Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA (2007 – 2011)
Đề tài:
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
NGUYỄN THỊ NGỌC TUYỀN
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
NGUYỄN THANH MÃY
MSSV: 5075280
LỚP: TƯ PHÁP 3. K33
trang 1
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA.................................................. 7
1.1. Tìm hiểu chung về hệ thống Cơ quan tiến hành tố tụng ................................... 7
1.1.1. Khái niệm hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng ................................ 7
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố tụng trong bộ máy
Nhà nước .................................................................................................................... 7
1.2. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ......................................................10
1.2.1. Trách nhiệm bồi thường trong hợp đồng...............................................10
1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................................11
1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra .........................................................................................................................11
1.3.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại .........................................11
1.3.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra ................................................................................................................12
1.3.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ....................................12
1.3.4. Trách nhiệm bồi thường Nhà nước ........................................................13
1.3.5. Phân biệt trách nhiệm bồi thường do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
với các trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự khác ............................................16
1.4. Bản chất và ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra ..................................................................................18
1.4.1. Bản chất của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra............................................................................................18
1.4.2. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra ...................................................................................................19
1.5. Lịch sử hình thành của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra ...................................................................................................20
1.5.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật La Mã .............................20
1.5.2. Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật cổ (Luật thời Lê
- Nguyễn) ...................................................................................................................21
1.5.3. Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Cơ quan tiến hành tố
tụng trong giai đoạn hiện nay...................................................................................22
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
SVTH: Nguyễn
Thanh Mãy
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
GÂY RA ....................................................................................................................29
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 2
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
tụng gây ra ................................................................................................................29
2.1.1 Phải có thiệt hại xảy ra ............................................................................29
2.1.2. Phải có hành vi trái pháp luật ................................................................30
2.1.3. Phải có lỗi của người gây thiệt hại..........................................................31
2.1.4. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả
xảy ra ........................................................................................................................33
2.2. Chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra................................................................................................................................35
2.2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ....................................35
2.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ..............................................36
2.2.2.1. Đối với cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong tố tụng hình sự ....36
2.2.2.2. Về cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng dân
sự, tố tụng hành chính ..............................................................................................38
2.3. Phạm vi bồi thường thiệt hại .............................................................................39
2.3.1. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự ......39
2.3.2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính .......................................................................................................40
2.3.3. Các thiệt hại được bồi thường theo quy định của Luật bồi thường Nhà
nước ..........................................................................................................................41
2.3.3.1. Thiệt hại về vật chất được bồi thường ...............................................43
2.3.3.2. Thiệt hại về tinh thần được bồi thường ..............................................45
2.3.3.3. Khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng
hình sự ......................................................................................................................45
2.3.4. Các trường hợp khi có thiệt hại xảy ra Cơ quan tiến hành tố tụng cũng
không có trách nhiệm bồi thường ...........................................................................46
2.3.5. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại .................................48
2.4. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại ..............................................50
2.4.1. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Cơ quan gây ra thiệt hại có
trách nhiệm bồi thường ............................................................................................50
2.4.2. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án ..........................52
2.5. Kinh phí bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành
công vụ .....................................................................................................................53
2.5.1. Nguồn kinh phí bồi thường ....................................................................53
2.5.2. Lập dự toán và quyết toán kinh phí bồi thường ...................................54
2.5.3. Trình tự thủ tục chi trả tiền bồi thường ...............................................54
2.5.4. Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ ..............................54
CHƯƠNG III.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA NHỮNG
VƯỚNG MẮC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................56
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 3
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
3.1. Tình hình thực tiễn và những vướng mắc khi áp dụng Nghị quyết 388 và qua
một năm thực hiện Luật bồi thường Nhà nước thay thế Nghị quyết 388 ...............56
3.1.1. Tình hình thực tiễn và những vướng mắc trong thời gian qua khi thực
hiện Nghị quyết 388 ..................................................................................................56
3.1.2. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập của nghị quyết 388 ....................65
3.1.3. Những điểm mới của Luật bồi thường Nhà nước ..................................68
3.2. Vướng mắc trong triển khai thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước ...........................................................................................................................73
3.2.1. Nguyên nhân ...........................................................................................78
3.2.2. Một số kiến nghị để thực hiện tốt hơn việc bồi thường thiệt hại của Cơ
quan tiến hành tố tụng ..............................................................................................79
PHẦN KẾT LUẬN ..........................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................85
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 4
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước mà vấn đề then chốt là xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân đã đặt ra nhiệm vụ củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Để xây dựng Nhà nước pháp quyền, cần cải cách nền hành chính quốc
gia, song cùng với những cải cách tư pháp để hướng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống
cơ quan tư pháp thực sự sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, vì công lý, công
bằng xã hội, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là:
Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các
loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và
các loại tội phạm có tổ chức, bảo vệ trật tự, kỷ cương, đảm bảo và tôn trọng quyền dân
chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Đi đôi với những định hướng chiến lược này, việc cải cách tư pháp còn hướng tới
giải quyết những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra, cụ thể: kịp thời giải quyết có hiệu quả của
các vụ khiếu kiện yêu cầu bồi thường do bị oan, sai trong hoạt động tố tụng, kết hợp với
việc xây dựng cơ chế, chính sách để mang lại bước phát triển thực sự đổi mới của hệ
thống tư pháp từ Trung ương tới địa phương.
Nhưng so với những định hướng trên, hiện nay tổ chức và hoạt động của hệ thống
cơ quan tư pháp vẫn chưa có những bước đột phá để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới, trong đó điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn để gây ra oan, sai cho công dân.
Đối với nhiều địa phương, khi có oan, sai xảy ra nhưng cơ quan tiến hành tố tụng (THTT)
lại chưa kịp thời giải quyết việc bồi thường cho người bị thiệt hại, từ đó gây bất bình
trong dư luận nhân dân, tạo ra một trong số tác nhân gây cản trở cho công tác cải cách và
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung. Vì vậy,
việc khắc phục thiệt hại do cơ quan THTT gây ra đang là vấn đề có tính thời sự trong
khoa học pháp lý nói riêng và trong định hướng cải cách tư pháp nói chung.
Hiện nay, ngoài quy định của Hiến pháp và Bộ luật dân sự (BLDS) 2005, Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để từng bước cụ thể hóa việc giải quyết loại trách
nhiệm nhà nước (TNNN) bồi thường thiệt hại (BTTH) do hoạt động của cơ quan THTT
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 5
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
gây ra. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều sự bất cập cả trong việc lập pháp, lập quy lẫn cơ
chế bảo đảm thực hiện loại TNNN này để hoàn thiện hơn những quy định về trách nhiệm
bồi thường do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra Nhà nước đã ban hành Luật bồi thường
nhà nước có hiệu lực ngày 01/01/2010. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài
"Bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra", về phương diện lý luận và
phương diện thực tiễn sẽ góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề có tính thời sự cấp thiết này.
2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định và thực tiễn
giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân qua việc thực hiện trách nhiệm
nhà nuớc BTTH trong các vụ việc oan, sai mà các cơ quan THTT gây ra.
* Phạm vi nghiên cứu: BTTH do cơ quan THTT là đề tài rộng, chứa đựng nhiều vấn
đề phức tạp về cả lý luận và thực tiễn. Đề tài nghiên cứu liên quan đến cơ quan THTT là
cơ quan nhà nước được giao thực thi quyền tư pháp, tiến hành các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm và giải quyết các vụ việc tranh chấp xảy ra trong xã hội. Hoạt
động bảo vệ pháp luật của cơ quan THTT là hoạt động liên quan đến nhiều người, nhiều
lĩnh vực, nhiều mối quan hệ đan xen, có sự tham gia của nhiều cơ quan và chịu sự điều
chỉnh của nhiều loại quy phạm của cả luật nội dung lẫn hình thức. Đặc biệt, hoạt động
này lại phải tuân theo những trình tự, thủ tục tố tụng khác nhau (tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính…), vì vậy, phù hợp với đối tượng nghiên cứu, đề tài giới hạn
ở những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết BTTH do quan THTT gây ra cho
người bị oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Trên thực tế, dù hoạt động theo
trình tự, thủ tục tố tụng nào thì gây oan, sai cho công dân là khả năng hoàn toàn có thể
xảy ra, do khi thi hành công vụ của cơ quan THTT đã có hành vi hoặc quyết định tố tụng
trái pháp luật, xâm phạm quyền tư pháp. Việc nghiên cứu sẽ tập trung làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu về BTTH do bị oan, sai mà Cơ quan THTT gây ra với
tính chất thực hiện TNNN từ hoạt động của cơ quan THTT. Việc giải quyết BTTH giữa
cơ quan THTT và người bị oan, sai được đặt trong mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và
công dân khi thực thi quyền lực tư pháp.
* Mục đích nghiên cứu đề tài:
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 6
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Làm rõ được đặc điểm, nội dung, bản chất của TNNN trong việc BTTH do của cơ
quan THTT gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Phân tích để thấy được thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết BTTH do Cơ
quan THTT gây ra phát sinh từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hiện nay.
Căn cứ vào định hướng xây dựng pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn giải
quyết BTTH do cơ quan THTT gây ra để đề xuất hướng xuất các kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc giải quyết BTTH đối với các vụ việc có oan, sai do cơ quan THTT
gây ra trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn trước hết được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
kết hợp với việc vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra, để làm sáng tỏ từng luận điểm khoa học, luận văn còn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
lôgíc, lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác.
4. Bố cục đề tài
Đề tài luân văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra, vướng mắc và một số kiến nghị.
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 7
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA
1.1. Tìm hiểu về hệ thống Cơ quan tiến hành tố tụng
1.1.1. Khái niệm hệ thống các Cơ quan tiến hành tố tụng
Hệ thống Cơ quan tiến hành tố tụng là một bộ phận cấu thành nên bộ máy Nhà
nước ta, để thực hiện chức năng, điều tra, truy tố, xét xử, góp phần giữ gìn trật tự xã hội
và đảm bảo cho việc thực hiện đúng đắn những quy định của Pháp luật. Một trong những
biểu hiện của phương pháp quyền uy trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự là Nhà nước quy định cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện các chức năng như:
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người thực hiện tội phạm, buộc họ chấp hành bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Do tính chất phức
tạp của vụ án hình sự mà không phải bất kỳ cơ quan nào cũng có quyền tiến hành các
hoạt động tố tụng này. Chỉ có những cơ quan nào được Nhà nước giao cho nhiệm vụ thực
hiện các nhiệm vụ trong các giai đoạn tố tụng mới tiến hành các hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử người phạm tội. Những cơ quan này được gọi là Cơ quan tiến hành tố
tụng.
Vì vậy, Cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được
giao thực hiện các chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự, dân sự và hành chính.
Hệ thống Cơ quan tiến hành tố tụng được quy định theo Điều 33 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 và Điều 29 của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước, Cơ quan tiến hành
tố tụng gồm có: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố tụng trong bộ máy Nhà
nước
Cơ quan điều tra
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra chiếm vị trí rất quan trọng.
Giai đoạn điều tra được coi là giai đoạn giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố tụng
hình sự, kết quả của việc điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án, để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội. Hơn nữa thực tế cho thấy, những
kết quả đạt được cũng như những sai lầm mắc phải trong quá trình giải quyết vụ án hình
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 8
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
sự như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội… thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra.
Ngoài ra, hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra còn tạo điều kiện cho công tác xét xử
bằng việc cung cấp chứng cứ về tội phạm và người phạm tội. Mặt khác, hoạt động của
Cơ quan điều tra còn góp một phần to lớn vào việc thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng
và chống tội phạm, bảo đảm giữ gìn an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm theo nguyên
tắc Cơ quan điều tra cấp nào thì điều tra những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân cấp đó (đoạn 2 khoản 4 Điều 110 BLTTHS). Theo đó, Cơ quan điều tra cấp
huyện, Cơ quan điều tra quân sự cấp khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội
phạm thuộc quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực; Cơ
quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu
hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét
thấy cần trực tiếp điều tra; Cơ quan điều tra cấp Trung ương chỉ điều tra những vụ án
hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần
trực tiếp điều tra.
Để thực hiện hoạt động điều tra, các Cơ quan điều tra có quyền áp dụng mọi biện
pháp do luật định để xác định tội phạm và kẻ phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu
quan áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa.
Về cụ thể, Cơ quan điều tra được tổ chức thành nhiều đơn vị khác nhau bao gồm Cơ
quan điều tra ở lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
Tổ chức và thẩm quyền điều tra của từng đơn vị khác nhau phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ từng đơn vị.
Viện kiểm sát nhân dân
Chức năng của Viện kiểm sát được thể hiện qua những điểm sau: Theo Luật Hiến
pháp 1992 quy định thì Viện kiểm sát là một trong bốn cơ quan quan trọng tạo nên Bộ
máy Nhà nước. Nếu như Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp,
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội có nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp và Pháp
luật do Quốc hội ban hành thì Viện kiểm sát là cơ quan được Quốc hội giao nhiệm vụ
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 9
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
kiểm tra và giám sát việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức Kinh tế, lực lượng vũ trang, mọi công dân trong hoạt động tư pháp. Khi có hành vi
vi phạm Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp thì Viện kiểm sát thực hiện những biện pháp
bảo đảm cho Hiến pháp và Pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh trong phạm vi cả nước
bằng cách như kiến nghị khác phục sửa chửa những thiếu sót sai lầm trong quá trình tố
tụng, đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng, yêu cầu điều tra
bổ sung… Bên cạnh chức năng kiểm sát tư pháp chung đối với tất cả các hoạt động tố
tụng thì riêng biệt trong tố tụng hình sự, cơ quan Viện kiểm sát được giao một quyền
năng đặc biệt là cơ quan duy nhất có quyền thực hành quyền công tố. Đây là chức năng
quan trọng mà luật đã quy định, cho phép phân biệt vị trí của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy Nhà nước ta với các cơ quan khác của Nhà nước. Đó là quyền thay mặt
Nhà nước truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án và đề nghị Tòa án áp dụng loại hình phạt và
mức hình phạt đối với người phạm tội.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một mặt,
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp của Viện kiểm
sát là chức năng thay mặt nhà nước giám sát việc tuân theo pháp luật, phát hiện kịp thời
những hành vi vi phạm và đưa ra các biện pháp khắc phục bảo đảm cho pháp luật đước
thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Mặt khác, thông qua chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp mà phát hiện có sự vi phạm pháp luật đến mức cần
thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm sát thay mặt Nhà nước buộc tội
người vi phạm pháp luật để có biện pháp xử lý đúng đắn. Việc thực hiện tốt chức năng
kiểm sát tư pháp hình sự là một điều kiện để cơ quan Viện kiểm sát thực hiện đúng đắn
và hiệu quả quyền công tố.
Nói tóm lại, trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có hai chức năng nhiệm vụ quan
trọng sau:
Thực hành quyền công tố. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Ngoài những nhiệm vụ nêu trên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát còn có
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 10
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng biện pháp ngăn ngừa, giải quyết khiếu nại tố cáo trong vụ án hình sự.
Tổ chức: Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát chia thành các
cấp sau đây: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện, các Viện kiểm sát quân sự.
Tòa án
Chức năng, nhiệm vụ: Theo Hiến pháp Việt Nam năm 1992 thì Tòa án nhân
dân là một trong bốn cơ quan quan trọng của Bộ máy Nhà nước. Trong hệ thống Bộ máy
Nhà nước thì Hiến pháp quy định Tòa án là cơ quan duy nhất của Nước Công hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam có quyền xét xử. Tòa án có nhiệm vụ xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật các vụ án hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng. Cụ thể trong hoạt động tố tụng hình sự, Tòa án nhân dân có những nhiệm vụ sau:
Xét xử những vụ án và quyết định hình phạt; Ra quyết định thi hành án và các quyết định
khác trong giai đoạn thi hành án; Giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án.
Khi tiến hành xét xử, Tòa án có nhiệm vụ làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
yêu cầu cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp ngăn ngừa; giải quyết khiếu
nại tố cáo trong tố tụng hình sự…
Ngoài ra thông qua hoạt động xét xử, Tòa án có nhiệm vụ giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, giáo dục ý thức đấu tranh phòng
chống và ngăn ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tổ chức: Tòa án có cơ cấu tổ chức như sau: Tóa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân
dân tỉnh; Tòa án nhân dân huyện; các Tòa án quân sự.
1.2. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường theo
hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại
trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn.
1.2.1. Trách nhiệm bồi thường trong hợp đồng
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 11
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà
theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác
thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao
gồm:
Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp
đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra thiệt hại trước
đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì
nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên
gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính
vì vậy, BTTH trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị
giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao
kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại.
Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra. Nếu
giữa các bên tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là do vi
phạm hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh cũng không phải là trách nhiệm theo hợp đồng.
Ví dụ, A thuê B đến sơn lại nhà cho mình. Trong quá trình làm việc, B đã ăn trộm chiếc
điện thoại của A và đã bán cho người khác. Trong trường hợp này không thể tìm lại chiếc
điện thoại thì A chỉ có thể khởi kiện B yêu cầu BTTH ngoài hợp đồng.
Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp
đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành vi gây thiệt hại là
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có
thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu người
thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp
đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách
nhiệm ngoài hợp đồng. Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của
người thứ ba bởi lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi
liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng.
1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 12
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách
nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài
hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường
thiệt hại do mình gây ra.
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một
hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý
do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay để thể hiện tính dân chủ, công bằng, bình đẳng giữa Nhà nước và công dân, Nhà
nước ta đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Cơ quan tiến hành tố tụng, đây
cũng là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường là chủ thể đặc biệt là Nhà nước.
1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra
1.3.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được
BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ
khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc
bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong
xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành
vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người
khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH).
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 13
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo
đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải
bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
1.3.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra
Cũng như các trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra là một loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Bởi hệ thống Cơ quan tiến hành tố tụng thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao cho, khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thì
Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm trước tiên và Nhà nước cũng ban hành ra luật để
điều chỉnh loại trách nhiệm của các Cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể là Luật trách nhiệm
bồi thường Nhà nước điều chỉnh trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường.
Theo luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước thì các cơ quan tiến hành tố tụng sau đây
phải chịu trách nhiệm bồi thường: Cơ quan điều tra; Cơ quan Kiểm sát; Tòa án.
1.3.3. Đặc điểm của trách nhiệm BTTH
Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp
lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH còn có những đặc
điểm riêng sau đây:
Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ
phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân
sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản
hướng dẫn thi hành BLDS.
Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện
nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo
hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 14
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là
những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường
những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm
BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho
người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó
phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật
chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những
thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo
quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy,
thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại
thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của
người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người
của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy
nghề…
1.3.4. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của
mình, đó chính là nguyên tắc đạo lí của Nhà nước trước xã hội công dân. Xã hội càng
hiện đại, văn minh càng đòi hỏi tính trách nhiệm cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối
với các chủ thể, trong đó có Nhà nước. Nhà nước phải là hiện thân, là mẫu hình của tính
trách nhiệm toàn vẹn nhất trong xã hội. Trách nhiệm của Nhà nước là khái niệm có phạm
vi rộng lớn, nhiều cấp độ và phức tạp, bởi Nhà nước vốn là một trong những phạm trù
chính trị - xã hội và pháp lí thuộc loại phức tạp nhất. Vì vậy, đến nay vấn đề về Nhà
nước, trách nhiệm của Nhà nước chưa bao giờ đạt đến sự thống nhất trong toàn bộ các
vấn đề có liên quan.
Trách nhiệm của nhà nước trước hết bắt nguồn từ khái niệm trách nhiệm trong đời
sống xã hội. Trách nhiệm được hiểu là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 15
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; Thứ
hai là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai thì phải
gánh chịu phần hậu quả. Còn theo Bách khoa Toàn thư Việt Nam, thì trách nhiệm là:
“Khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền nói lên một đặc trưng của nhân
cách trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đề ra. Nếu nghĩa vụ đặt ra cho con người
vấn đề nhận thức và thực hiện những yêu cầu của xã hội, thì vấn đề trách nhiệm là ở chỗ
con người hoàn thành và hoàn thành đến mức nào hoặc không hoàn thành những yêu cầu
ấy. Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hoạt động với nghĩa vụ, là hệ quả của tự do ý chí
của con người, là đặc trưng cho hoạt động có ý thức của con người. Con người ngày càng
nhận thức được quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội. Khi năng lực chi phối tự nhiên,
xã hội của con người lớn lên thì trách nhiệm của con người đối với hành vi của mình
cũng lớn lên. Về mặt pháp lí, việc xem xét trách nhiệm cá nhân phải xuất phát từ sự
thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ: quyền càng rộng thì trách nhiệm càng lớn” .
Nhà nước là chủ thể thể xã hội đặc biệt, phục vụ cho cuộc sống của con người và
xã hội nói chung. Do vậy, Nhà nước cũng phải có trách nhiệm và phải chịu hậu quả nếu
không làm tròn trách nhiệm theo vai trò, chức năng mà xã hội phân công. Hơn nữa, Nhà
nước cũng phải chịu sự ràng buộc với những hoạt động, việc làm của mình đối với con
người và xã hội trong phạm vi được phép, nếu không thì cũng phải chịu hậu quả. Là chủ
thể xã hội đặc biệt, Nhà nước chỉ phải chịu trách nhiệm chính trị hay còn phải chịu cả
trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ của mình với tư cách là bị đơn dân sự.
Trách nhiệm chính trị là trách nhiệm được xác định bởi các quan hệ và thể chế
chính trị, nếu vi phạm thì cán bộ, nhân viên Nhà nước, người có thẩm quyền sẽ phải từ
chức, bị giáng chức, cách chức, các thiết chế Nhà nước hay toàn bộ bộ máy Nhà nước bị
thay thế, bị lật đổ… thông qua cơ chế chính trị. Trách nhiệm chính trị bắt buộc Nhà nước
cũng như các quan chức Nhà nước phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại gây ra
cho dân. Việc chính thức, công khai thừa nhận có lỗi lầm khi ban ra các quyết sách, chủ
trương và việc bồi thường thiệt hại cho người dân thể hiện hậu quả của trách nhiệm chính
trị mà nhà nước phải gánh chịu. Trong trách nhiệm chính trị không có việc bồi thường
bằng vật chất, tài sản như trách nhiệm dân sự mà “bồi thường” bằng hệ chính sách và
chính khách mới (sửa đổi chính sách, thay thế nhân vật chính trị), bởi lẽ, trong trách
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 16
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
nhiệm chính trị không thể xác định được thiệt hại về tài sản cho từng cá nhân, tổ chức cụ
thể; Chính sách của Nhà nước tác động lên toàn bộ xã hội, thiệt hại có thể ở diện rộng và
mức độ rất lớn không lượng hóa được… Mặt khác, các chính khách thực hiện nhiệm vụ
do người dân uỷ quyền (thông qua bầu cử)... Nhưng dù sao, trách nhiệm chính trị của
Nhà nước theo nghĩa trên cũng chỉ tồn tại trong Nhà nước dân chủ mà không tồn tại trong
các Nhà nước phi dân chủ. Tuy nhiên, trong Nhà nước pháp quyền hiện nay, bên cạnh
trách nhiệm chính trị, Nhà nước còn phải chịu trách nhiệm pháp lý bình đẳng với các chủ
thể khác (tổ chức, cá nhân), nghĩa là Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường
nếu gây thiệt hại cho các bên như trong quan hệ dân sự. Đây chính là một trong những
điểm thể hiện tính phức tạp của vấn đề trách nhiệm Nhà nước.
Trước pháp luật, Nhà nước cũng bình đẳng với các cá nhân, tổ chức nên Nhà nước
có thể phải gánh chịu các hậu quả bất lợi khi vi phạm trách nhiệm, đó là trách nhiệm
pháp lý. Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm được hiểu là: “Loại quan hệ pháp luật đặc
biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan chuyên môn) và chủ thể vi phạm pháp luật
(có thể là cá nhân hoặc pháp nhân), trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi và những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định ở chế tài
pháp luật. Tức là sự cưỡng chế của Nhà nước buộc người vi phạm pháp luật phải chấp
hành quy phạm pháp luật, trừng trị người vi phạm pháp luật, bắt buộc phải khôi phục lại
pháp luật đã bị vi phạm. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá
vỡ trật tự pháp luật, trực tiếp gây ra tổn thất về vật chất, tinh thần cho con người, xâm
phạm đến các cơ quan xã hội mà pháp luật bảo vệ. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp chế, bảo vệ những
quan hệ xã hội phát triển, làm cho pháp luật được thực hiện triệt để và nghiêm chỉnh.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật có ý nghĩa lớn trong việc
phòng ngừa, cải tạo và giáo dục người vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi các yếu tố: Hành vi vi phạm pháp luật; Sự
thiệt hại gây ra cho xã hội; Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và sự
thiệt hại gây ra cho xã hội; Lỗi của chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật”.
Thật ra, trong định nghĩa của Bách khoa Toàn thư Việt Nam cũng như công trình
chuyên khảo về trách nhiệm pháp lý của một số tác giả như đã dẫn chưa thấy sự quan tâm
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 17
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
đến trách nhiệm bồi thường Nhà nước với tư cách là loại trách nhiệm pháp lý.
Tuy Nhà nước là phạm trù trừu tượng nhưng việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm
của Nhà nước lại được triển khai bởi hệ thống các cơ quan, tổ chức và các cán bộ, công
chức có thẩm quyền. Vì vậy, trách nhiệm pháp lý của Nhà nước có thể phát sinh do hoạt
động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đó. Trong lịch sử có những Nhà nước và chế độ
Nhà nước không chịu bất kỳ loại trách nhiệm nào (vô trách nhiệm). Về chính trị, đó là
những Nhà nước không bị hạn chế quyền lực hay quyền lực của các nhà nước đó không
có giới hạn xác định. Ở đây, Nhà nước và quan chức Nhà nước không phải chịu hình thức
trách nhiệm và hậu quả bất lợi nào; Thần dân không có quyền gì ngoài sự phục tùng và
phụng sự Nhà nước. Nếu quan chức nhà nước có gây thiệt hại cho thần dân thì cũng vô
can. Nhà nước dân chủ là Nhà nước phải chịu trách nhiệm, bởi về chính trị, đó là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; về quan hệ pháp luật trong quan hệ với dân (cá nhân, tổ
chức), Nhà nước là một bên chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, nên Nhà nước phải
chịu trách nhiệm. Đó cũng chính là những biểu hiện cụ thể của Nhà nước pháp quyền
hiện nay. Tuy vậy, lý luận về Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không
phải dễ dàng được chấp nhận trong thực tiễn hoạt động Nhà nước ở các nước trên thế
giới. Ở nhiều nước tư bản phát triển từ lâu vẫn tồn tại thuyết miễn trừ quốc gia - thuyết có
nguồn gốc từ nước Anh hồi thế kỉ XV. Theo đó, Nhà nước không thể bị truy cứu và phải
chịu bất kỳ loại trách nhiệm pháp lí nào cả .
Loại trừ cách hiểu trách nhiệm theo nghĩa là nghĩa vụ, bổn phận phải làm, trách
nhiệm của Nhà nước mà người viết đề cập là sự gánh chịu hậu quả bất lợi do việc vi
phạm nghĩa vụ. Trên cơ sở đó, người viết đi sâu phân tích khái niệm trách nhiệm pháp lý
của Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức do cán bộ công chức
Nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ - trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước hay trách nhiệm bồi thường Nhà nước (BTNN).
Hiện nay, nhiều nhà luật học cho rằng, trách nhiệm BTNN thuộc loại trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng, nhưng cũng không đơn thuần như vậy mà có những đặc thù
riêng. Bên cạnh các đặc điểm của loại trách nhiệm dân sự, tính đặc thù của trách nhiệm
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 18
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
BTNN thể hiện ở chỗ trước hết đó là trách nhiệm thuộc về Nhà nước (không phải là trách
nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức hay cơ quan Nhà nước có thẩm quyền); Thứ hai,
Nhà nước là loại chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật, do vậy tính chất của trách
nhiệm bồi thường ở đây cũng đặc biệt, khác với trách nhiệm dân sự thông thường. Các
đặc điểm riêng của trách nhiệm BTNN như trên đòi hỏi phải thiết kế xây dựng pháp luật
tương đối độc lập so với việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự hay hành chính
nhưng cơ chế điều chỉnh này cũng phải bảo đảm tính liên thông hoặc có khả năng hoán
đổi linh hoạt giữa các cơ chế khi cần thiết nhằm bảo vệ tốt nhất các quyền, lợi ích chính
đáng của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
Nhưng điều cơ bản là quyền lực nhà nước và công vụ nói chung thường dễ bị lạm
dụng hay cán bộ, công chức Nhà nước thường có thói thiếu trách nhiệm, thờ ơ, thậm chí
vô cảm… nên Nhà nước với tư cách là người sử dụng cán bộ, công chức (người lao động,
làm thuê cho Nhà nước) phải chịu trách nhiệm bồi thường là hợp với lẽ công bằng(1).
Như vậy, về khái niệm có thể định nghĩa: Trách nhiệm BTNN là trách nhiệm pháp
lý trong đó Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người
thi hành công vụ gây ra.
1.3.5. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra với các trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự khác
Bồi thường của Nhà nước là một loại trách nhiệm pháp lý đặc thù, vì Nhà nước
là loại chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật, do vậy tính chất của trách nhiệm bồi
thường ở đây cũng đặc biệt, khác với trách nhiệm dân sự thông thường. Bên cạnh những
đặc điểm chung của bồi thường trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước có đặc thù riêng.
∗ Về chủ thể gây thiệt hại
Trong bồi thường của Nhà nước, chủ thể gây thiệt hại là người thi hành công vụ.
Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào
một vị trí trong cơ quan Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi
1 />
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 19
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
hành án hoặc người khác được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ
có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.
Bồi thường dân sự khác, chủ thể gây thiệt hại là bất kỳ người nào có hành vi trái
pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý mà gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
∗ Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Trong bồi thường của nhà nước, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là Nhà nước
mà không phải là trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức hay cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Mọi hành vi, quyết định của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ
đều được xác định là hành vi, quyết định của Nhà nước. Nếu hành vi đó trái luật, gây
thiệt hại, Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nhưng nếu việc làm của cán bộ,
công chức xảy ra không gắn với việc thi hành công vụ thì họ phải chịu trách nhiệm cá
nhân về hành vi của mình, trường hợp này Nhà nước không phải bồi thường.
Bồi thường dân sự khác, chủ thể có trách nhiệm bồi thường là người gây thiệt hại
hoặc có thể là người thứ ba như cha, mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc là pháp nhân, người dạy nghề khi
người của pháp nhân, người học nghề, người làm công gây thiệt hại trong khi thực hiện
công việc được giao.
∗ Bản chất của quan hệ bồi thường
Trong bồi thường của Nhà nước, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thay cho
cán bộ, công chức khi họ thi hành công vụ đã gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Mục
đích của bồi thường Nhà nước là đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho công dân nước mình.
Mọi công việc của cán bộ, công chức đều được pháp luật quy định cụ thể, nếu cán bộ
công chức gây thiệt hại do vi phạm pháp luật (tức là có lỗi) thì đó là sai phạm của cán bộ,
công chức, chứ bản thân Nhà nước hoàn toàn không có lỗi.
Vì Nhà nước với tư cách
là người sử dụng cán bộ, công chức nên Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường.
Trong bồi thường dân sự khác, chủ thể có trách nhiệm bồi thường là người có lỗi.
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều
604 Bộ luật dân sự năm 2005). Trong trường hợp người giám hộ không chứng minh được
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 20
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
mình không có lỗi trong việc giám hộ người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường (khoản 3
Điều 606 của Bộ luật dân sự năm 2005). Nhà trường phải bồi thường thiệt hại do người
dưới mười lăm tuổi gây ra trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại; Bệnh viện, tổ
chức phải bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong
thời gian bệnh viện, tổ chức trực tiếp quản lý người mất năng lực hành vi dân sự (Điều
621 Bộ luật dân sự năm 2005).
Cơ quan tiến hành tố tụng thuộc bộ máy Nhà nước nên bản chất của việc bồi thường
mang bản chất của bồi thường của Nhà nước.
1.4. Bản chất và ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra
1.4.1. Bản chất của chế định trách nhiệm bồi thường do Cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra
Nhà nước là một chủ thể của quyền lực công, Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi công dân phải tuân theo pháp luật của nước mình (pháp luật do Nhà nước
đặt ra). Như vậy, quan hệ giữa Nhà nước với công dân là mối quan hệ “mệnh lệnh - phục
tùng”, mối quan hệ này được điều chỉnh bởi hệ thống luật công. Tuy nhiên, một nguyên
tắc không thể phủ nhận, trong Nhà nước dân chủ pháp quyền và xã hội dân sự: Khi một
người xâm phạm một cách vô lý và gây ra những thiệt hại về tài sản cũng như thân thể
và danh dự của người khác thì người có hành vi xâm hại đó phải bù đắp những tổn thất
mà mình đã gây ra cho người bị hại. Xét trên góc độ pháp lý thì đó là sự công bằng, là
quyền được bồi thường của người bị thiệt hại, không phân biệt người gây thiệt hại là ai,
kể cả là Nhà nước trong mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
Cơ chế bồi thường Nhà nước được quy định trên nguyên tắc và bản chất bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự (người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi
thường hoặc không yêu cầu bồi thường, việc yêu cầu bồi thường về nguyên tắc không
được cao hơn thiệt hại thực tế xảy ra). Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi
thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, tức là bình đẳng và thực tế, trên cơ sở
thương lượng, thoả thuận, bình đẳng giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Như
vậy, bản chất của quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ công, nhưng nếu
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 21
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Nhà nước gây thiệt hại cho công dân thì Nhà nước phải bồi thường và việc giải quyết
quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh từ quan hệ công này lại mang bản chất của mối
quan hệ dân sự (quan hệ tư). Trong trường hợp này Nhà nước đóng vai trò như một chủ
thể của quan hệ tư, không có quyền lực hành chính mà chỉ là một chủ thể dân sự bình
đẳng với bên bị thiệt hại trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại.
Như vậy, cơ sở của chế định bồi thường Nhà nước chính là dựa trên các quyền của
công dân, các quyền này được pháp luật ghi nhận, bảo hộ và được bảo đảm thực hiện bởi
Nhà nước. Hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức Nhà nước khi thi hành công vụ
mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì trước hết Nhà nước với tư cách là người sử dụng
lao động phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại.
Mặc dù thiệt hại do cá nhân người thi hành công vụ gây ra, nhưng trách nhiệm bồi
thường là trách nhiệm của Nhà nước. Tiền bồi thường được lấy từ ngân sách Nhà nước,
mà ngân sách Nhà nước là do người dân đóng góp. Nếu Nhà nước lấy tiền của dân để bồi
thường cho dân thì chẳng có ý nghĩa gì. Do vậy, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009 quy định người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn
trả cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị
thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền(2).
1.4.2. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường do Cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là “sản phẩm” tất yếu của xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh, xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền và
xã hội dân sự. Một trong những nguyên tắc quan trọng của một Nhà nước pháp quyền là
nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nhà nước cũng như một tổ chức
hay một công dân và đều là một chủ thể trong quan hệ pháp luật (nhà nước là một chủ thể
pháp lý công), mọi hoạt động của Nhà nước phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Quyền được bồi thường khi bị xâm phạm là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp và pháp luật. Rõ ràng việc yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại là một
quyền cơ bản của chủ thể dân sự ngoài Nhà nước. Ngoài ra, trong Nhà nước pháp quyền,
mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước cũng thực hiện các hành vi pháp lý
2 />
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 22
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
và có khả năng gây thiệt hại cho các chủ thể khác khi hành xử trái pháp luật hoặc vượt
quá thẩm quyền. Và khi có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể khác, thì Nhà nước cũng
có nghĩa vụ bồi thường một cách bình đẳng như các chủ thể khác trong xã hội.
Chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là cơ sở để xác định ranh giới
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trong tương quan với cơ quan Nhà nước, thì các
cá nhân và tổ chức thường yếu thế hơn khi tiến hành giải quyết yêu cầu đòi bồi thường.
Chế định bồi thường của Nhà nước quy định phương thức và thủ tục tiến hành giải quyết
yêu cầu bồi thường nhằm tránh cho sự lạm quyền không xảy ra và bảo đảm quyền lợi của
công dân.
Chế định bồi thường của Nhà nước góp phần ngăn chặn tình trạng tham nhũng,
quan liêu, sách nhiễu người dân vẫn còn tồn tại ở một số cơ quan hành chính Nhà nước
trong một bộ phận cán bộ, công chức; Đồng thời khắc phục tình trạng yếu kém về trình
độ và năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, công chức nước ta, nâng cao ý thức
trách nhiệm và đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó hạn chế những rủi ro đem
lại cho người dân từ hoạt động công vụ.
Ngoài ra, chế định bồi thường của Nhà nước nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu
về tài sản và động viên về tinh thần đối với người bị thiệt hại, thể hiện sự tôn trọng
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân của Nhà nước ta.
1.5. Lịch sử hình thành của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra
1.5.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật La Mã
Trong thời kỳ La Mã, người La Mã đã đặt ra quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với người phụ thuộc hoặc súc vật gây ra.
Thiệt hại do người phụ thuộc gây ra: Người chủ gia đình không bị ràng buộc bởi các
hợp đồng do người phụ thuộc giao kết; nhưng chủ gia đình phải chịu trách nhiệm và
những hành vi trái pháp luật của người phụ thuộc gây thiệt hại cho người khác.
Hành vi trái pháp luật đó phải có tính chất là một tội phạm tư: Nếu người phụ thuộc
phạm tội công, thì trách nhiệm được quy kết ngoài khuôn khổ Luật Dân sự.
Thực ra, chủ gia đình không bị buộc phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi của
người phụ thuộc: Nếu muốn, chủ gia đình có thể để mặc cho người bị thiệt hại tùy nghi
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 23
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
xử lý người gây thiệt hại. Trong trường hợp người chủ gia đình nhận trách nhiệm về phần
mình, thì người này có thể bị phạt tiền.
Thiệt hại do súc vật gây ra: Trong trường hợp thiệt hại do súc vật gây ra, thì trên
nguyên tắc, việc xác định trách nhiệm cũng tương tự như trong trường hợp thiệt hại do
người phụ thuộc gây ra: Chủ sở hữu có thể nhận trách nhiệm của mình và bồi thường
thiệt hại hoặc để mặc súc vật cho người bị thiệt hại xử lý. Tuy nhiên, chủ sở hữu súc vật,
khác với chủ gia đình của người sống phụ thuộc không thể bỏ súc vật chết cho người bị
thiệt hại như cách bồi thường, trong khi chủ gia đình của người phụ thuộc có thể giải trừ
trách nhiệm bằng cách để mặc thi thể của người gây thiệt hại cho người gây thiệt hại xử
lý(3).
1.5.2. Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật cổ (Luật thời Lê –
Nguyễn)
Tìm hiểu chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật thời Lê với
Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức), được ban hành vào năm 1483. Pháp luật
thời nhà Nguyễn với Bộ Hoàng Việt luật lệ gồm có 398 điều chia làm 22 quyển, các điều
được chia theo chức năng quản lý của 6 bộ ở cấp trung ương. Chúng ta thấy chế định về
trách nhiệm dân sự được quy định sơ sài, không cụ thể và không được rõ ràng. Các quy
định này không phân định rõ trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Chế tài hình sự
được quy định trước hết nhằm trừng phạt đến kẻ nào xâm phạm đến tài sản hoặc nhân
thân của người khác. Ngoài hình phạt kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân về
thiệt hại đã xảy ra.
Ví dụ: Ở điều 466 của Quốc triều hình luật quy định trường hợp đánh người gây
thương tích, ngoài hình phạt kẻ đánh người còn phải bồi thường thiệt hại bằng tiền cho
nạn nhân theo giá ngạch được quy định một cách cụ thể trong điều luật. Hay ở điều 472
quy định trường hợp đánh các quan chức bị thương ngoài việc bồi thường thương tích
người gây thiệt hại còn phải bồi thường tiền tạ... từ những ví dụ
trên thì khoản tiền tạ được hiểu là khoản tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần cho các
quan lại phong kiến, tùy theo địa vị xã hội của họ do danh dự, nhân phẩm, uy tính bị xâm
3 Giáo trình Luật dân sự La Mã trường đại học Cần Thơ do Tiến sĩ Nuyễn Ngọc Điện biên soạn trang 69.
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 24
SVTH: Nguyễn Thanh Mã
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
phạm, đối với người dân thường trong xã hội khoản tiền tạ không thấy được nhắc đến
trong pháp luật: Chỉ có giai cấp quan lại thống trị mới được hưởng một chế định trách
nhiệm bồi thường hoàn thiện ở mội mặt, về tài sản cả về tinh thần, danh dự nhân phẩm uy
tín. Thiệt hại tinh thần, do tính mạng sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân, phẩm, uy tín bị
xâm phạm. Trong các quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Quốc
triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, thuật ngữ “thiệt hại về tinh thần” không được nhắc
đến trong các điều luật cụ thể nhưng thông qua một số điều luật có thể nhận thấy được đó
là bồi thường thiệt hại về tinh thần nhưng cũng chỉ liên quan đến tầng lớp thống trị.
Điều 472 Quốc triều hình luật quy định trường hợp đánh các quan chức bị thương,
thì ngoài tiền thương tích còn phải đền tiền tạ tương tự, điều 473 quy định các trường hợp
lăng mạ quan chức, điều 474 quy định trường hợp đánh người trong hoàng tộc... cũng đều
đưa ra một khoảng tiền tạ, ngoài việc chịu một khoảng tiền phạt. Khoảng tiền tạ được quy
định trên được hiểu là các khoản tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần cho các quan lại
phong kiến, tùy theo địa vị xã hội của họ do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm pham.
Đối với người dân thường trong xã hội thì khoản tiền tạ không được đề cập đến trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật thời phong kiến. Đó là sự bất bình đẳng
của pháp luật thời phong kiến không những ở chế định bồi thường thiệt hại mà cả các chế
định pháp luật khác cũng vậy. Pháp luật chỉ chủ yếu tập trung vào bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị. Bên cạnh đó trách nhiệm bồi thường cũng được dự liệu chung cho tất
cả mọi người trong trường hợp từ hôn, nghĩa là đã nhận đồ sính lễ gả con mà lại đổi ý
hoặc nhà trai đã mang đồ sính lễ dạm hỏi mà thay đổi ý kiến thì người thay đổi ý kiến
không kết hôn nữa thì phải bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người kia (Điều 315
Quốc triều hình luật và điều 94 Hoàng Việt luật lệ).
Sự phân biệt không rõ ràng giữa hình luật và dân luật trong Quốc triều hình luật và
Hoàng Việt luật lệ là do nó được ban hành là nhằm cho mục đích phục vụ giai cấp thống
trị để duy trì và bảo vệ sự tồn tại của nền dân chủ, chứ không chú trọng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho chế định trách
nhiệm dân sự quy định sơ sài không đầy đủ trong Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật
lệ.
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
trang 25
SVTH: Nguyễn Thanh Mã