Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP LAO ĐỘNG là NGƯỜI KHUYẾT tật THỰC TIỄN áp DỤNG tại hội NGƯỜI KHUYẾT tật THÀNH PHỐ cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ 2009-2013


ĐỀ TÀI:

LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI HỘI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

VÕ HOÀNG YẾN

Dương Phương Thảo

Bộ môn: Luật Kinh doanh – Thương mại

MSSV: 5095371
Lớp: Luật Tư pháp 1

Cần Thơ, tháng 12/2012



Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

MỤC LỤC

MỤC LỤC .............................................................................................ii
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG
LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT......................................................................4
1.1. Một số khái niệm..............................................................................................4
1.1.1. Khái niệm về người khuyết tật....................................................................4
1.1.2. Khái niệm về lao động ................................................................................7
1.1.3. Khái niệm về người lao động......................................................................8
1.1.4. Khái niệm về người lao động là người khuyết tật ......................................9

CHƯƠNG 2.........................................................................................19
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG ............................19
LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT...............................................................19
2.1. Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước về lao đông là người khuyết tật ........19
2.2. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với lao động là người khuyết
tật ..........................................................................................................................22
2.3. Chế độ ưu đãi đối với lao động là người khuyết tật .....................................23
2.3.1. Chế độ ưu đãi về việc làm, học nghề, dạy nghề và tuyển dụng ................23
2.3.1.1. Về việc làm .........................................................................................23
2.3.1.2. Về học nghề và dạy nghề....................................................................26
2.3.1.3. Về tuyển dụng.....................................................................................28
2.3.2. Chế độ ưu đãi về thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, an
toàn lao động và vệ sinh lao động ......................................................................30
2.3.2.1. Về thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi .........................................30
2.3.2.2. Về tiền lương ......................................................................................34
2.3.2.3. Về an toàn lao động và vệ sinh lao động............................................37

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang ii

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

2.3.3. Về bảo trợ xã hội ......................................................................................38
2.3.3.1. Trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng .......................38
2.3.3.2. Trách nhiệm của cơ sở chăm sóc người khuyết tật...........................39
2.4. Chế độ ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho người
khuyết tật ..............................................................................................................40
2.4.1. Chế độ ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho người
khuyết tật............................................................................................................40
2.4.2. Chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động là người
khuyết tật............................................................................................................41

CHƯƠNG 3.........................................................................................44
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI HỘI NGƯỜI KHUYẾT TẬT THÀNH
PHỐ CẦN THƠ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ....................................44
3.1. Thực trạng về lao động là người khuyết tật tại Hội người khuyết tật Cần
Thơ ........................................................................................................................44
3.1.1. Vấn đề học nghề, dạy nghề và việc làm....................................................45
3.1.2. Vấn đề tiền lương và thu nhập .................................................................46
3.1.3. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi .......................................................47
3.2. Một số kiến nghị.............................................................................................48
3.2.1. Đối với cơ quan Nhà nước .......................................................................48
3.2.2. Đối với người sử dụng lao động ...............................................................52

3.2.3. Đối với bản thân người khuyết tật............................................................54

KẾT LUẬN .........................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................ 61

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang iii

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội ngày nay, để tìm được việc làm phù hợp và ổn định không phải là
chuyện dễ. Người không khuyết tật tìm việc đã khó, người khuyết tật tìm việc càng
khó hơn. Hành lang pháp lý dành cho người khuyết tật tương đối đầy đủ như: chính
sách ưu đãi, hỗ trợ vốn, ưu tiên địa điểm thuận lợi, miễn giảm thuế cho các cơ sở dạy
nghề, doanh nghiệp. Chính sách ban hành khuyến khích doanh nghiệp nhận người
khuyết tật vào làm việc. Tuy nhiên, do sự khiếm khuyết về mặt cơ thể, hạn chế về sức
khỏe của lao động khuyết tật mà người sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp
vẫn còn e ngại, kỳ thị, không tin vào khả năng của người khuyết tật nên họ hạn chế
nhận lao động khuyết tật vào làm việc. Vì thế, mặc dù nhiều người khuyết tật có đủ
khả năng, đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng nhưng họ vẫn không có việc làm. Một bộ
phận người khuyết tật có được việc làm thì thường chịu thiệt thòi về các vấn đề như:
tiền lương, vị trí công việc cũng như khả năng thăng tiến rất thấp. Chính vì vậy mà
Đảng và Nhà nước đã dành cho họ những ưu đãi nhất định về học nghề, việc làm, tiền
lương, bảo trợ xã hội…, những ưu đãi này không phải là đặc quyền đặc lợi, mà đây

chính là những chính sách thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, tạo sự bình
đẳng cho người khuyết tật khi tham gia vào quan hệ lao động, hạn chế thấp nhất những
tổn thất về tinh thần và vật chất cho họ.
Luật Người khuyết tật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Đây
là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá đầy đủ và toàn diện các quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật nhằm tạo môi
trường pháp lý, điều kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với người khuyết tật
theo hướng xây dựng các chính sách đối với người khuyết tật trên cơ sở tiếp cận và
bảo đảm quyền của người khuyết tật. Tuy nhiên, quy định của pháp luật vẫn còn nhiều
điểm chưa phù hợp với thực tế, việc áp dụng còn nhiều bất cập nên đã gây ra không ít
khó khăn cho người khuyết tật khi tham gia vào quan hệ lao động. Đối với người
khuyết tật, ngoài những quy định chung về quyền, nghĩa vụ như mọi công dân khác,
cần thiết phải có hành lang pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích và các chính sách dành riêng
cho họ.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp
dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ” là rất cần thiết nên người viết
đã chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp cho mình.

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 1

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về lao
động là người khuyết tật trong quan hệ lao động. Giúp cho người sử dụng lao động và

người lao động là người khuyết tật tiếp cận được các quy định của pháp luật liên quan
đến lao động là người khuyết tật. Từ đó giúp họ hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia vào quan hệ lao động, giúp cho thị trường lao động vận hành ngày
một tốt hơn.
Trên cơ sở đó người viết cũng đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về lao động là người khuyết tật, nâng cao vai trò quản lý của Nhà
nước, hiệu quả của việc áp dụng những quy định của pháp luật vào thực tiễn, giúp cho
việc bảo vệ quyền lợi của người lao động khuyết tật ngày một tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người
khuyết tật Thành phố Cần Thơ” là vấn đề rộng và phức tạp. Trong khuôn khổ cử
nhân luật, Luận văn chỉ tập trung nghiên phân tích một số nội dung cơ bản về các vấn
đề pháp lý liên quan đến lao động là người khuyết tật, trên cơ sở đó đề xuất những
phương hướng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động là người khuyết
tật, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, hiệu quả của việc áp dụng những quy định
của pháp luật vào thực tiễn, giúp cho việc bảo vệ quyền lợi của lao động là người
khuyết tật ngày một tốt hơn. Do giới hạn về khả năng, điều kiện và thời gian nên đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến lao động người khuyết tật
trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu cụ thể những
quy định của pháp luật cũ trước đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế xã hội chủ nghĩa; các quan điểm chỉ đạo của Ðảng
cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới đất nước, về xây dựng Nhà nước pháp quyền
thể hiện trong các Nghị quyết Ðại hội Ðảng và các Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành
trung ương Ðảng cũng như Hiến pháp và các văn bản của Nhà nước.
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp
nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp so sánh, phương pháp phỏng vấn trực tiếp và phương pháp phân tích luật viết.


GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 2

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về lao động là người khuyết tật
Trong chương này, người viết tập trung phân tích về cơ sở lý luận về lao động là
người khuyết tật, mục đích và vai trò của việc sử dụng lao động là người khuyết tật.
Chương 2. Quy định của pháp luật về lao động là người khuyết tật
Chương này, người viết nghiên cứu về những quy định của pháp luật lao động
hiện hành về các vấn đề: việc làm, học nghề và dạy nghề, tuyển dụng… đối với lao
động là người khuyết tật. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước, của người sử dụng lao động đối với lao động là người khuyết tật.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ
và một số kiến nghị
Sau khi phân tích những quy định của pháp luật về những vấn đề cơ bản về lao
động khuyết tật, người viết sẽ đưa ra những hạn chế của luật khi áp dụng vào thực tiễn
và sẽ kiến nghị một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp
luật về lao động là người khuyết tật.

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 3


SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG
LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Người khuyết tật là vấn đề xã hội tồn tại lâu dài, số lượng ngày càng tăng, là mối
quan tâm lớn của mọi quốc gia. Hiện hầu hết các nước trên thế giới đều có chính sách
hỗ trợ đối với người khuyết tật, trong đó có Việt Nam.
Lao động là người khuyết tật là những đối tượng lao động đặc thù được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm rất nhiều về mọi mặt như: Giáo dục, học nghề, việc làm, văn
hóa… nhưng trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề lao động và việc làm. Bộ luật Lao
động nước ta đã dành hẳn chương XI từ Điều 125 đến Điều 128 quy định những vấn
đề liên quan đến người khuyết tật. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm giúp đỡ người
khuyết tật, một hệ thống Luật và các chính sách trợ giúp đối với người khuyết tật được
ban hành, đặc biệt là các chính sách về dạy nghề và việc làm. Ở chương này người viết
tập chung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung liên quan đến lao động là người khuyết
tật như: các khái niệm liên quan đến lao động là người khuyết tật, vai trò của người
khuyết tật trong xã hội, mục đích của việc sử dụng lao động là người khuyết tật và
cuối cùng là sự cần thiết ban hành pháp luật riêng đối với lao động là người khuyết tật.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về người khuyết tật
Theo quan niệm của tổ chức y tế thế giới (WHO) thì có ba thuật ngữ có liên quan
đến thuật ngữ tàn tật, khuyết tật đó là Khiếm khuyết, Giảm khả năng và Tàn tật.
Khiếm khuyết: thuật ngữ này chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình
thường một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khiếm khuyết có thể
là hậu quả của bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường hoặc bẩm sinh1.

Giảm khả năng: thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ cá nhân là tình trạng giảm
hoặc mất khả năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất chức năng
(vận động, nói, nghe, nhìn hoặc giao tiếp).
Tàn tật: thuật ngữ này hàm ý nói ở cấp độ xã hội là những thiệt thòi mà một
người phải chịu do bị khuyết tật. Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị
khiếm khuyết hoặc giảm khả năng với những rào cản trong môi trường xã hội, văn
hoá hoặc vật chất, làm cho cá nhân này không thể tham gia một cách bình đẳng vào
cuộc sống cộng đồng chung hoặc hoàn thành một vai trò bình thường.
1

Trần Thị Ngọc Lan, Tổ chức Y tế thế giới xuất bản hướng dẫn về phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho
người khuyết tật, website:
http://203.162.20.210/homebyt/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=222&cat=1908&ID=8691 [ngày truy cập:
31/3/2011]

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 4

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

Như vậy, trên thế giới quan niệm về người khuyết tật cơ bản là giống nhau về bản chất
vấn đề, nhưng cách diễn đạt cũng không hoàn toàn giống nhau.
Theo Công ước về quyền của người khuyết tật ngày 06 tháng 12 năm 2006, của
Đại hội đồng Liên hợp quốc thì Người khuyết tật bao gồm: “những người bị suy giảm
về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua
lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của

người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”2.
Theo đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự
phát triển và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết tật vào xã hội và
các mục đích khác”. Được thông qua bởi Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc
hội Phillipines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991; quy định:
“Người khuyết tật là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm
khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt động được coi là
bình thường”3.
Cùng với khái niệm về người khuyết tật, đạo luật số 7277 của Philipine còn giải
thích một số thuật ngữ khác có liên quan đến người khuyết tật, cụ thể như sau:
“Sự khiếm khuyết là sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng, hay cấu trúc cơ
thể, tâm lý và hành vi. Khuyết tật có nghĩa là sự khiếm khuyết về vận động hay trí não
có ảnh hưởng đáng kể đến một hoặc nhiều chức năng vận động, tâm thần của một cá
nhân hay các hoạt động của cá nhân, hoặc được coi là có khiếm khuyết”.
Khuyết tật còn được hiểu theo nghĩa là chỉ sự không thuận lợi của một cá nhân
do khuyết tật gây nên và hạn chế hay ngăn cản các chức năng hay hoạt động được coi
là bình thường theo giới tính và độ tuổi của mỗi cá nhân. Trên thực tế hiện nay ở nước
ta đã tồn tại nhiều quan niệm về người khuyết tật hoặc người tàn tật, vì mỗi một quan
niệm đều đứng trên một góc nhìn khác nhau và có mục đích riêng.
Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998, định nghĩa về người tàn tật như
sau: “Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm
khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tàn
tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp nhiều khó khăn”.
Quy định của Pháp lệnh về người tàn tật tiếp cận người khuyết tật theo quan
điểm y tế. Hiện nay, quốc tế đã chuyển sang mô hình tiếp cận xã hội để nhìn nhận sự
khuyết tật và người khuyết tật. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
2

Công ước về quyền người khuyết tật của Liên hiệp quốc năm 2006

Ngô Minh Tâm, Sự đóng góp của những người khuyết tật cho xã hội hôm nay, website:
[ngày truy cập: 16/11/2010]
3

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 5

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011, chính
thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái niệm “tàn tật” hiện hành, phù
hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy
định của Luật Người khuyết tật thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện
dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Theo cách hiểu này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết tật
bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do tai nạn, thương binh, bệnh binh... Như vậy, Luật
Người khuyết tật đã đưa ra khái niệm người khuyết tật dựa vào mô hình xã hội và phù
hợp với Công ước về quyền của người khuyết tật. Từ cách tiếp cận này, Luật Người
khuyết tật cũng phân loại dạng tật và mức độ khuyết tật4. Đây là một điểm mới của
Luật so với Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Sự phân loại này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật. Thực
tế cho thấy, người khuyết tật khó có cơ hội tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã
hội do những khiếm khuyết về cơ thể hay chức năng, song khó khăn đó sẽ tăng thêm
do ảnh hưởng bởi những rào cản khác trong xã hội. Do đó, chính sách đối với người
khuyết tật không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng mà còn

phải tiến tới xoá bỏ các rào cản đối với người khuyết tật nhằm nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, cộng đồng và của mọi cá nhân đối với
người khuyết tật, giảm thiểu hoặc xoá bỏ những rào cản, giúp người khuyết tật chủ
động hòa nhập, có cơ hội tham gia một cách bình đẳng vào các hoạt động của xã hội.
Một điểm đáng lưu ý mà Luật người khuyết tật cần quy định cụ thể đó là vấn đề
khuyết tật và giới. Các nhà lập pháp và hoạch định chính sách ngày càng nhận thức rõ
một điều là so với nam giới, nữ giới thường bị yếu thế, chịu nhiều thiệt thòi hơn trong
việc hoà nhập xã hội và bị phân biệt đối xử, bất kể năng lực làm việc của họ là như thế
nào. Điều này cũng xảy ra đúng như vậy với người khuyết tật trên thế giới mà phần
lớn trong số họ là phụ nữ. Phụ nữ khuyết tật còn bị phân biệt đối xử nặng nề hơn vì họ
là phụ nữ và lại bị khuyết tật. Khi phụ nữ khuyết tật làm việc, họ thường phải đối mặt
với những bất công trong tuyển dụng và khả năng thăng tiến, bất công trong đào tạo và
đào tạo lại, bị trả lương thấp trong khi phải làm như mọi người và bị tách biệt với
những người khác5. Ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ ít được tham gia hơn vào các
chương trình đào tạo nghề và tái thích ứng nghề nghiệp, và ngay cả khi đã qua đào tạo
4

Điều 3 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định các dạng tật: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói;
khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mức độ khuyết tật gồm: khuyết
tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng và khuyết tật nhẹ.
5

O' Reilly, Quyền có việc làm xứng đáng của người khuyết tật, Tài liệu về kỹ năng,

năm 2003, trang 14

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 6


SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

họ vẫn có nhiều khả năng bị thất nghiệp hơn hoặc chỉ được nhận làm một phần thời
gian. Người ta vẫn thường viện ra những quan điểm cố hữu về giới và giới tính để bào
chữa cho việc tuyển dụng người khuyết tật nam giới, hoặc cho hành vi tách lao động
nữ ra khỏi một số loại công việc nhất định một cách không hợp lý với lý do tránh gây
tổn thương. Trong quá trình xây dựng pháp luật, các nhà lập pháp và hoạch định chính
sách quốc gia cần phải hết sức thận trọng và quan tâm đến khía cạnh giới trong vấn đề
người khuyết tật, trong pháp luật và chính sách về người khuyết tật để đảm bảo mọi
người khuyết tật, kể cả nam lẫn nữ, đều được hưởng công bằng từ luật pháp và chính
sách này.
1.1.2. Khái niệm về lao động
Theo từ điển Tiếng Việt, lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm
tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội6.
Theo quan niệm của kinh tế chính trị: lao động là hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình.
Lao động là sự vận dụng của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải chất, quá trình
kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm và dịch vụ7. Tóm lại
lao động là hoạt động hữu ích của con người nhằm sáng tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cần thiết để thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân, của một nhóm người, của cả
doanh nghiệp, nói chung là của toàn xã hội. Vậy nên việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp lý về đào tạo, trong đó cần quy định chi tiết hơn nữa về vấn đề lao
động và việc làm nói chung và đối với người lao động khuyết tật nói riêng. Lao động
mang tính tích cực và quyết định trong quá trình sản xuất, nhờ có lao động mà con
người ngày càng được phát triển hoàn thiện, thế giới tự nhiên được cải tạo, xã hội loài
người tồn tại và phát triển. Nếu không có hoạt động lao động thì không có việc làm,
yếu tố lao động trong việc làm khác với sự lao động thông thường ở điểm nó phải có

tính hệ thống, tính thường xuyên và tính nghề nghiệp. “Nhà nước khuyến khích việc
quản lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong doanh nghiệp và mọi biện pháp kể cả
việc trích thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp, làm cho lao động quan tâm đến hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý lao động, sản xuất của
doanh nghiệp”8.
Lao động là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người nhằm tạo ra một
giá trị sử dụng nhất định. Nhờ có lao động mà con người tách mình ra khỏi thế giới
6

Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt của viện Ngôn Ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, năm 2005, trang 545
Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Đình Kháng và Lê Danh Tốn, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 2007 , trang 76
8
Điều 11 Bộ luật Lao động năm 1994
7

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 7

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

động vật, đồng thời biết vận dụng quy luật của thiên nhiên để chinh phục lại thiên
nhiên. Như vậy, lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Nhận thức được tầm quan
trọng của lao động nên Nhà nước luôn dành nhiều chính sách ưu tiên để khuyến khích

lao động, đặc biệt là dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động.
1.1.3. Khái niệm về người lao động
Điều 55 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “Lao động
là quyền, nghĩa vụ của công dân”. Như vậy, công dân là chủ thể của quan hệ pháp luật
lao động.
Tuy nhiên, không phải mọi công dân đều trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật
lao động với tư cách là người lao động. Muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật
lao động thì công dân hoặc cá nhân ấy phải thỏa mãn những điều kiện nhất định do
pháp luật quy định, những điều kiện ấy trong khoa học pháp lý gọi là năng lực pháp
luật lao động và năng lực hành vi lao động.
Năng lực pháp luật lao động của công dân là khả năng mà pháp luật quy định
hay ghi nhận cho công dân quyền có việc làm, được việc làm, được hưởng quyền và
có thể thực hiện nghĩa vụ của người lao động. Các quy định này có thể trở thành thực
tế hay không lại phụ thuộc vào khả năng của mỗi công dân.
Năng lực hành vi lao động của công dân là khả năng bằng chính hành vi của bản
thân họ tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật lao động, tự hoàn thành mọi nhiệm
vụ, tạo ra và thực hiện quyền, hưởng mọi quyền lợi của người lao động.
Năng lực hành vi lao động được thể hiện trên hai yếu tố có tính chất điều kiện đó
là thể lực và trí lực. Điều kiện thể lực mà công dân phải có đó là tình trạng sức khỏe
bình thường, có thể thực hiện được một công việc nhất định theo yêu cầu của xã hội.
Còn điều kiện trí lực là khả năng nhận thức của công dân đối với hành vi lao động mà
họ thực hiện, đối với nhiệm vụ lao động của họ hay mục đích công việc họ phải làm.
Để có được hai điều kiện trí lực và thể lực thì con người phải trải qua một thời gian để
phát triển cơ thể, giáo dục, học tập và tích lũy9. Nói cách khác, phải đạt được một số
tuổi nhất định và phát triển bình thường thì công dân mới được xem là có năng lực
hành vi lao động.
Bộ luật Lao động năm 1994 quy định: “Người lao động là người ít nhất đủ 15
tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động”10. Như vậy nếu đủ điều
kiện đó thì họ có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật lao động phù hợp. Tuy
9


Diệp Thành Nguyên, Giáo trình luật lao động cơ bản, Tủ sách Đại học Cần Thơ, năm 2011, trang 13
Điều 6 Bộ luật lao động năm 1994

10

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 8

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

nhiên, đối với một số ngành nghề và công việc (các nghề và công việc này được Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội quy định cụ thể) được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi
vào làm việc nhưng phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ
của trẻ em đó thì việc giao kết hợp đồng mới có giá trị. Trường hợp này chủ thể lao
động (trẻ em) được xem là người có năng lực hành vi không đầy đủ, năng lực hành vi
lao động một phần.
Ngoài ra, có một số công dân bị hạn chế năng lực pháp luật như: Những người bị
bị tù giam, bị cấm giữ một số chức vụ trong công tác nhất định do lỗi của họ. Khi đó,
họ được xem là những người bị hạn chế năng lực pháp luật lao động.
Ngoài các đối tượng là công dân Việt Nam, người nước ngoài cũng có thể là chủ
thể của quan hệ pháp luật lao động được ghi nhận tại Điều 133 Bộ luật Lao động nước
ta. Ngoài những điều kiện giống như công dân Việt Nam thì họ còn phải thỏa mãn một
số điều kiện nhất định để có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật lao động11.
Theo đó, người lao động nước ngoài phải có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước
về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp; thời hạn giấy phép lao động

theo hợp đồng lao động, nhưng không quá 36 tháng và có thể được gia hạn theo đề
nghị của người sử dụng lao động.
Tóm lại điều kiện chung để công dân được xem là chủ thể của quan hệ pháp luật
lao động (người lao động) là phải có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi
lao động. Tuy nhiên cần lưu ý năng lực pháp luật và năng lực hành vi nói chung hay
năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động nói riêng điều xuất phát trên
cơ sở quy định của pháp luật.
1.1.4. Khái niệm về người lao động là người khuyết tật
Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm
khuyết. Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm
khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ. Còn
theo quan điểm của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật, người khuyết tật trở thành tàn
tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như
thành viên khác12. Vì vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương
tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật
sống.
Đối với đa số người Việt Nam, khuyết tật và tàn tật là hai từ để chỉ cùng một
khái niệm, từ năm 2009 trở về trước người ta vẫn dùng song song chúng trên cả
phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Trong các pháp lệnh trước
11

Diệp Thành Nguyên, Giáo trình luật lao động cơ bản, Tủ sách Đại học Cần Thơ, năm 2011, trang 13, trang 14
Võ Thị Hoàng Yến, Tàn hay khuyết, website: />[ngày truy cập: 09/6/2009]
12

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 9

SVTH: Dương Phương Thảo



Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

đây của nhà nước Việt Nam, tàn tật là cụm từ được chính thức sử dụng, song theo dự
thảo năm 2009, từ khuyết tật nhiều khả năng sẽ được dùng để thay thế từ tàn tật trong
các bộ luật. Năm 2010 Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ “người
khuyết tật” thay cho “tàn tật” trong các bộ luật ban hành có liên quan, phù hợp với tinh
thần của Công ước về quyền của người khuyết tật. Thông thường từ khuyết tật được
cho là mang sắc thái tình cảm, ý nghĩa tốt hơn là từ tàn tật. Người ta cho rằng từ “tàn”
trong cụm từ tàn tật gợi đến hình ảnh tiêu cực, tạo cảm giác không còn khả năng gì,
không còn tương lai và điều đó ảnh hưởng không tốt đến nỗ lực phấn đấu vượt khó
khăn. Từ “khuyết” mang nghĩa suy giảm chức năng nhưng vẫn có khả năng phục hồi,
vẫn còn hy vọng. Ngược lại cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ là các tên gọi, các nhãn
mác cho khái niệm do vậy không cần phải quá câu nệ, cốt yếu là thái độ và hành vi
thực tế. Tuy nhiên xu hướng chung được khuyến nghị là sử dụng từ khuyết tật thay
cho từ tàn tật. Trong cuộc hội thảo do Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ
người tàn tật Việt Nam (NCCD) và Tổ chức Cứu trợ và Phát triển (CRS) thực hiện thì
có đến 17 trên tổng số 19 ý kiến cho rằng nên thay cụm từ tàn tật bằng khuyết tật.
Ngoài ra bản thân những người có khiếm khuyết cũng muốn mình được gọi bằng cụm
từ người khuyết tật hơn.
Theo Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hiệp quốc năm 2006,
“Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay
giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản
có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ
sở bình đẳng với những người khác”.
“Ở Úc, Luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật năm 1992 có quy định
về các trường hợp người đang mang khuyết tật tại thời điểm hiện tại, người đã mang
khuyết tật mà hiện giờ khuyết tật đã hết, người trong tương lai có thể bị khuyết tật
hoặc người bị coi là có khuyết tật.

Ở Đức, Sách số chín của Bộ Luật Xã hội định nghĩa người khuyết tật là người có
các chức năng về thể lực, trí lực, hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với
người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là
nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội.
Luật Bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa người khuyết tật là người bị
suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều
lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát triển trong
nghề nghiệp”13.

13

Hà Đình Bốn, Đặc sản tuyên truyền pháp luật số 5 chủ đề Luật Người khuyết tật, Tài liệu hướng dẫn kỹ năng,
Bộ lao động – Thương binh và Xã hội năm 2010, trang 6

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 10

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

Vì thế, qua nhiều lần thảo luận Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội thống
nhất với đề xuất của Chính phủ về việc lấy tên luật là Luật người khuyết tật thay vì lấy
tên là Luật người tàn tật. Tên gọi Luật người khuyết tật mang đậm tính nhân văn, phù
hợp với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết và
phù hợp với xu hướng nhìn nhận của thế giới. Tuy nhiên Thường trực Ủy ban cho rằng
“người tàn tật” và “người khuyết tật” là hai khái niệm khác nhau và tên gọi của luật có
liên quan mật thiết đến phạm vi điều chỉnh cũng như chính sách và khả năng tài chính,

nguồn lực thực hiện14.
Như vậy, dùng từ “khuyết tật” thay cho từ tàn tật sẽ mang tính nhân văn sâu sắc
và mang tính xã hội nhiều hơn, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của cộng đồng
người khuyết tật.
Khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật quy định: “Người khuyết tật là người bị
khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu
hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Từ những phân tích về người khuyết tật và khái niệm người lao động ta có khái
niệm về người lao động khuyết tật “Lao động là người khuyết tật là người lao động
không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới dạng tật khác nhau, bị suy giảm khả năng lao động
từ 21% trở lên, được Hội đồng giám định y khoa hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền xác
nhận theo quy định của Bộ y tế”15.
1.2. Vị trí, vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội
Theo thống kê của Uỷ ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(ESCAP), trên thế giới có khoảng 650 triệu người khuyết tật, chiếm tỷ lệ trên 10% dân
số thế giới; đa phần người khuyết tật sống trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn;
nhưng với sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội và Nhà nước, người khuyết tật
vẫn chủ động vươn lên trong cuộc sống, hoà nhập cộng đồng và khẳng định được vai
trò của mình trong gia đình và xã hội16.
Người khuyết tật cũng ý thức được họ là một bộ phận cấu thành của xã hội
không thể tách rời và họ cũng có trách nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động
14

Ủy ban về các vấn đề văn hóa xã hội, Báo cáo Thẩm tra sơ bộ dự án Luật người tàn tật của Ủy ban về các vấn
đề văn hóa xã hội- Quốc hội khóa XII số 1624/BC-UBXH12, ngày 16 tháng 9 năm 2009
15
Điều 1 Nghị định 116/2004NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/4/2004 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 81/CP ngày 23/11/1995
16

Dương Phương Hạnh, Tổ chức Quốc tế của và vì người khuyết tật Châu Á Thái Bình Dương, website:
[ngày truy
cập: 12/10/2009]

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 11

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

của cồng đồng và đóng góp công sức của mình vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và cũng có quyền được hưởng đầy đủ những thành quả phát
triển của nhân loại. Tuy vậy, không phải tất cả những người khuyết tật đều ý thức
được điều đó, cũng có một bộ phận người khuyết tật nặng họ luôn luôn trong trạng thái
tự ty, mặc cảm với số phận kém may mắn và phó mặc số phận cho trời quyết định và
chỉ biết sống dựa vào gia đình và sự trợ giúp của Nhà nước.
Đa phần người khuyết tật cũng ý thức được những khó khăn trong cuộc sống
thường nhật hàng ngày và những rào cản trong cuộc sống xã hội; nhưng với họ những
khó khăn đó không làm họ nản chí mà lại thôi thúc họ quyết tâm hơn vượt qua khó
khăn của hoàn cảnh để tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, trước hết là để nuôi
sống bản thân họ và đóng góp vào thu nhập của gia đình và sâu xa hơn là đóng góp
vào sự phát triển chung của xã hội. Hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội của các
quốc gia đều có sự tham gia của người khuyết tật, họ có thể là công chức, viên chức,
cán bộ, những người làm công ăn lương trong các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội hoặc làm người chủ doanh nghiệp, người chủ trang trại, hoặc cũng có
thể là những người nông dân, những người thợ thủ công. Nhiều tấm gương tiêu biểu về
người khuyết tật có ý chí vượt qua khó khăn của số phận trở thành ông chủ doanh
nghiệp đồ gỗ gia dụng, doanh nghiệp mây tre đan... họ không những tạo được công ăn

việc làm cho chính họ mà còn tạo công ăn việc làm cho háng trăm người khác; cũng
có những người khuyết tật đã trở thành những nhà nghiên cứu thiết kế thành công
bóng điện cao áp công xuất nhỏ đã tiết kiệm cho người sử dụng trong quá trình sử
dụng điện hàng chục tỷ đồng một năm.
Cộng đồng quốc tế cũng công nhận những giá trí đóng góp và tiền năng to lớn
của người khuyết tật trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia. Ngoại
trừ những người khuyết tật nặng không còn khả năng lao động, còn lại hầu hết người
khuyết tật vẫn tham gia hoạt động kinh tế và xã hội và họ đã có những đóng góp đáng
kể vào quá trình phát triển của nhân loài.
Trong lịch sử phát triển của nhân loài có nhiều người khuyết tật đã có những
đóng góp to lớn cho sự phát triển của các quốc gia, điển hình như Tổng thống Mỹ
Ruzeven hoặc chủ tịch các tập đoàn kinh tế lớn đa quốc gia của Nhật Bản. Ngay ở
nước ta rất nhiều người là người khuyết tật vẫn đảm nhiệm các chức danh quan trọng
trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và họ đã thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, và có những đóng góp cống hiến đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Người khuyết tật cũng tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học,
văn hoá thể thao và các hoạt động xã hội khác. Với sự trợ giúp của gia đình, cộng
đồng, xã hội và nhà nước nhiều người khuyết tật cũng đã gặt hái được những thành
GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 12

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

công trong phong trào văn hoá thể thao và trong các kỳ đại hội thể thao người khuyết
tật khu vực và thế giới được tổ chức thường niên 5 năm một lần.
Ở các quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì người khuyết tật càng

được tạo cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế và các hoạt động xã hội một cách
đầy đủ và hiệu quả như ở Nhật Bản, Mỹ và các nước Tây Âu. Ngược lại, ở các quốc
gia đang phát triển và các quốc gia được xếp vào nhóm nước nghèo thì cơ hội tham gia
vào các hoạt động kinh tế - xã hội gặp nhiều rào cản hơn; các rào cản này bao gồm:
Các rào cản về mặt tinh thần như sự phân biệt đối xử của xã hội về cơ hội việc
làm, cơ hội thăng tiến, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, cơ hội tiếp cận trường học,
và sự mặc cảm và tự ty của chính người khuyết tật;
Rào cản về mặt vật chất: Điều kiện cơ sở vật chất không cho phép họ tiếp cận và
tham gia đầy đủ như không tiếp cận được giao thông công cộng, không tiếp cận được
các công sở, các công trình phúc lợi xã hội, trường học, bệnh viện, công trình nhà ở...;
Rào cản về thể chế: Như việc Nhà nước chưa có nhiều điều luật quy định về
chống phân biệt đối xử về cơ hội việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội hoặc chính sách
phúc lợi xã hội chưa đáp được những nhu cầu cơ bản tối thiểu của người khuyết tật, để
họ có cơ hội tham gia các hoạt động xã hội đầy đủ và hiệu quả hơn, mặc dù các quốc
gia đều quyết tâm hướng đến một xã hội không rào cản để người khuyết tật có cơ hội
tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội như những nguời bình thường.
Về mặt luật pháp, một số quốc gia cũng quy định trách nhiệm của người khuyết
tật như: “Nhà nước khích lệ người khuyết tật thể hiện tinh thần tự trọng, sự tự tin, tinh
thần tự lực và có đóng góp xây dựng xã hội. Người khuyết tật cần phải tuân thủ luật
pháp, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, tôn trọng đạo đức xã hội”17.
Như vậy, người khuyết tật không phải là gánh nặng của xã hội, họ cũng góp
phần quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Lao động người khuyết tật là
nguồn nhân lực đầy tiềm năng mà các doanh nghiệp đã bỏ qua. Vì thế, tạo việc làm
cho người khuyết tật là việc làm có ý nghĩa, góp phần đưa nền kinh tế phát triển và
nâng cao vị thế của người khuyết tật trong xã hội.
1.3. Mục đích của việc sử dụng lao động là người khuyết tật
Có thể nói mối liên hệ giữa khuyết tật, nghèo đói và tình trạng bị cô lập với xã
hội là không thể phủ nhận. Việc từ chối các cơ hội việc làm công bằng cho người
khuyết tật chính là một trong những nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự nghèo đói và tình
trạng bị phân biệt đối xử cho nhiều trong số những người khuyết tật. Có nhiều bằng

chứng cho thấy người khuyết tật dễ vấp phải những bất lợi, bị đứng ngoài lề và bị phân
17

Xuân Vũ, Sửa luật để tăng cơ hội vào đại học với người khuyết tật, website: [ngày truy cập: 22/12/2011]

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 13

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

biệt đối xử trên thị trường lao động và cả ở những nơi khác nữa. Hậu quả là tỉ lệ người
khuyết tật không có việc làm cao hơn tỉ lệ những người khác. Kể cả khi họ có việc
làm, đó cũng thường là những việc không thuộc thị trường lao động chính thức với
đồng lương rẻ mạt và những vị trí đòi hỏi kỹ năng thấp, có ít hoặc không có cơ hội
thăng tiến trong nghề nghiệp. Người lao động khuyết tật thường được làm việc ít hơn
những người khác.
Hiện nay, đa phần người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ
sống chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ của gia đình, người thân và bạn bè. Bởi vậy, đồng
hành với người lao động khuyết tật, sử dụng lao động là người khuyết tật nhằm tăng
thêm lao động, giảm trợ cấp xã hội, mang lại niềm vui trong lao động, nâng cao thu
nhập cho người khuyết tật là vấn đề cả xã hội quan tâm.
Luật người khuyết tật có hiệu lực từ ngày 01-01-2011 quy định các cơ sở sản
xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% lao động trở lên là người khuyết tật được hỗ trợ cải
tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được ưu tiên cho thuê đất, mặt
bằng và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng phục vụ sản xuất, kinh doanh... Những

điều khoản khuyến khích trong Luật người khuyết tật sẽ đưa doanh nghiệp đến gần
người khuyết tật hơn. Khi Luật người khuyết tật đi vào cuộc sống, người khuyết tật sẽ
có nhiều cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm hơn.
Trước đây, khái niệm nhận người khuyết tật khá xa lạ với các doanh nghiệp, nhất
là doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Nhưng hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu
có cái nhìn khác về người khuyết tật. Doanh nghiệp nhận người khuyết tật không phải
vì trách nhiệm xã hội hay lòng thương hại mà vì hiệu quả công việc. Người khuyết tật
thao diễn tay nghề, làm việc không thua kém người bình thường nếu được bố trí công
việc phù hợp với dạng tật. Người khuyết tật là những người gắn bó với công việc,
không “đứng núi này trông núi nọ”18. Việc chuyển từ hình thức doanh nghiệp hỗ trợ
người khuyết tật sang nhận người khuyết tật vào làm việc đem lại lợi ích cho cả hai
phía: Người khuyết tật có việc làm còn doanh nghiệp được làm lợi. Doanh nghiệp cần
quan tâm hơn nữa đến việc sử dụng lao động là người khuyết tật. Đó là tín hiệu thể
hiện sự quan tâm rõ nét của toàn xã hội, trong việc hỗ trợ việc làm cho người khuyết
tật.
Vì vậy, khi sử dụng lao động khuyết tật không chỉ tận dụng tối đa nguồn nhân
lực, tạo điều kiện cho người khuyết tật có việc làm phù hợp, góp phần xóa đói giảm

18

Cẩm Lệ, Tìm giải pháp tạo việc làm cho người khuyết tật, website:
[ngày truy cập:
30/5/2010]

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 14

SVTH: Dương Phương Thảo



Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

nghèo, giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng mà còn thực hiện tốt chính sách
pháp luật, góp phần đưa đất nước phát triển văn minh hơn nữa.
1.4. Sự cần thiết ban hành những quy định riêng đối với lao động là người
khuyết tật
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của các chủ thể tham gia lao động, hoặc xuất
phát từ những đặc điểm công việc, tính chất của ngành nghề, tính chất của doanh
nghiệp mà ngoài những quy định ở phần chung, Bộ luật lao động quy định về chế độ
lao động áp dụng riêng cho một số lao động nhất định. Việc quy định chế độ lao động
áp dụng cho các đối tượng này không phải là đặc quyền đặc lợi mà xuất phát từ hoàn
cảnh thực tế pháp luật cần phải bảo vệ những nhóm người đó19.
Thứ nhất, là nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với người khuyết tật. Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước, người khuyết tật luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội chăm sóc và giúp đỡ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ:
“không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội. Chăm lo
đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi”. Hiến
pháp nước ta cũng quy định: “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ" và “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện
cho trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”20. Đồng thời khẳng định
mọi thành viên, bao gồm cả người khuyết tật đều được nhà nước bảo đảm quyền công
dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội. Tại
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện các
chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân
chiến tranh, người tàn tật” và “tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật”21.
Như vậy, ban hành Luật người khuyết tật cũng như các quy định riêng dành cho
người khuyết tật là thực hiện nội luật hóa các quy định của Công ước của Liên hợp
quốc về quyền của người khuyết tật để người khuyết tật Việt Nam được hưởng đầy đủ

và bình đẳng các quyền con người, quyền tự do cơ bản mang tính toàn cầu và tạo điều
kiện tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng xã hội không
rào cản, theo cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về bảo vệ người khuyết tật
và yêu cầu hội nhập, cần nghiên cứu xây dựng luật và các văn bản hướng dẫn thi hành
để Luật người khuyết tật được thực thi hiệu quả hơn nữa.

19

Diệp Thành Nguyên, Giáo trình Luật lao động cơ bản, Tủ sách Đại Học Cần Thơ năm 2011, trang 92
Điều 67 và 59 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
21
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996, trang 116
20

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 15

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

Thứ hai, việc quy định những chế độ riêng dành cho lao động khuyết tật nhằm
tạo điều kiện cho họ có thể tham gia vào quan hệ lao động, tận dụng được mọi tiềm
năng lao động của xã hội để góp phần nâng cao thu nhập cho họ và gia đình họ. Ngoài
ra còn có thể đóng góp một phần nào công sức cho sự nghiệp phát triển đất nước. Mặc
khác, việc ban hành quy chế riêng cho lao động khuyết tật còn thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho họ hòa nhập xã hội, có cơ hội đem hết sức
mình làm việc, cải thiện đời sống bản thân gia đình, xây dựng đất nước. Việc ban hành

những quy chế dành riêng cho lao động khuyết tật còn giúp cho người sử dụng lao
động biết được quyền lợi của họ như thế nào khi tuyển dụng lao động khuyết tật vào
làm việc. Đa phần lao động người khuyết tật chủ yếu làm những công việc mang tính
chất nhẹ nhàng đòi hỏi kỹ thuật là chính, những công việc nặng nhọc thường hạn chế
họ tham gia. Do đó, khi tuyển dụng người sử dụng lao động có thể sắp xếp cho họ làm
những công việc phù hợp với khả năng của họ nhằm đạt được hiệu quả công việc cao
đồng thời tránh cho người sử dụng lao động có thể vi phạm pháp luật lao động khi
tuyển dụng họ.
Thứ ba, việc ban hành những quy định riêng cho lao động khuyết tật còn góp
phần giải quyết những quan hệ xã hội nói chung và quan hệ lao động nói riêng giúp
cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động hiểu rõ được quyền và nghĩa vụ của
mình từ đó thúc đẩy quan hệ lao động phát triển giảm thiểu các mâu thuẩn phát sinh,
đồng thời là phương tiện giúp các cơ quan nhà nước quản lý nhà nước về lao động,
kiểm tra, giám sát, giải quyết xử lý các vi phạm trong lĩnh vực lao động nói chung và
lao động khuyết tật nói riêng.
Thứ tư, là đáp ứng yêu cầu thực hiện Công ước quốc tế liên quan đến người
khuyết tật mà Việt Nam là thành viên và yêu cầu hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực
liên quan đến người khuyết tật. Ngày 13 tháng 12 năm 2006, Liên hợp quốc đã thông
qua Công ước về quyền của người khuyết tật. Đến nay đã có 150 quốc gia ký tham gia,
trong đó 50 quốc gia đã phê chuẩn. Việt Nam cũng đã ký tham gia và đang trong quá
trình nghiên cứu để trình các cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Kinh nghiệm từ các nước
Nhật Bản, Thái Lan sau khi phê chuẩn Công ước về quyền người khuyết tật, đều có sự
điều chỉnh lại các quy định của luật người khuyết tật trong nước cho phù hợp với
nguyên tắc chung của Công ước về quyền của người khuyết tật. Trong khu vực, Việt
Nam cam kết thực hiện 7 lĩnh vực ưu tiên trong "Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ
Biwako hướng tới một xã hội hòa nhập, không vật cản vì quyền của người khuyết tật",

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 16


SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thập kỷ thứ II về người khuyết tật (2001-2012)22.
Để phù hợp với các quy định Công ước quốc tế cũng cần thiết nghiên cứu những quy
định dưới luật đã thực hiện ổn định và còn phù hợp nâng cấp quy định trong luật. Do
vậy, tại kỳ họp thứ 7, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật người khuyết tật, góp phần hoàn thiện
hơn nữa hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật. Đây là một bước tiến quan
trọng trong việc thể chế hoá đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật nhằm tạo môi trường pháp lý, điều
kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với người khuyết tật theo hướng xây dựng
các chính sách đối với người khuyết tật trên cơ sở tiếp cận và bảo đảm quyền của
người khuyết tật; quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong việc
xóa bỏ rào cản và bảo đảm các điều kiện để người khuyết tật hòa nhập xã hội như
những người không khuyết tật. Luật Người khuyết tật thể hiện tính nhân văn sâu sắc
cũng như tinh thần tương thân tương ái của dân tộc ta.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật vẫn còn nhiều cơ chế, chính sách chưa
thật sự đi vào cuộc sống hoặc chưa được thực hiện đầy đủ như: người khuyết tật chưa
thật sự được tạo điều kiện tiếp cận hạ tầng cơ sở, công nghệ thông tin, giao thông công
cộng; các doanh nghiệp chưa nhận đủ số lao động là người tàn tật theo quy định; quỹ
việc làm người tàn tật, quỹ hỗ trợ người tàn tật chưa được các địa phương quan tâm
thành lập; nguồn lực chưa được bảo đảm đủ, công tác tuyên truyền phổ biến chính
sách, giám sát thực thi pháp luật... còn nhiều hạn chế, khiến hiệu quả thực hiện luật và
các chính sách đối với người khuyết tật chưa cao, còn một số chính sách không khả thi
trong cuộc sống. Luật quy định rất chi tiết những hành vi bị cấm trong cách đối xử với
người khuyết tật nhưng không quy định chế tài khi có vi phạm xảy ra, thiếu tính khả

thi trong thực tiễn.
Như vậy, để bảo đảm tính hệ thống của chính sách pháp luật về người khuyết tật,
bảo đảm sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với quy định
của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì sau hơn 2 năm thực hiện, Luật
người khuyết tật cần được xem xét tổng kết đánh giá, hoàn thiện hơn, tạo thành một hệ
thống chính sách, pháp luật bảo đảm sự tham gia bình đẳng của người khuyết tật. Cộng
đồng người khuyết tật đang mong chờ ban hành một Nghị định hướng dẫn Luật thấu
tình đạt lý, mang tính lắng nghe, các quan hệ xã hội được điều chỉnh phù hợp, giúp

22

Kiều Trinh, Để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng: quan trọng là từ nhận thức, website:
/>[ngày truy cập: 03/12/2009]

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 17

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

người khuyết tật đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình với cộng
đồng.
Tóm lại, lao động khuyết tật là lao động đặc thù mang những đặc điểm riêng biệt
về hình thể, sức khỏe, tâm lý do đó khi tham gia vào quan hệ lao động ít nhiều phải đối
mặt với những thử thách, khó khăn…Tuy nhiên, họ là lực lượng lao động không thể
thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của nước ta và còn là lực lượng lao
động đầy tiềm năng nên cần được Đảng và Nhà nước quan tâm rất nhiều bằng việc ban

hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ tạo điều kiện
thuận lợi cho họ khi tham gia vào quan hệ lao động và hòa nhập xã hội. Vấn đề giải
quyết việc làm cho người khuyết tật rất cần đến sự quan tâm và phối hợp thực hiện của
toàn Đảng, toàn dân.

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 18

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG
LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Với tư cách là đối tượng, thực thể tồn tại trong đời sống xã hội, người khuyết tật
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiện nay ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới đã có cái nhìn và cách tiếp cận hoàn toàn tiến bộ về người khuyết tật và ở
Việt Nam cũng vậy. Nhưng trên thực tế người khuyết tật cũng gặp phải những khó
khăn nhất định. Để người khuyết tật được bảo đảm quyền bình đẳng và không bị phân
biệt đối xử trong xã hội nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động khuyết tật khi họ tham gia vào quan hệ lao động nói riêng, thì pháp luật lao động
nước ta đã dành cho họ những quyền lợi ưu đãi nhất định hơn những lao động không
khuyết tật, nhằm giúp người khuyết tật tự tin, khẳng định được bản thân mình trong
quá trình lao động. Những ưu đãi đó không phải là đặc quyền, đặc lợi đối với họ mà
đây chính là những chính sách của Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự quan tâm nhiều
hơn đối với những đối tượng yếu thế cần được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhằm cụ
thể hóa những chính sách của Nhà nước đối với người lao động khuyết tật thì pháp

luật lao động nước ta có những chính sách như sau: Đối với người lao động khuyết tật
thì có những chính sách ưu đãi về giáo dục, học nghề và việc làm, tuyển dụng, tiền
lương và thu nhập, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động và vệ sinh
lao động, bảo hiểm xã hội…. Đối với người sử dụng lao động thì Nhà nước có những
chính sách ưu đãi về vốn, thuế, trang bị cơ sở vật chất và rất nhiều những chính sách
khác dành cho người sử dụng lao động, cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh
dành riêng cho người khuyết tật nếu những cơ sở này thỏa mãn những điều kiện luật
định.
2.1. Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước về lao đông là người khuyết tật
Lao động là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp. Công dân có sức lao động phải được làm việc để duy trì sự tồn tại của bản
thân và góp phần xây dựng xã hội, thực hiện nghĩa vụ của họ đối với những người
xung quanh trong cộng đồng. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của
doanh nghiệp và toàn xã hội.
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, người khuyết tật luôn
được Đảng, Nhà nước và xã hội chăm sóc và giúp đỡ. Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ
từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo
lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách
GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 19

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ

xã hội phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội”23. Quan
điểm của Đảng nêu trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đến các đối tượng bảo
trợ xã hội, trong đó có người khuyết tật.
Nhà nước quy định chỉ tiêu việc làm mới hàng năm trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm. Hàng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách để
giúp người khuyết tật phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động, học nghề và
chính sách hỗ trợ tài chính, cho vay vốn, giảm, miễn thuế và các biện pháp khuyến
khích để người khuyết tật có khả năng lao động tự giải quyết được việc làm, để các tổ
chức, đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều ngành nghề mới
nhằm tạo ra nhiều việc làm cho người lao động nói chung và lao động là người khuyết
tật nói riêng.
Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân trong
và ngoài nước, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển
kinh doanh nhằm tạo việc làm nhiều hơn cho lao động khuyết tật, khi doanh nghiệp sử
dụng nhiều lao động khuyết tật thì sẽ được Nhà nước giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, được hưởng chính sách cho vay vốn với lãi xuất thấp theo pháp luật hiện hành.
Chính phủ quy định tỷ lệ lao động là người khuyết tật đối với một số nghề và
công việc mà doanh nghiệp phải nhận; nếu không nhận thì doanh nghiệp phải góp một
khoản tiền theo quy định của Chính phủ vào quỹ việc làm để góp phần giải quyết việc
làm cho người khuyết tật. Doanh nghiệp nào nhận người khuyết tật vào làm việc vượt
tỷ lệ quy định thì được Nhà nước hỗ trợ hoặc cho vay với lãi xuất thấp để tạo điều kiện
làm việc thích hợp cho người lao động là người khuyết tật24. Quan điểm trên đã thể
hiện rõ sự quan tâm của Đảng đến các đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có người
khuyết tật.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ,
chăm sóc người khuyết tật trong phạm vi cả nước; nghiên cứu ban hành hoặc trình
Chính phủ ban hành các chính sách áp dụng đối với người khuyết tật về dạy nghề, tạo
việc làm và trợ giúp xã hội; tổ chức và quản lý các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức
năng cho người khuyết tật là thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như
thương binh và các cơ sở xã hội khác. Ngoài ra trong chức năng, nhiệm vụ và quyền

hạn của mình thì các Bộ, ngành khác có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe trong đời sống nói chung và trong lao động nói riêng cho người
khuyết tật.

23
24

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội – 1996, trang 98
Khoản 3 Điều 125 Bộ luật lao động 1994

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 20

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

Hàng năm có gần một triệu người khuyết tật được trợ cấp từ ngân sách nhà nước
(trợ cấp xã hội, trợ cấp thương binh, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương
binh); hàng trăm ngàn lượt người được hỗ trợ chỉnh hình, phục hồi chức năng, được
cung cấp phương tiện trợ giúp (xe lăn, xe đẩy...). Thực hiện chương trình phục hồi
chức năng, 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng mạng lưới phục hồi
chức năng dựa vào cộng đồng; có 260.000 trẻ em khuyết tật học hòa nhập ở các cơ sở
giáo dục và 6.000 trẻ em khuyết tật học ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt; 19.000
người khuyết tật được học nghề và bình quân mỗi năm có khoảng 10.000 người khuyết
tật được giới thiệu việc làm thông qua trung tâm dịch vụ việc làm. Các tổ chức của
người khuyết tật ngày càng được mở rộng ở các tỉnh, thành phố như: Hội người mù,
Hội người điếc, Hội người khuyết tật các tỉnh, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ

côi, Hội cứu trợ trẻ em tàn tật, Hiệp hội sản xuất, kinh doanh của người tàn tật25.
Bên cạnh đó, các cấp công đoàn cũng cần phải phát huy tối đa vai trò của mình.
Hiện nay, đa phần người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ sống
chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ của gia đình, người thân và bạn bè. Bởi vậy, đồng hành
với người lao động khuyết tật, sử dụng lao động là người khuyết tật nhằm tăng thêm
lao động, giảm trợ cấp xã hội, mang lại niềm vui trong lao động, nâng cao thu nhập
cho người khuyết tật là vấn đề cả xã hội quan tâm, trong đó có vai trò quan trọng của
công đoàn. Là tổ chức đại diện cho người lao động, các cấp công đoàn cần coi lao
động khuyết tật là đối tượng vận động, kết nạp họ tham gia hoạt động công đoàn. Các
cấp công đoàn ủng hộ các doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc; yêu cầu
các cơ quan hữu quan thực hiện đúng các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp
có nhiều lao động khuyết tật. Công đoàn cơ sở các doanh nghiệp có người khuyết tật
lao động cần quan tâm, trợ giúp người khuyết tật hiểu biết pháp luật lao động, Luật
Người khuyết tật; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho lao động khuyết tật hiểu
rõ đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, hiểu rõ về công đoàn, từ đó tự ý thức
được quyền và nghĩa vụ của người lao động; Công đoàn cơ sở các doanh nghiệp có
người khuyết tật làm việc kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng, những khó khăn cả về
vật chất, tinh thần của lao động khuyết tật, từ đó có biện pháp giúp đỡ lao động khuyết
tật vui tươi, lạc quan, tăng thêm thu nhập, đảm bảo việc làm đời sống cho người
khuyết tật.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm vận động xã hội trợ giúp người khuyết
tật tiếp cận dịch vụ xã hội, sống hoà nhập cộng đồng; tham gia xây dựng, giám sát
25

Ủy ban các vấn đề văn hóa xã hội, Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật người tàn tật của Ủy ban về các vấn đề
văn hóa xã hội - Quốc hội khóa XII số 1624/BC – UBXH12, ngày 16 tháng 9 năm 2009

GVHD: Võ Hoàng Yến


Trang 21

SVTH: Dương Phương Thảo


Lao động là người khuyết tật – Thực tiễn áp dụng tại Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ

thực hiện chính sách, pháp luật và chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật. Mọi
cá nhân có trách nhiệm tôn trọng, trợ giúp và giúp đỡ người khuyết tật26.
Trong thực tế khi tham gia vào lao động thì lao động khuyết tật thường chịu
nhiều thiệt thòi hơn so với các lao động khác. Cho nên, Nhà nước đã ban hành ra nhiều
quy định thiết thực giúp cho người khuyết tật có thể tự tin hơn khi tham vào lao động.
Lao động khuyết tật đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển
đất nước. Do đó, việc đảm bảo việc làm cho người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm
mà còn là mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ
quan có trách nhiệm trực tiếp thuộc về Chính phủ và cơ quan hành chính Nhà nước,
trách nhiệm trước hết thuộc về Quốc hội và hệ thống các cơ quan quyền lực.
Như vậy, luôn có sự quan tâm đến lao động khuyết tật không chỉ trong cuộc
sống, sinh hoạt hàng ngày mà còn đặc biệt chú ý đến vấn đề việc làm, học nghề, tiền
lương… để giúp cho người lao động khuyết tật luôn có được điều kiện tốt nhất để họ
tham gia vào quan hệ lao động, hòa nhập vào xã hội và khẳng định được vị trí của
mình trong xã hội cũng như trong lao động.
2.2. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với lao động là người
khuyết tật
Do những khiếm khuyết về cơ thể nên khi tham gia vào quan hệ lao động người
khuyết tật thường bị thua thiệt và gặp những khó khăn nhất định như không làm được
những công việc nặng nhọc, độc hại không có lợi cho sức khỏe của họ. Vì vậy, pháp
luật lao động đã quy định một số điều kiện đối với người sử dụng lao động khi tuyển
dụng người khuyết tật vào làm việc như sau:

Người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử với người khuyết tật,
khinh thường, có thái độ xúc phạm danh dự, nhân phẩm của họ khi tuyển dụng, sử
dụng, nâng bậc lương, khen thưởng, kỷ luật, trả công lao động, an toàn lao động, cũng
như các phúc lợi khác về vật chất và tinh thần, chăm sóc sức khỏe người sử dụng lao
động phải thực hiện tương xứng với các lao động bình thường khác.
Nhà nước dành những ưu đãi nhất định để khuyến khích người sử dụng lao động
nhận lao động là người khuyết tật. Pháp luật hiện hành áp dụng các chính sách định
mức để quy định việc doanh nghiệp phải nhận một số người lao động khuyết tật vào
làm việc theo từng ngành nghề cụ thể27. Chính phủ quy định tỷ lệ lao động là người
khuyết tật đối với một số nghề và công việc mà doanh nghiệp phải nhận; nếu không
26

Lê Thanh Hà, Lao động khuyết tật và trách nhiệm của các cấp công đoàn, website:
[ngày truy cập: 26/10/2012]
27
Theo khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 1994

GVHD: Võ Hoàng Yến

Trang 22

SVTH: Dương Phương Thảo


×