Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 - 2013)
ĐỀ TÀI:
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA PHÁP NHÂN
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
TS. PHẠM VĂN BEO
Bộ môn Luật Tư Pháp
NGUYỄN THỊ THÙY NGÂN
MSSV: 5095536
Lớp Luật Tư Pháp 1 K35
Cần Thơ, 05/2013
GVHD: Phạm Văn Beo
1
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
......................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
...................................................................................................................
Ngày …… tháng ……. năm 2013
GVHD: Phạm Văn Beo
2
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
Ngày …… tháng ……. năm 2013
GVHD: Phạm Văn Beo
3
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình đã
luôn tạo điều kiện, giúp đỡ và động viên trong mọi mặt. Đặc biệt các thầy cô
Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình truyền dạy cho người viết
nguồn kiến thức sâu rộng góp phần hoàn thành luận văn này. Và hơn hết,
người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Phạm Văn Beo - người đã
tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ người viết rất nhiều trong suốt quá trình làm luận
văn. Chân thành cảm ơn các tác giả của những bài viết, sách, báo, tạp chí mà
người viết đã sử dụng làm tài liệu trong quá trình nghiên cứu.
Cảm ơn các bạn đã giúp đỡ người viết trong quá trình viết luận văn,
trong học tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt, cảm ơn các bạn
Luật Tư Pháp 1 K35 đã giúp đỡ, động viên về mặt tinh thần trong suốt thời
gian học ở trường Đại học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng với điều kiện thời gian cho phép, khả
năng nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, nên luận văn sẽ khó tránh
khỏi những thiếu sót và khuyết điểm. Nhưng với sự nghiên cứu nghiêm túc, lòng
đam mê tìm tòi người viết hy vọng đóng góp ý kiến nhỏ của mình vào sự phát
triển chung của nền khoa học pháp lý. Rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo
tận tình của quý thầy cô, những người đi trước và những anh chị, độc giả quan
tâm đến đề tài này.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn!
GVHD: Phạm Văn Beo
4
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS: Bộ luật Hình sự;
2. PLHS: Pháp luật Hình sự;
3. PGS.TS: Phó giáo sư. Tiến sĩ;
4. TNHS: Trách nhiệm hình sự;
5. TTHS: Tố tụng Hình sự;
6. VKS: Viện kiểm sát;
7. WTO: Tổ chức thương mại thế giới.
GVHD: Phạm Văn Beo
5
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU .....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài..........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................2
5. Kết cấu của đề tài.............................................................................................2
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP
NHÂN...................................................................................................................4
1.1 Trách nhiệm hình sự ......................................................................................4
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự .....................................................................4
1.1.2 Đặc điểm trách nhiệm hình sự.......................................................................7
1.1.3 Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự...........................................................9
1.1.3.1 Cơ sở về nội dung của trách nhiệm hình sự ..........................................9
1.1.3.2 Cơ sở về hình thức của trách nhiệm hình sự ......................................11
1.1.3.3 Cơ sở về pháp lý của trách nhiệm hình sự...........................................11
1.2 Pháp nhân ....................................................................................................12
1.2.1 Khái niệm pháp nhân ..................................................................................12
1.2.2 Các điều kiện của pháp nhân.......................................................................13
1.3 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân ..........................................................16
1.3.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân ............................................16
1.3.2 Đặc điểm trách nhiệm hình sự của pháp nhân .............................................16
1.4 Lịch sử hình thành trách nhiệm hình sự của pháp nhân ...........................17
1.4.1 Trong hệ thống pháp luật các nước Anh – Mỹ.............................................17
1.4.2 Trong hệ thống pháp luật các nước Châu Âu lục địa ...................................20
GVHD: Phạm Văn Beo
6
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
CHƯƠNG II. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.......................................................23
2.1 Phạm vi áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân .............................23
2.1.1 Trong hệ thống pháp luật của các nước Anh – Mỹ ......................................23
2.1.2 Trong hệ thống pháp luật của các nước Châu Âu lục địa.............................25
2.2 Các tội phạm mà pháp nhân có thể thực hiện ............................................27
2.2.1 Trong hệ thống pháp luật của các nước Anh – Mỹ .....................................27
2.2.2 Trong hệ thống pháp luật của các nước Châu Âu lục địa.............................29
2.3 Các điều kiện áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ................31
2.3.1 Trong hệ thống pháp luật của các nước Anh – Mỹ ......................................31
2.3.2 Trong hệ thống pháp luật của các nước Châu Âu lục địa.............................33
2.4 Hình phạt đối với pháp nhân phạm tội.......................................................36
2.4.1 Trong hệ thống pháp luật của các nước Anh – Mỹ .....................................36
2.4.2 Trong hệ thống pháp luật của các nước Châu Âu lục địa.............................37
CHƯƠNG III. MÔ HÌNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................................................39
3.1 Sự cần thiết xây dựng mô hình trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong
Luật hình sự Việt Nam ......................................................................................39
3.2 Vấn đề lý luận trong việc xây dựng trách nhiệm hình sự của pháp
nhân trong Luật hình sự Việt Nam ..................................................................41
3.3 Thực tiễn xây dựng trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật
hình sự Việt Nam ...............................................................................................45
3.4 Một số nguyên tắc xây dựng trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong
Luật hình sự Việt Nam ......................................................................................49
3.4.1 Về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân ....................................49
3.4.2 Về các tội phạm cụ thể quy kết cho pháp nhân............................................50
3.4.3 Về điều kiện quy kết trách nhiệm hình sự cho pháp nhân............................51
3.4.4 Về hình phạt đối với pháp nhân phạm tội....................................................51
GVHD: Phạm Văn Beo
7
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
3.5 Mô hình trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật hình sự
Việt Nam .............................................................................................................. 52
KẾT LUẬN
GVHD: Phạm Văn Beo
8
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ La Mã cổ đại đến nay đã và đang gây ra nhiều tranh luận gay gắt trong
giới khoa học hình sự của các nước nước xoay quanh vấn đề TNHS của pháp nhân.
Những tranh luận này về mặt thực tiễn và lý luận đã được vượt qua các nước theo
truyền thống Anh - Mỹ như Anh, Mỹ, Canada,…khi Tòa án các nước này đã chấp
nhận nguyên tắc TNHS của pháp nhân từ rất sớm và hiện nay chế định TNHS của
pháp nhân đã được thiết lập và trở thành một nguyên tắc cơ bản trong Luật hình sự
mỗi nước. Tuy nhiên, các cơ sở lý luận và cách thừa nhận, thiết lập nguyên tắc này
cũng có sự khác nhau ở mỗi quốc gia.
Trong quá trình xây dựng BLHS sửa đổi, bổ sung của nước ta hiện nay đã
xuất hiện một vấn đề gây nhiều tranh cãi: Có nên quy định pháp nhân là chủ thể của
tội phạm hay không? Hay nói cách khác là các biện pháp pháp lý hình sự có thể
được áp dụng với pháp nhân hay không? Mô hình lý luận TNHS của pháp nhân
trong PLHS như thế nào? Có thể nói vấn đề TNHS của pháp nhân là vấn đề rất mới
không chỉ trong thực tiễn pháp lý mà còn cả trong khoa học pháp lý nước ta. Do đó,
không thể kết luận một cách đơn giản rằng: “Nên hay không nên quy định nếu
những kết luận đó chưa đươc làm sáng tỏ bằng những luận điểm khoa học”. Vấn đề
TNHS của pháp nhân là vấn đề rất mới trong việc áp dụng Luật hình sự của nước ta
hiện nay, do đó để trả lời những câu hỏi trên, người viết đã chọn đề tài “Trách
nhiệm hình sự của pháp nhân” làm đề tài luận văn của mình. Qua đề tài, người viết
mong muốn tìm hiểu và trang bị cho bản thân những kiến thức về TNHS của pháp
nhân. Đồng thời, người viết cũng muốn đóng góp những ý kiến mang tính thiết thực
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn góp phần hoàn thiện PLHS của nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trọng tâm của đề tài là tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của
TNHS, sự cần thiết xây dựng TNHS của pháp nhân và mô hình của nó trong tương
lai. Chủ yếu là chỉ ra những cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết trong việc xây dựng
GVHD: Phạm Văn Beo
9
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
TNHS của pháp nhân trong gia đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Từ đó, xây
dựng một chế định TNHS của pháp nhân phù hợp với tình hình chung của nước ta.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài được người viết tiếp cận dưới góc độ khoa học hình sự, bản thân nó
rất rộng nên người viết không thể bao quát hết tất cả các vấn đề. Cho nên, trong khả
năng của mình người viết chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề. Thứ nhất người
viết chỉ đề cập đến TNHS của pháp nhân của các nước trong hệ thống pháp luật các
nước Anh - Mỹ và Châu Âu lục địa. Thứ hai đề tài chỉ nghiên cứu trách nhiệm hình
sự của pháp nhân, bên cạnh đó người viết cũng đưa ra mô hình lý luận của nó trong
tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này người viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc xậy
dựng TNHS của pháp nhân. Đặc biệt coi trọng phương pháp duy vât biện chứng và
duy vật lịch sử. Đồng thời để hoàn thành một cách tốt nhất, người viết đã kết hợp
một vài phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phướng nghiên cứu lý luận trên cơ sở các tài liệu có liên quan đến TNHS
của pháp nhân;
- Phương pháp phân tích và tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
Sự kết hợp giữa những phương pháp chung với những phương pháp riêng,
giúp người viết làm sáng tỏ vấn đề một cách nhanh chóng và mang lại hiệu quả,
phương pháp chung là cơ sở, nhưng phương pháp riêng lại thể hiện tính đặc thù của
khoa học lý luận về Luật hình sự.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn gồm: Lời cảm ơn, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Người viết tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về TNHS của
pháp nhân bao gồm: Khái niệm và đặc điểm của TNHS, khái niệm và các điều kiện
GVHD: Phạm Văn Beo
10
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
của pháp nhân, khái niệm và đặc điểm TNHS của pháp nhân, lịch sử hình thành
TNHS của pháp nhân.
Chương 2: Người viết trình bày chế định TNHS của pháp nhân trong Luật
hình sự của các nước trong hại hệ thống pháp luật Anh - Mỹ và Châu Âu lục địa
bao gồm phạm vi áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân, các tội phạm mà
pháp nhân thực hiện, các điều kiện áp dụng TNHS của pháp nhân, hình phạt áp
dụng đối với các pháp nhân phạm tội.
Chương 3: Ở chương này, người viết nêu lên sự cần thiết thiết lập chế định
TNHS trong PLHS Việt Nam, đồng thời đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
trong việc xây dựng TNHS của pháp nhân và các nguyên tắc xây dựng TNHS của
pháp nhân, trên cơ sở đó người viết xây dựng mô hình lý luận TNHS của pháp nhân
trong tương lai.
Do có phần hạn chế về kiến thức lẫn kinh nghiệm thực tiễn, trong quá trình
nghiên cứu đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp tận tính của quý thầy cô và các bạn để người viết bổ sung thêm kiến
thức và làm bài luận văn hoàn chỉnh hơn.
GVHD: Phạm Văn Beo
11
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
1.1 Trách nhiệm hình sự
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự
Từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự khi nghiên cứu những vấn đề
lý luận về TNHS, vấn đề cơ bản và đầu tiên cần được giải quyết là phải đưa ra định
nghĩa khoa học của khái niệm TNHS. Hiện nay xung quanh vấn đề khái niệm
TNHS giữa các nhà hình sự vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong khoa học luật hình sự của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga
hiện nay tồn tại một số khái niệm về TNHS:
Quan điểm 1: TNHS là một giai đoạn nhất định của việc thực hiện các
quyền và các nghĩa vụ bởi các chủ thể của quan hệ PLHS khi mà người phạm tội bị
cưỡng chế đối với việc phải chịu những sự tước bỏ nhất định1.
Quan điểm 2: TNHS là nghĩa vụ của người phạm tội: a) phải chịu hình phạt
và được thể hiện trong việc tước bỏ có tính chất cá nhân hoặc tính chất tài sản đối
với người đó vì tội phạm đã thực hiện; b) phải chịu biện pháp tác động về mặt pháp
lý hình sự bao gồm những sự tước bỏ, đau đớn, mà pháp luật quy định đối với
người đó; c) phải chịu các hạn chế về quyền lợi theo trình tự đã được pháp luật quy
định, đồng thời bị kết án và chịu hình phạt xuất phát từ trình tự tố tụng; d) phải chịu
các biện pháp cưỡng chế Nhà nước2.
Quan điểm 3: TNHS là sự: a) thực hiện có tính chất cưỡng chế những sự
tước bỏ nhất định được các cơ quan đấu tranh chống tội phạm nhân danh Nhà nước
áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm; b) kết án nhân danh
Nhà nước đối với người có lỗi về tội phạm do người đó thực hiện; c) chịu đựng
1
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.605 - 606
2
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.606
GVHD: Phạm Văn Beo
12
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
mang tính chất bắt buộc của người có tội những hậu quả tiêu cực của tội phạm dưới
hình thức kết án (sự khiển trách của Nhà nước) và sự cưỡng chế phải chịu những
hậu quả đó bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với kẻ phạm tội; d) tác
động có tính chất cưỡng chế Nhà nước do quy phạm PLHS quy định và được áp
dụng đối với người phạm tội bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án; e) phản ứng của Nhà nước đối với việc thực hiện tội phạm gắn liền với việc
tước bỏ mang tính cưỡng chế đối với người có tội các quyền nhất định hoặc sự hạn
chế các quyền ấy và được thực hiện trong các phạm vi của quan hệ PLHS3.
Quan điểm 4: TNHS là hậu quả bất lợi do luật quy định đối với người phạm
tội được tuyên bằng bản án của Tòa án đối với người phạm tội, được thể hiện chính
trong việc kết án hoặc kết án có kèm theo hình phạt và án tích4.
Quan điểm 5: TNHS chỉ là trách nhiệm của người về tội phạm đã thực hiên,
được thể hiện trong sự tác động mang tính cưỡng chế từ phía Nhà nước và phù hợp
với luật hình sự5.
Quan điểm 6: TNHS là quan hệ pháp luật xuất hiện giữa Nhà nước và kẻ
phạm tội liên quan đến các quyền nhân thân và các quyền tài sản của người đó6.
Quan điểm 7: TNHS là hậu quả pháp lý – xã hội phức tạp của việc phạm tội
mà nó bao gồm bốn yếu tố: Thứ nhất, nó dựa trên các quy phạm PLHS và bắt
nguồn từ sự kiện phạm tội nghĩa vụ của chủ thể phải trả lời trước Nhà nước mà đại
diện là các cơ quan có thẩm quyền về hành vi của mình; Thứ hai, nó thể hiện trong
bản án của Tòa án sự đánh giá có tính chất phủ định (kết án, coi là tội phạm) và sự
cảnh cáo (thể hiện sự quở trách) người đã thực hiện hành vi; Thứ ba, quyết định đối
với người có tội hình phạt hoặc biện pháp có tính chất hình sự khác; Thứ tư, án tích
3
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.606 -607
4
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.607
5
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.607 - 608
6
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.608
GVHD: Phạm Văn Beo
13
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
như là hậu quả pháp lý của việc kết án cùng vơi sự chấp hành hình phạt đã được
quyết định7.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay có bốn quan điểm
chủ yếu về TNHS:
Quan điểm 1: TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ
người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước8.
Quan điểm 2: TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật
hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện9.
Quan điểm 3: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa
vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện
pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích10.
Quan điểm 4: TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.
Tuy nhiên, phân tích khoa học hai khía cạnh của TNHS, chúng ta cần phải
hiểu theo hai nghĩa tích cực và tiêu cực:
Tích cực – TNHS là trách nhiệm phải xử sự hợp pháp của một người trong
việc ý thức được nghĩa vụ của mình là không được thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm. Về cơ bản, đây là cách hiểu theo quan điểm không
truyền thống, không có tính chất phổ biến và chính vì vậy, cũng không được thừa
nhận rộng rãi trong các nhà hình sự học nói riêng và các nhà luật học nói chung.
7
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.608
8
Đào Trí Úc: Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội,
1993, tr.41
9
Đỗ Ngọc Quang: Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân Hà Nội, 1997, tr.15
10
Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn: Thuật ngữ Luật hình sự - Trong sách: Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học (Trường Đại học luật Hà Nội), Nxb Công an nhân dân Hà Nội, 1999, tr. 126
GVHD: Phạm Văn Beo
14
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Tiêu cực – TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể
hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong
việc thực hiện tội phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp
lý hình sự theo một trình tự tố tụng riêng. Ngược lại với cách hiểu thứ nhất đã nêu
trên, đây chính là cách hiểu theo quan điểm truyền thống, có tính chất phổ biến và
do đó được thừa nhận rộng rãi trong các nhà hình sự học nói riêng cũng như các
nhà luật học nói chung.
1.1.2 Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Từ việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau về khái niệm TNHS, trên cơ sở
phân tích khoa học khái niệm TNHS theo hai nghĩa, đồng thời căn cứ vào các quy
phạm PLHS Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề TNHS và thực tiễn áp
dụng. Từ đó đưa ra một số đặc điểm cơ bản của TNHS, để đảm bảo sự nhận thức
khoa học thống nhất khi áp dụng các quy phạm PLHS và thông qua đó thấy rõ sự
khác nhau của TNHS với các dạng trách nhiệm pháp lý khác của các ngành luật
tương ứng11.
Đặc điểm thứ nhất – là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, TNHS
chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Trong thực tế khách quan nếu như không có
việc thực hiện tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, thì cũng
không xuất hiện vấn đề TNHS và do đó TNHS chính là dạng trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác vì các dạng
trách nhiệm pháp lý không đưa đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể
của hành vi vi phạm đến mức như TNHS, hạn chế hoặc tước bỏ quyền và tự do hay
thậm chí tước bỏ cả tính mạng của chủ thể.
Đặc điểm thứ hai – TNHS luôn luôn được thực hiện trong phạm vi của quan
hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất
định một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội. Nhà nước có quyền xử lý
người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các căn cứ và
trong các giới hạn do pháp luật quy định. Người phạm tội thì có nghĩa vụ phải chịu
sự tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyền
11
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.610 - 613
GVHD: Phạm Văn Beo
15
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
yêu cầu sự tuân thủ từ phía Nhà nước tất cả các quyền và lợi ích của con người và
của công dân mà pháp luật đã quy định.
Đặc điểm thứ ba – TNHS được xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền mà trình tự đó phải do pháp luật TTHS quy
định. Không phải bất kỳ cơ quan Nhà nước nào cũng được phép quy TNHS cho
một công dân, mà chỉ có cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (Cơ quan Điều tra,
VKS và Tòa án) mới có thẩm quyền này. Tuy nhiên, thẩm quyền này không phải là
sự tùy tiện mà phải theo một trình tự đặc biệt do pháp luật TTHS quy định, giai
đoạn TTHS cụ thể tương ứng với cơ quan nào thì cơ quan ấy mới có thể có thẩm
quyền khẳng định vấn đề TNHS của công dân đó bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm.
Đặc điểm thứ tư – TNHS chỉ được thực hiện trong bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định. Các văn bản của các
cơ quan bảo vệ pháp luật (cơ quan Điều tra, VKS) trong quá trình truy cứu TNHS
công dân (như quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, kết luận
điều tra, quyết định tạm giam, cáo trạng,…) hoặc bản án kết tội của Tòa án chưa có
hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị được ban hành trước khi công
dân đó chính thức bị coi là người có tội chỉ là các văn bản áp dụng các biện pháp
cưỡng chế về mặt TNHS nhằm đảm bảo cho việc thực hiện TNHS sau này chứ
chưa phải là các văn bản mà trong đó TNHS được thực hiện. Căn cứ vào nguyên
tắc hiến định về suy đoán vô tội đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, thì TNHS
chỉ được chính thức thực hiện khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. TNHS được thực hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định, có thể là hình phạt
hoặc biện pháp tư pháp.
Đặc điểm thứ năm – TNHS chỉ mang tính chất cá nhân. Trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta căn cứ vào sự phát triển của các quan hệ xã hội và căn cứ vào các
điều kiện cụ thể tương ứng (về kinh tế - xã hội, chính trị - pháp lý, văn hóa - lịch
sử,…) nhà làm luật Việt Nam mới chỉ quy định đối với riêng bản than người phạm
tội mà chưa quy định đối với pháp nhân (cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị
kinh tế,… nào đó đã có lỗi để cho người đại diện phạm lỗi vì lợi ích của pháp
nhân).
1.1.3 Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự
GVHD: Phạm Văn Beo
16
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.1.3.1 Cơ sở về nội dung của trách nhiệm hình sự
Cơ sở về nội dung của TNHS12 là một vấn đề quan trọng trong khoa học luật
hình sự của nước ngoài và của Việt Nam mà từ mấy chục năm qua vẫn còn là một
đề tài được tranh luận chưa chấm dứt, đồng thời hiện tại cũng đang tồn tại nhiều ý
kiến.
Trong khoa học luật hình sự của Liên Xô trước đây và của Liên bang Nga
hiện nay, có các quan điểm coi cơ sở về nội dung của TNHS là: lỗi; cấu thành tội
phạm; tội phạm; hành vi có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm; mối quan hệ nhân
quả; việc thực hiện tội phạm – hành vi xử sự trái pháp luật cụ thể của con người;
hành vi (bằng hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội, có tính
chất lỗi, trái pháp luật, tức là tội phạm mà các dấu hiệu của nó có trong điều tương
ứng của Phần riêng Bộ luật hình sự; khi có cấu thành tội phạm trong hành vi nguy
hiểm cho xã hội; việc xác định cấu thành tội phạm trong hành vi của người có
tội;…
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay chỉ mới có một số quan
điểm chính của các nhà hình sự học coi cơ sở về nội dung của TNHS là: sự hiện
diện của tất cả những dấu hiệu do luật định về tội phạm; hành vi của một người khi
thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự; tội
phạm – hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, nghiên cứu quy định về cơ sở về nội dung của TNHS trong
PLHS hiện hành (Điều 2 BLHS năm 1999 sửa đổi,bổ sung năm 2009), cũng như
thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS và pháp luật TTHS liên quan đến việc
giải quyết vấn đề TNHS, có thể nhận thấy cốt lõi của TNHS chính là việc thực hiện
tội phạm của thể nhân (con người sinh học cụ thể, chứ không thể là pháp nhân). Sự
khẳng định việc thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm là cơ sở về nội dung của
TNHS có thể được lý giải bởi các luận điểm chủ yếu:
Thứ nhất, “lỗi” chỉ là một trong những điều kiện của TNHS và là mặt chủ
quan của tội phạm – trạng thái tâm lý của người phạm tội được thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và
12
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.626 - 631
GVHD: Phạm Văn Beo
17
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
hậu quả của hành vi đó, nên nếu chỉ đề cập đến lỗi thôi thì chưa thể có cơ sở của
TNHS.
Thứ hai, “mối quan hệ nhân quả” giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội
chỉ là một trong các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các cấu thành tội phạm vật
chất, nên nếu chỉ đề cập đến mối quan hệ nhân quả thôi thì cũng chưa thẻ có cơ sở
của TNHS.
Thứ ba, “tội phạm” chỉ là hành vi khách quan, nguy hiểm cho xã hội và được
quy định trong PLHS thực định (bị luật hình sự cấm), nên nếu tội phạm ấy lại chưa
có việc thực hiện nó một cách cố ý hoặc vô ý trong thực tế khách quan bởi một
người nhất định – khi chủ thể chưa tác động vào tội phạm dưới dạng hành động
hoặc không hành động (làm hoặc không làm những động tác cơ học), thì cũng chưa
thể nói gì đến cơ sở của TNHS.
Thứ tư, “cấu thành tội phạm” chỉ là một khái niệm khoa học và là sự trừu
tượng về mặt pháp lý do các nhà lý luận hình sự soạn thảo, nên nếu chỉ nói là có
cấu thành tội phạm thôi thì cũng chưa thể chính xác. Theo PLHS Việt Nam, thì
người chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng (đoạn 2 khoản 1 Điều 15 BLHS năm 1985),
tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (đoạn 2 Điều 17 BLHS năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) hay phạm tội chưa đạt mặc dù trong hành vi được
thực hiện rõ ràng là chưa thể có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng
vẫn phải chịu TNHS13. Do vậy, quan điểm cho rằng cấu thành tội phạm là cơ sở của
TNHS duy nhất là hoàn toàn sai lầm, vì tự mình cấu thành tội phạm không thể là cơ
sở làm phát sinh TNHS.
Thứ năm, việc thực hiện hành vi có tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm do luật hình sự quy định (ở đây phải hiểu là chỉ có cấu thành tội phạm cơ bản
trong Phần riêng BLHS) tuy có thể có cơ sở của TNHS, nhưng căn cứ vào các quy
định của PLHS đôi khi cũng chưa cần có tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản đã hoàn thành trong Phần riêng BLHS mà chỉ cần chủ thể thực hiện hành vi
chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (đoạn 2 Điều 17
BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) hay phạm tội chưa đạt (đoạn 2 Điều
13
Trần Văn Độ: Tội phạm và cấu thành tội phạm – chương VI, trong sách: Tội phạm học, Luật hình sự và
Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr.183
GVHD: Phạm Văn Beo
18
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
18 năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng đã có cơ sở của TNHS – người đó
phải chịu TNHS theo các quy định tương ứng đã nêu.
Và cuối cùng, chỉ khi nào và bao giờ trong thực tế khách quan có việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm – hành vi phạm tội (còn gọi
là hành vi mà PLHS coi là tội phạm, mà ở đây phải hiểu là kể cả việc thực hiện
hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt được quy định trong Phần chung
BLHS), thì mới có thể nói đến cơ sở của TNHS.
1.1.3.2 Cơ sở về hình thức của trách nhiệm hình sự
Khi nghiên cứu vấn đề cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự, các nhà luật
học chỉ chú trọng tới đến việc khẳng định xem nội dung của cơ sở lý luận về
TNHS, thì trái lại về mặt hình thức – cơ sở lý luận bên ngoài của TNHS chưa được
xem xét một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, nếu theo logic của vấn đề khi đã tìm hiểu
được nội dung cốt lõi nằm trong cơ sở lý luận TNHS thì cũng cần phải xem xét về
mặt hình thức bên ngoài. Dưới góc độ khoa học Luật hình sự thì cơ sở lý luận về
mặt hình thức của TNHS là những căn cứ chung có tính chất bắt buộc và do luật
hình sự quy định và phải dựa vào đó các cơ quan có thẩm quyền mới có thể đặt ra
vấn đề TNHS của những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm14.
1.1.3.3 Cơ sở về pháp lý của trách nhiệm hình sự
Nếu như về mặt nội dung – cơ sở lý luận khách quan của TNHS được coi là
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm và mặt bên ngoài
– cơ sở lý luận hình thức của TNHS được coi là căn cứ chung có tính chất bắt buộc
và do PLHS quy định thì về mặt quy phạm – cơ sở lý luận pháp lý của TNHS cho
đến nay vẫn là một vấn đề còn tranh luận và chưa có quan điểm thống nhất trong
khao học Luật hình sự. Tuy nhiên, dựa trên hai cơ sở lý luận nội dung và hình thức
và quy phạm về cơ sở lý luận của TNHS trong BLHS Việt Nam năm 1999, cũng
như thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS và pháp luật TTHS liên quan đến
việc giải quyết vấn đề TNHS. Về mặt quy phạm – cơ sơ lý luận pháp lý của TNHS
là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
14
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.632
GVHD: Phạm Văn Beo
19
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thể tương ứng được ghi nhận trong PLHS. Chính vì vậy, cấu thành tội phạm trong
Luật hình sự được coi là cơ sở lý luận pháp lý của TNHS15.
1.2 Pháp nhân
1.2.1 Khái niệm pháp nhân
Ngoài cá nhân tham gia vào các quan hệ xã pháp luật còn có các cơ quan, tổ
chức. Để các cơ quan, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một
chủ thể riêng biệt trong các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói
riêng thì các cơ quan, tổ chức này phải có các điều kiện do pháp luật quy định.
Từ thời La Mã cổ đại những phường hội, nhà thờ, xưởng thủ công,… đã
hình thành và ngày càng mở rộng. Ban đầu, những “tổ chức” này không có tài sản
riêng mà tài sản do các thành viên góp lại như một hình thức sở hữu chung theo
phần. Trong trường hợp tổ chức bị tan rã tài sản của tổ chức đó được chia trả lại
cho các thành viên theo phần mà họ đóng góp vào. Những tổ chức như vậy không
thể tham gia như một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật. Trong một số
trường hợp, tài sản của tổ chức không của riêng ai như: nhà hát, nhà thờ, một con
tàu,… mà là của tổ chức đó nó chung.Những tài sản này không phải của riêng từng
người hay từng nhóm người mà là của một tổ chức tồn tại độc lập, không phụ thuộc
vào sự thay đổi các thành viên trong tổ chức đó, những giao dịch của tổ chức thong
qua người đại diện nhưng dưới danh nghĩa của tổ chức chứ không phải của cá nhân.
Tuy nhiên, thời La Mã cổ đại vẫn chưa đứa ra được khái niệm pháp nhân.
Trong chế độ phong kiến, việc phân chia lao động tiếp tục phát triển và hình
thành ngày càng nhiều tổ chức, bắt đầu xuất hiện những công ty khai thác thuộc địa
trên lãnh thổ của các nước thuộc châu Á, Phi, Mĩ – La tinh. Sả xuất hàng hóa chế
ngự trong thời kì tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản vấn đề
củng cố địa vị các tổ chức bằng phương tiện pháp lí để các tổ chức này tham gia
vào các quan hệ pháp luật là nhu cầu cần thiết với các loại hình tổ chức khác nhau
và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa. Khái niệm pháp nhân được hình thành và phát triển ở thời kì này,
tuy nhiên lại không có một khái niệm chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật của
một nước nào, pháp luật của các nước chỉ dừng lại ở việc quy định các điều kiện
15
Lê Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.632- 633
GVHD: Phạm Văn Beo
20
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
của pháp nhân. Một cơ quan, tổ chức được công nhận có tư cách pháp nhân khi có
đủ các điều kiện: sự tồn tại độc lập của pháp nhân không phụ thộc vào sự thay đổi
các thành viên trong pháp nhân đó, vì vậy pháp nhân được coi là “cá thể riêng biệt”,
có ý chí riêng, có “đời sống” riêng; có tài sản riêng, độc lập với các tài sản của các
thành viên trong pháp nhân đó; có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước tòa án;
trách nhiệm độc lập về tài sản.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường là điều
tất yếu khi mà quy luật giá trị tiền – hàng vẫn tồn tại. Cho nên, việc các tổ chức
tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách chủ thể là rất cần thiết cho quá trình sản
xuất trao đổi, mặc dù có sự quản lí của Nhà nước nhưng vẫn cần thiết phải có sự
tồn tại những tổ chức sản xuất kinh doanh là những chủ thể độc lập trong các quan
hệ pháp luật.
Do đó, khái niệm pháp nhân đã được định nghĩa tại Điều 84 Bộ luật Dân sự
năm 2005, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: được
thành lập hợp pháp; cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức
khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập.
1.2.2 Các điều kiện của pháp nhân
Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư
cách là chủ thể trong quan hệ pháp luật.
Thứ nhất, được thành lập hợp pháp. Một tổ chức được coi là hợp pháp nếu
có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ
tục luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc công nhận.
Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ
tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đén các tổ chức tồn tại trong
xã hội. Việc công nhận sự tồn tại của một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ
chức đó có phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị hay không. Một khi sự tồn tại
của một tổ chức có nguy cơ đến tồn tại của nền tảng xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích
giai cấp thống trị thì Nhà nước không cho phép nó tồn tại. Bởi vậy, chỉ những tổ
chức hợp pháp được Nhà nước công nhận sự tồn tại mới có thể trở thành chủ thể
GVHD: Phạm Văn Beo
21
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
tham gia vào các quan hệ pháp luật. Trong thực tiễn mỗi pháp nhân được thành lập
theo một trình tự riêng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của pháp nhân đó.
Thứ hai, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Tổ chức là một tập thể người được sắp
xếp dưới một hình thái nhất định (doanh nghiệp, hợp tác xã, bệnh viện,…) phù hợp
với chức năng, lĩnh vực hoạt động, bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của loại
hình tổ chức đó. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một
chủ thể có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi
thành lập. Việc lựa chọn hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích, nhiệm
vụ của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ chức. Thống
nhất về cơ cấu tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu,
trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức
đơn lẻ.
Pháp nhân phải là một tổ chức độc lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo
nghĩa rộng không tồn tại trên thực tế mà bất kì một tổ chức nào cũng bị chi phối
theo dạng này hay dạng khác của cá nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và
của Nhà nước. Sự độc lập của tổ chức được coi là pháp nhân chỉ giới hạn trong các
quan hệ dân sự, kinh tế, lao động với các chủ thể khác. Trong các lĩnh vực dân sự,
kinh tế, lao động tổ chức không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định các
vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó trong phạm vi điều lệ, quyết định
thành lập và các quy định của pháp luật đối với tổ chức đó. Pháp nhân có ý chí
riêng và hành động theo ý chí của mình, chỉ với sự độc lập mà pháp luật thừa nhận
thì một tổ chức mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Sự
tồn tại độc lập của các tổ chức còn thể hiện ở chỗ không phụ thuộc vào sự thay đổi
các thành viên của pháp nhân (kể cả cơ quan pháp nhân). Có rất nhiều tổ chức
thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban, khoa,… trong các trường học,
các tổ chức là một bộ phận của pháp nhân.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó. Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản với tư cách là một
chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình – tài sản độc lập. Tài
sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân mà có thể
được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lý của pháp nhân. Tài sản của
pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân – thành viên của pháp nhân, độc lập với
cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác. Tài sản độc lập của pháp nhân
là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định
GVHD: Phạm Văn Beo
22
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích của pháp nhân. Tài sản của
pháp nhân thể hiện dưới dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại tài sản khác phù
hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành trên những cơ
sở khác nhau dưới dạng được Nhà nước giao để thực hiện chức năng, được giao
theo pháp luật vè doanh nghiệp Nhà nước, được chuyển giao quyền sở hữu cho các
tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, từ nguồn vốn đóng góp của các thành viên, từ
hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp,… Tài sản của pháp nhân có thể thuộc sở
hữu của Nhà nước hoặc thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp hoặc các hình thức sở hữu
khác nhưng pháp nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như một
chủ sở hữu trong khuôn khổ điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân ghi nhận.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản
riêng của mình. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân
thân như một chủ thể độc lập, và phải chịu trách nhiệm về những hành vi được coi
là “hành vi của pháp nhân”. Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hoặc
trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân. Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho cơ
quan quản lý cấp trên của pháp nhân hoặc thành viên của pháp nhân. Các thành
viên của pháp nhân không phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa
vụ của pháp nhân. Trách nhiệm của pháp nhân thuộc dạng trách nhiệm hữu hạn
trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân. Độc lập về tài sản và chịu trách nhiệm
bằng tài sản riêng của pháp nhân là tiền đề vật chất để một tổ chức tham gia vào
quan hệ pháp luật như là một chủ thể độc lập.
Thứ tư, nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật
với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ do pháp luật
quy định phù hợp với từng loại pháp nhân. Pháp nhân không nhân danh các cá
nhân, tổ chức khác và cũng không cho phép cá nhân, tổ chức khác nhân danh mình
để hoạt động. Khi pháp nhân không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc có gây thiệt
hại cho cá nhân, pháp nhân khác thì pháp nhân có thể là bị đơn trước Tòa án.
Ngược lại, cá nhân, pháp nhân khác không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây thiệt hại
cho pháp nhân thì pháp nhân có quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của
mình.
1.3 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
GVHD: Phạm Văn Beo
23
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.3.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Khi đặt vấn đề về TNHS của pháp nhân thì đây là một vấn đề rất mới và
đang còn nhiều tranh cãi. Chúng ta có thể căn cứ trên khái niệm của TNHS để làm
rõ khái niệm TNHS của pháp nhân. Trước hết cần phải hiểu rằng. TNHS của pháp
nhân cũng chỉ là một loại TNHS. Và trong khoa học luật hình sự nước ta vẫn chưa
làm rõ được khái niệm TNHS của pháp nhân. Đặt khái niệm này trong mối tương
quan với các khái niệm trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự sẽ giúp hiểu rõ
hơn vấn đề. Như đã biết, trách nhiệm hành chính của pháp nhân đã được thừa nhận
và việc một pháp nhân vi phạm hành chính bị xử phạt vi phạm hành chính là điều
đương nhiên. Và chúng ta cũng hiểu rằng giữa vi phạm hành chính và tội phạm chỉ
khác nhau về mức độ nguy hiểm của hành vi. Như vậy khi đã thừa nhận trách
nhiệm hành chính của pháp nhân thì tại sao lại không thừa nhận pháp nhân cũng có
thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở khái niệm TNHS có thể đưa ra khái
niệm TNHS của pháp nhân: TNHS của pháp nhân là hậu quả pháp lý bất lợi mà
pháp nhân phạm tội phải chịu trước Nhà nước do hành vi phạm tội của pháp nhân
gây ra.
1.3.2 Đặc điểm trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Đặc điểm TNHS của pháp nhân có những đặc điểm mang tính chất chung
của trách nhiệm pháp lý: có cơ sở là vi phạm pháp luật, là sự thể hiện thái độ của
Nhà nước đối với chủ thể vi phạm, luôn mang tính bất lợi (về nhân thân, về tài sản
và các thiệt hại khác do pháp luật quy định) đối với chủ thể phải gánh chịu, là nghĩa
vụ đặc biệt chỉ phát sinh khi có vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó TNHS của pháp
nhân còn có những đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, TNHS của pháp nhân là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với các
pháp nhân vi phạm hình sự. Để truy cứu TNHS đối với pháp nhân nào đó cần xác
định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý để làm căn cứ cho việc truy cứu trách
nhiệm. Về cơ sở thực tiễn thì trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra khi các pháp nhân thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Về cơ sở pháp
lý, đó là những quy định của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến vi phạm
pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết. Vì thế, để tiến hành truy cứu
TNHS của pháp nhân thì cần xác định hành vi đó có phạm tội hay không. Truy cứu
TNHS đối với pháp nhân về bản chất là việc áp dụng các hình phạt, biện pháp xử lý
hình sự khi pháp nhân có hành vi phạm tội xảy ra trong khuôn khổ tiến hành các
hoạt động.
GVHD: Phạm Văn Beo
24
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân
Luận văn tốt nghiệp
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Thứ hai, TNHS đối với pháp nhân là trách nhiệm pháp lý của các pháp nhân
trước Nhà nước. Pháp nhân thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật đã ảnh hưởng
đến an toàn trật tự xã hội, do đó Nhà nước buộc các pháp nhân này phải gánh chịu
hậu quả pháp lý bất lợi để bảo vệ trật tự an toàn xã hội mà Nhà nước đã thiết
lập.Việc thực hiện các biện pháp chế tài của pháp nhân vi phạm là trách nhiệm của
pháp nhân trước Nhà nước chứ không phải trước các chủ thể khác.
Thứ ba, việc truy cứu TNHS phải được thực hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật hình sự. Chỉ có những người có thẩm quyền theo quy định của PLHS mới
có quyền tiến hành các hoạt động truy cứu, việc truy cứu TNHS được tiến hành
theo các trình tự, thủ tục do pháp luật hình sự quy định. Khi tiến hành truy cứu các
chủ thể có thẩm quyền bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của PLHS
đặt ra.
1.4 Lịch sử hình thành trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.4.1 Trong hệ thống pháp luật của các nước Anh - Mỹ
Ở nước Anh, vào giữa thế kỷ 19 các công ty, tập đoàn kinh tế lớn đã được
thành lập và phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Vai trò của các tổ
chức này ngày càng lớn mạnh và nó đã khống chế các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội. Chủ nghĩa tư bản độc quyền hình thành, những khiếm khuyết của nền kinh
tế thị trường bộc lộ sâu sắc. Lợi nhuận đã khiến các tổ chúc kinh tế đưa ra quyết
định và thực hiện nhiều vụ áp phe lớn mà hậu quả là hàng loạt các quan hệ xã hội
quan trọng khác bị xâm phạm, các lợi ích căn bản của xã hội và người tiêu dung bị
chà đạp, mà việc áp dụng các chế tài pháp lý của các ngành luật hành chính, dân sự
đã không đủ sức ngăn chặn. Bởi vậy, xuất phát từ chính sách hình sự và những lý
do khá thực dụng, các Tòa án Anh - Mỹ của Anh đã thiết lập TNHS của pháp nhân
trong luật hình sự.
Nghiên cứu án lệ của các Tòa án Anh liên quan tới TNHS của pháp nhân,
trong thời kỳ đầu nguyên tắc này được áp dụng với các trường hợp pháp nhân
không thực hiện các nghĩa vụ thuộc về pháp nhân và vì lý do không hành động này
mà pháp nhân đã phạm tội gây hại cho cộng đồng16. Việc buộc pháp nhân chịu
TNHS về tội gây hại cho cộng đồng sẽ không gặp khó khăn, vì không đòi hỏi bằng
16
Trịnh Quốc Toản: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nxb chính trị Quốc gia –
sự thật, 2011
GVHD: Phạm Văn Beo
25
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Ngân