địa phương sẽ không được đảm bảo, từ đó làm cho việc
áp dụng biện pháp này không đạt được hiệu quả. Chính vì vậy, chỉ áp dụng biện pháp
cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.
- Thứ hai, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn không cách
ly người bị áp dụng với gia đình và xã hội.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú khác với biện pháp tạm giữ, tạm giam ở chỗ là
không cách ly người bị áp dụng với gia đình và xã hội vì khi bị áp dụng biện pháp

này người bị áp dụng chỉ tạm thời bị hạn chế một số quyền tự do cư trú, tự do đi lại
trong một thời gian nhất định để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử được
tiến hành thuận lợi. Lý do có sự khác biệt giữa biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú với
biện pháp tạm giữ, tạm giam là vì khi bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam thì chắc
chắn rằng quyền tự do đi lại, tự do cư trú của bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Trong khi đó, nếu bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì
quyền tự do đi lại, tự do cư trú của bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế ít hơn do bị can, bị cáo
vẫn được sống với gia đình và xã hội trong phạm vi địa phương nơi mình cư trú.
1.1.2.2. Biện pháp bảo lĩnh
Biện pháp bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, có các đặc điểm:
- Thứ nhất, bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn so với biện
pháp tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp
luật Tố tụng hình sự hình sự Việt Nam, được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng
trong trường hợp cần thiết để đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi. Khi bị áp dụng

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

biện pháp này, bị can, bị cáo được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền tự do đi lại,
tự do cư trú như người bị áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi

cư trú. Vì khi được bảo lĩnh, bị can, bị cáo sẽ được tại ngoại ở bên ngoài, có cuộc
sống, sinh hoạt với gia đình và xã hội bình thường, trong khi đó nếu bị can, bị cáo bị
áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị hạn chế một số
quyền tự do đi lại, tự do cư trú nhất định. Mặt khác, bị can, bị cáo bị áp dụng biện
pháp bảo lĩnh không bị cách ly khỏi gia đình, xã hội và cũng không bị hạn chế quyền
tự do cư trú hay tự do đi lại mà họ chỉ cần được chủ thể nhận bảo lĩnh bảo đảm rằng
họ sẽ không gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và có mặt khi có
yêu cầu triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy mà biện pháp bảo lĩnh
là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn so với các biện pháp tạm giữ, tạm giam
và cấm đi khỏi nơi cư trú.
- Thứ hai, bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn được áp dụng để thay thế cho
biện pháp tạm giam.
Trong trường hợp xét thấy việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị
cáo là không cần thiết nhưng đồng thời vẫn bảo đảm bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục
phạm tội hoặc không cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử và có mặt khi Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu triệu tập thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ cho áp
dụng biện pháp bảo lĩnh để thay thế cho biện pháp tạm giam. Việc áp dụng biện pháp
bảo lĩnh để thay thế cho biện pháp tạm giam khi có chủ thể dùng uy tín của mình
đứng ra bảo lĩnh cho bị can, bị cáo được tại ngoại ở bên ngoài với điều kiện chịu sự
ràng buộc về trách nhiệm bảo đảm rằng bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục phạm tội và
có mặt theo đúng giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, việc cho áp
dụng biện pháp bảo lĩnh để thay thế cho biện pháp tạm giam cũng sẽ góp phần giảm
tải tình trạng giam giữ người khi chưa có đủ chứng cứ chắc chắn để định tội bị can, bị
cáo được chính xác, khách quan, từ đó sẽ góp phần làm giảm tình trạng oan sai trong
thực tiễn xét xử hiện nay.
Ngoài các đặc điểm nêu trên thì biện pháp bảo lĩnh còn có đặc điểm là thể hiện
rõ sự thu hút quần chúng nhân dân trong quá trình tham gia đấu tranh phòng và
chống tội phạm. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân, tổ chức sẽ bảo đảm bị can, bị cáo không
tiếp tục phạm tội, không gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo
đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.

Do đó thông qua nghĩa vụ này quần chúng nhân dân sẽ có sự đóng góp rất lớn trong

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

việc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.1.2.3. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Tương tự như biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và biện pháp bảo lĩnh, biện
pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cũng là một trong những biện pháp
ngăn chặn được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, có đặc điểm là
biện pháp được dùng để thay thế cho biện pháp tạm giam.
Có thể dùng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế
cho biện pháp tạm giam nếu như xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp
tạm giam đối với bị can, bị cáo mà vẫn có thể đảm bảo bị can, bị cáo sẽ không tiếp
tục phạm tội hoặc cản trở các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo để xem xét, quyết
định cho bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm để thay thế cho biện pháp tạm giam. Việc cho bị can, bị cáo được áp dụng biện
pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế cho biện pháp tạm giam
với mục đích bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án trong trường hợp không cần tạm giam các bị can,
bị cáo đó. Ngoài ra, việc thay thế này còn góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà

nước trong việc giam giữ người phạm tội và làm giảm tình trạng quá tải của các trại
tạm giam và nhà tạm giữ trong tình hình hiện nay.
1.1.3. Căn cứ áp dụng
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam là một trong những chế định rất quan trọng. Việc quy định và áp dụng các biện
pháp này một cách đúng đắn sẽ đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành một
cách nhanh chóng và thuận lợi, giúp phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Bên cạnh đó các biện pháp
ngăn chặn này còn giúp ngăn chặn không cho người phạm tội tiếp tục phạm tội mới,
đồng thời vẫn bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng sẽ ít nhiều làm hạn chế một số quyền nhất
định của công dân, vì vậy khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần phải đảm bảo
tính chính xác, khách quan. Để đạt được điều này Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: "Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị
can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định
của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để

bảo đảm". Theo quy định tại Điều luật trên, có các căn cứ sau:
- Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Kịp thời ngăn chặn tội phạm là ngăn ngừa không cho tội phạm đang chuẩn bị
thực hiện được thực hiện hành vi phạm tội của mình hoặc không cho tội phạm đang
thực hiện được tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đó. Ngăn chặn kịp thời được hành
vi phạm tội có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm bớt hậu quả do tội phạm gây ra.
Khoa học luật hình sự đã xác định tội phạm phải được thực hiện thông qua hành
vi cụ thể, còn những gì mà con người suy nghĩ, toan tính, tưởng tượng ra thì đó
không phải là tội phạm. Khi một hành vi tội phạm được thực hiện thì tất yếu sẽ xâm
hại đến quyền và lợi ích của công dân, tổ chức, đến trật tự an toàn xã hội4. Để bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức cũng như việc đảm bảo an
toàn và trật tự xã hội, Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác nhau để ngăn
chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật. Nếu như hành vi vi phạm có tính chất nguy
hiểm cho xã hội chưa cao thì Nhà nước chỉ sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhẹ như
hành chính hoặc dân sự. Nhưng một khi hành vi vi phạm mang tính chất nguy hiểm
cao cho xã hội thì Nhà nước phải dùng đến các biện pháp thật nghiêm khắc để kịp
thời ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra hoặc tiếp tục thực hiện hành vi phạm
tội của mình. Vì vậy, khi có căn cứ cho rằng sẽ có hành vi phạm tội xảy ra, cơ quan
có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn để kịp thời ngăn chặn tội
phạm. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này có ý nghĩa to lớn trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, của tổ chức, của Nhà nước5. Tuy nhiên, căn cứ này là căn cứ chung cho
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, và có hiệu quả cao đối với trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang nên việc áp dụng cho các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chưa phát huy được hiệu quả.

4 Ths. Mạc Giáng Châu - Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, học phần 1 - Những
vấn đề chung của Luật Tố tụng hình sự, năm 2010, tr.79.
5 Ths. Mạc Giáng Châu - Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, học phần 1 - Những
vấn đề chung của Luật Tố tụng hình sự, năm 2010, tr.79.


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

- Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử.
Quá trình tố tụng hình sự là một quá trình chứng minh toàn diện vụ án hình sự,
chứng minh về việc có hay không có hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm,
chứng minh các tình tiết khác liên quan và có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án
hình sự. Như vậy, quá trình chứng minh thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự bao
hàm cả việc chứng minh theo hướng buộc tội và gỡ tội đối với người thực hiện tội
phạm. Theo đó khi tiến hành chứng minh với nội dung xác định tội phạm theo hướng
buộc tội, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ điều tra, thu thập những chứng cứ xác định cấu
thành tội phạm, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ thiệt hại,... để
làm căn cứ định tội, định khung và bồi thường. Các hoạt động chứng minh này được
thực hiện tốt sẽ là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị tình nghi6.
Chính vì vậy, để hạn chế hoặc loại bỏ những căn cứ mang tính buộc tội mình, người
bị tình nghi thường tìm cách gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử như
tìm cách trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc cản trở việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Và khi đó việc áp dụng biện pháp ngăn chặn để hạn chế
trường hợp bị can, bị cáo gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là
rất quan trọng.
Hành vi trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử thường được bị can, bị cáo thể

hiện bằng hành động cố ý rời bỏ nơi họ thường xuyên sinh sống để trốn tránh cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử đối với mình. Do
đó, nếu bị can, bị cáo không có mặt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sẽ là một
trở ngại lớn cho cơ quan tiến hành tố tụng, lý do là dù cho bị can, bị cáo không có
nghĩa vụ phải chứng minh là mình vô tội, nhưng để xác định sự thật của vụ án thì sự
có mặt của họ là vô cùng quan trọng, vì lời khai của bị can, bị cáo là nguồn chứng cứ
đặc biệt, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chính vì
vậy, cần phải áp dụng biện pháp ngăn chặn để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo
trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp bị can, bị
cáo phạm tội ít nghiêm trọng với lỗi vô ý hoặc phạm tội lần đầu mà có thái độ khai
báo thành khẩn thì việc cho áp dụng biện pháp tạm giam đối với những bị can, bị cáo
này là không cần thiết. Vì vậy, trong trường hợp này áp dụng biện pháp cấm đi khỏi
6 Ths. Mạc Giáng Châu - Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, học phần 1 - Những
vấn đề chung của Luật Tố tụng hình sự, năm 2010, tr.79-80.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

nơi cư trú là hữu hiệu nhất, vì khi áp dụng biện pháp này bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế
quyền tự do đi lại, tự do cư trú và phải chịu sự giám sát của chính quyền địa phương
trong thời gian bị áp dụng nên việc bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ được đảm bảo hơn, và như vậy quá trình điều
tra, truy tố, xét xử sẽ được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn.

- Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Đây là một trong những căn cứ làm cơ sở để áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với bị can, bị cáo. Căn cứ này mang tính chất phòng ngừa không để cho tội phạm
mới xảy ra. Theo đó việc dự báo khả năng bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội phải có
cơ sở chắc chắn, chẳng hạn thông qua việc nghiên cứu tài liệu, chứng cứ mà cơ quan
tiến hành tố tụng đã thu thập được để bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
là chính xác, khách quan.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đã rút ra những dấu hiệu cho phép nhận định
bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội như sau: bị can, bị cáo có ý thức chống đối chế độ
sâu sắc, phạm tội chuyên nghiệp, có tổ chức, là phần tử lưu manh, côn đồ, có nhiều
tiền án, tiền sự, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; bị can, bị cáo đã
có những hành vi xảo quyệt, hung hãn như đe dọa người tố cáo, đe dọa trả thù người
bị hại, đe dọa đồng bọn không thực hiện mệnh lệnh của y và có thể thực hiện sự đe
dọa đó; bị can, bị cáo đã thực hiện hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
phạm tội hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện bất cứ loại tội
phạm nào; bị can, bị cáo đã có hành vi kích động, xúi dục người khác phạm tội7. Vì
vậy nếu bị can, bị cáo có những dấu hiệu sẽ tiếp tục phạm tội trên thì việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn để hạn chế bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội là rất
cần thiết. Khi áp dụng căn cứ này cần phải phân biệt với căn cứ để kịp thời ngăn
chặn tội phạm. Vì cả hai căn cứ này đều nhằm mục đích là ngăn chặn không cho tội
phạm xảy ra. Thực chất hai căn cứ này có điểm khác nhau ở chổ: đối với căn cứ để
kịp thời ngăn chặn tội phạm thì nó được áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố
về hình sự (họ mới chỉ là những người đang chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội
hoặc đang thực hiện nhưng chưa hoàn thành), còn đối với căn cứ chứng tỏ bị can, bị
cáo sẽ tiếp tục phạm tội thì được áp dụng đối với bị can, bị cáo (họ là những người đã
bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử) mà có căn cứ cho
7 Ts. Trần Quang Tiệp, Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế Tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, năm 2005, tr. 61-62.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu


12

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội. Nhưng nhìn chung, đây chỉ là căn cứ để làm cơ sở cho
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung nên khi dùng căn cứ này để áp dụng
cho các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh hoặc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm chưa phát huy được hiệu quả. Nên khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo
sẽ tiếp tục phạm tội Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần phải áp dụng ngay
biện pháp ngăn chặn đối với họ và trong trường hợp này biện pháp ngăn chặn hữu
hiệu nhất cần áp dụng là biện pháp tạm giam. Tuy nhiên khi căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và tình trạng
tài sản của bị can, bị cáo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định
cho họ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế cho
biện pháp tạm giam. Vì khi áp dụng biện pháp này nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa
vụ đã cam đoan thì số tiền hoặc tài sản dùng để đặt sẽ bị sung quỹ Nhà nước, còn nếu
bị can, bị cáo thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ
được hoàn trả lại cho bị can, bị cáo. Do đó, vì không muốn số tiền hoặc tài sản mình
đã đặt không bị mất do sung quỹ Nhà nước mà bị can, bị cáo sẽ có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh hơn nghĩa vụ mà mình đã cam đoan, kể cả việc không thực hiện tội
phạm mới.
- Thứ tư, để bảo đảm thi hành án
Thi hành án là một giai đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự. Theo
đó, quá trình tố tụng hình sự là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn tố tụng hợp lại
thành một thể thống nhất. Trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố vụ án hình

sự, bị can ngày càng bị chứng minh theo hướng bất lợi. Tại giai đoạn xét xử, nếu tại
phiên tòa Tòa án kết án bị cáo theo hướng có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự thì
bản án đó phải được đảm bảo thi hành khi có hiệu luật pháp luật bằng biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, bản án kết tội được Tòa án đưa
ra chưa có hiệu lực thi hành ngay mà phải có một khoảng thời gian chờ ý kiến của
Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng có liên quan. Nếu xét thấy việc xét xử có sai
lầm, thiếu sót, việc đưa ra bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là thiếu chính xác, khách
quan, không đúng người đúng tội hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi của những người
tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị và người tham gia tố tụng có
quyền kháng cáo để bản án sơ thẩm được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm
chỉnh sửa khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có, đảm bảo bản án được đưa ra là
chính xác, khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật. Trong khoảng thời gian

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

chờ này, bản án chưa có hiệu lực pháp luật nên chưa được đưa ra thi hành, hình phạt
mà Tòa án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo chưa thể thực hiện được, chưa thể đưa bị
cáo đi chấp hành hình phạt8. Do đó nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm
không thể đạt được nếu chỉ dừng lại ở việc phát hiện, xử lý nhanh chóng và kịp thời
các hành vi phạm tội bằng bản án của Tòa án mà quan trọng là bản án của Tòa án đó
có được thi hành trên thực tế hay không. Vì vậy, để công tác thi hành án được bảo
đảm thi hành trên thực tế là rất quan trọng. Muốn đạt được yêu cầu trên, thì sự có mặt

của người bị kết án mang yếu tố quyết định nhất, do đó việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong trường hợp này là rất cần thiết. Khi đó, nếu có căn cứ cho rằng
người bị kết án sẽ không trốn tránh việc thi hành bản án của Tòa án thì có thể áp
dụng những biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc như là cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để bảo đảm cho công tác thi hành án
được thực thi có hiệu quả trên thực tế. Vì khi áp dụng, ba biện pháp này đều mang lại
hiệu quả trong việc bảo đảm bị can, bị cáo sẽ có mặt khi cơ quan có thẩm quyền yêu
cầu triệu tập họ để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án được tiến hành nhanh
chóng và thuận lợi. Đặc biệt, đối với các vụ án mà hành vi phạm tội có liên quan đến
tiền hoặc tài sản thì việc cho áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm sẽ giúp cho hoạt động thi hành án được thực thi thuận lợi hơn. Vì trong trường
hợp này, hành vi phạm tội của bị can, bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác
nên bị can, bị cáo phải có trách nhiệm trong việc hoàn trả hoặc bồi thường lại số tiền
hoặc tài sản cho những người bị thiệt hại này. Mặt khác, khi cho bị can, bị cáo áp
dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của mình khi cơ
quan có thẩm quyền yêu cầu thì bị can, bị cáo đã phải nộp một khoản tiền tương ứng
với mức độ của hành vi phạm tội và nếu bị can, bị cáo thực hiện đúng các nghĩa vụ
đã cam đoan thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ được hoàn trả lại cho bị can, bị cáo. Và
khi đó nếu bản án buộc bị can, bị cáo phải bồi thường cho người bị thiệt hại thì cơ
quan có thẩm quyền có thể dùng số tiền hoặc tài sản mà bị can, bị cáo đã đặt để bồi
thường cho người bị thiệt hại, do đó giúp cho hoạt động thi hành án được tiến hành
nhanh chóng và thuận lợi.

8 Ths. Mạc Giáng Châu - Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, học phần 1 - Những
vấn đề chung của Luật Tố tụng hình sự, năm 2010, tr.80-81.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

14


SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

1.2. Tầm quan trọng của các biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm bảo vệ an ninh Quốc
gia, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung
và các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm nói riêng có vai trò rất quan trọng. Vì khi áp dụng những biện pháp này
không những góp phần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, củng cố và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng và chống tội phạm, kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội có thể xảy
ra, bên cạnh đó vẫn đảm bảo tính dân chủ và khả năng thực tế của việc tôn trọng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể, thông qua việc áp dụng
các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm mang lại ý nghĩa thiết thực như sau:
1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự
Việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm trước hết là nhằm thỏa mãn các mục tiêu ngăn chặn. Cụ thể
tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Để kịp thời ngăn chặn tội
phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình
hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong
những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,

bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm". Do đó, việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn nói chung và các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng là nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm có
thể xảy ra hoặc không cho tội phạm tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội của mình.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp này còn góp phần hạn chế việc bị can, bị
cáo gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án.
Từ đó, giúp cho việc điều tra, giải quyết vụ án được tiến hành nhanh chóng và thuận
lợi.
Tuy việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

tài sản có giá trị để bảo đảm không nghiêm khắc bằng biện pháp tạm giữ, tạm giam
nhưng việc áp dụng các biện pháp này vẫn đảm bảo được sự có mặt của bị can, bị cáo
khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án cần triệu tập. Cụ thể, khi áp dụng
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo sẽ bị cấm đi khỏi nơi cư trú của mình,
bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế một số quyền tự do đi lại, tự do cư trú nhất định và khi đó
bị can, bị cáo sẽ được cơ quan có thẩm quyền giao cho chính quyền xã, phường, thị
trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để quản lý, theo dõi nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can,
bị cáo theo giấy triệu tập. Khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo sẽ được cá
nhân hoặc tổ chức dùng uy tín của mình đứng ra bảo lĩnh cho bị can, bị cáo được tại
ngoại. Bên cạnh đó, cá nhân hoặc tổ chức đứng ra bảo lĩnh sẽ đảm bảo bị can, bị cáo

sẽ không tiếp tục phạm tội và có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.
Còn khi áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, bị can, bị cáo
sẽ phải đặt một số tiền hoặc trị giá tài sản để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi
cơ quan có thẩm quyền cần triệu tập. Do đó, việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm vẫn đảm bảo được sự
có mặt của bị can, bị cáo khi cơ quan có thẩm quyền cần triệu tập. Từ đó hỗ trợ rất
nhiều cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng,
giúp cho quá trình giải quyết vụ án được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi và đạt hiệu
quả cao.
Ngoài ra, nếu lúc nào cũng áp dụng biện pháp tạm giam thì sẽ có trường hợp
làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án. Vì có nhiều trường hợp do sợ áp dụng
biện pháp tạm giam là sai nên Tòa án rất hạn chế tuyên bị cáo bị áp dụng biện pháp
tạm giam là vô tội mà thường trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Từ đó làm ảnh hưởng đến
quá trình giải quyết vụ án không được nhanh chóng và thuận lợi. Do đó, trong trường
hợp này, việc cho bị can, bị cáo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm có ý nghĩa trong việc hạn chế sức ép về
tâm lý trong việc xét xử của Tòa án. Từ đó đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh
chóng và thuận lợi hơn.
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đối với bị can, bị cáo
Việc quy định và áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh



Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

2003: "Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải
tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm
tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ
hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn
cần thiết nữa". Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong quá trình tố tụng
hình sự nói chung và việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản để bảo đảm nói riêng. Do đó, việc quy định và áp dụng các biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình, góp phần giải quyết vụ án được nhanh chóng, thuận lợi và hiệu
quả mà còn bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
(chẳng hạn như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú, quyền tự do
đi lại,...). Điều này thể hiện ở việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong công tác đấu tranh phòng và
chống tội phạm không những xuất phát từ việc tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được thuận lợi mà còn xuất phát từ sự tôn trọng các
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo (đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm).
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự chỉ được áp dụng khi thật sự cần
thiết. Do đó trong những trường hợp xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can,
bị cáo mà vẫn đảm bảo được rằng bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục phạm tội hoặc
không có biểu hiện có hành vi gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử thì cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho bị can, bị cáo được áp dụng

một trong các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ
quan có thẩm quyền. Tạo điều kiện cho bị can, bị cáo được tiếp tục cuộc sống sinh
hoạt với gia đình và xã hội, được tiếp tục lao động, học tập hoặc chữa trị bệnh (nếu
có). Từ đó góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - những
người chưa bị kết án. Bên cạnh đó, việc không giam giữ bị can, bị cáo mà cho bị can,
bị cáo được áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong Tố tụng hình sự Việt Nam

sản có giá trị để bảo đảm còn thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta dành cho
bị can, bị cáo. Có ý nghĩa trong việc hỗ trợ về mặt tâm lý cho bị can, bị cáo, tạo điều
kiện cho bị can, bị cáo ăn năn hối cải, từ đó có thái độ khai báo thành khẩn, không
gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Ngoài ra, việc cho bị can, bị cáo áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thay cho biện pháp tạm giam còn
có ý nghĩa trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong giai đoạn
xét xử. Vì có nhiều trường hợp Tòa án rất hạn chế cho bị cáo đã bị tạm giam được
hưởng án treo hoặc áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù như là cải tạo, không
giam giữ, phạt tiền hoặc cảnh cáo (mặc dù những bị cáo này có thể được cho áp dụng
những hình phạt này) mà khi đó Tòa án thường xử những bị cáo đó hình phạt tù bằng
với thời hạn mà bị cáo đã bị tạm giam9. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền

và lợi ích chính đáng của người bị kết án. Do đó, nếu trong những trường hợp này mà
cho bị can, bị cáo áp dụng một trong các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thay cho biện pháp tạm giam thì sẽ hạn chế
được trường hợp nêu trên, giúp đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
1.2.3. Ảnh hƣởng của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đối với cộng đồng
Quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và các biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng xuất
phát từ nguyên tắc phòng ngừa chung, để từ đó răn đe, giáo dục cộng đồng, góp phần
hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra.
Bên cạnh đó, việc không giam giữ bị can, bị cáo mà cho bị can, bị cáo được áp
dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm để bị can, bị cáo được tại ngoại bên ngoài thể hiện chính sách nhân đạo của
Nhà nước ta, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo được tiếp tục sinh hoạt với gia đình và
xã hội. Mặt khác, khi bị can, bị cáo được tại ngoại bên ngoài, bị can, bị cáo vẫn có
thể tiếp tục làm việc, tạo thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Ngoài ra, việc cho bị can, bị cáo áp dụng biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn góp phần
làm tăng lòng tin, sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh
9 Lại Văn Trình, Tăng cường bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân trong áp dụng các biện pháp
ngăn chặn ở giai đoạn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, năm 2006.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


Biện pháp cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

trong Tố tụng hình sự Việt Nam

phòng và chống tội phạm, từ đó có thể lôi kéo quần chúng nhân dân tham gia vào
công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả.
Ngoài ra, việc không giam giữ bị can, bị cáo mà cho bị can, bị cáo áp dụng biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn
có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước trong
công tác giam giữ người phạm tội (như phải xây dựng cơ sở giam giữ, thuê mướn lực
lượng quản lý và phục vụ cho người bị giam giữ) và góp phần làm giảm tình trạng
giam giữ người quá tải trong các trại tạm giam và nhà tạm giữ trong tình hình hiện
nay.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Trần Thị Tuyết Trinh


×