Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN văn sư PHẠM vật lý THIẾT kế bài GIẢNG điện học BẰNG POWERPOINT PHẦN DÒNG điện TRONG các môi TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.17 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH SƯ PHẠM VẬT LÝ – TIN HỌC
ĐỀ TÀI:

THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN HỌC BẰNG
POWERPOINT PHẦN DÒNG ĐIỆN TRONG CÁC
MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Dương Quốc Chánh Tín

Trần Hồng Khoa
MSSV: 1080277
Lớp: SP Vật Lý – Tin Học. K34

Tháng 5/2011


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy: Dương Quốc Chánh Tín đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận
văn này.


Em xin chân thành cảm ơn tập thể Thầy, Cô trong Bộ môn Vật lý thuộc
khoa Sư phạm trường Đại học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em nghiên
cứu, học tập và hoàn thành luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Trung tâm Học liệu cùng các
thầy cô trong trung tâm đã tạo điều kiện thuận lợi và tận tình hướng dẫn em tìm
kiếm tài liệu trong suốt quá trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài.

Em xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ em
hoàn thành luận văn này.
Trân trọng
Cần Thơ, tháng 5 năm 2012
SVTH

Trần Hồng Khoa


MỤC LỤC
Phần 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài

Trang 1

1.1. Mục đích nghiên cứu

2

1.2. Phạm vi nghiên cứu


2

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu đề tài

2

2.1. Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong GD ở một số nước trên thế giới

2

2.2. Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam

3

3. Các phương pháp và phương tiện thực hiện đề tài

4

4. Các giai đoạn thực hiện đề tài

5

5. Làm rõ một số khái niệm được sử dụng trong đề tài

5

Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương I: Các vấn đề nghiên cứu lý thuyết


8

1.1 Cơ sở tâm lý học

8

1.1.1 Hoạt động tâm lý

8

1.1.2 Nhận thức cảm tính

8

1.1.3 Nhận thức lý tính

9

1.1.4 Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học

10

1.2 Cơ sở lý luận dạy học

12

1.2.1 Quá trình dạy học

12


1.2.1.1 Sơ lược các thành tố của quá trình dạy học

12

1.2.1.2 Mối liên hệ nghịch giữa hoạt động dạy và hoạt động học

13

1.2.2 Máy vi tính được nhìn dưới góc độ sư phạm

15

1.2.2.1 Máy vi tính – Phương tiện trực quan hiện đại trong QTDH

15

1.2.2.2 Các xu hướng sử dụng MVT ở Trường Phổ thông

17


1.2.3 Hiện trạng ứng dụng PowerPoint trong dạy học

18

1.2.4 Tính sư phạm của một bài giảng Powerpoint

20

1.2.4.1 Các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PowerPoint


20

1.2.4.2 Những điểm mạnh, điểm yếu của giáo viên khi thiết kế bài giảng bằng
PowerPoint
1.3 Khai thác phần mềm PowerPoint để thiết kế chương trình dạy học
1.3.1 Một số kĩ thuật cơ bản khai thác phần mềm PowerPoint

21
22
23

1.3.1.1 Khởi động PowerPoint

23

1.3.1.2 Chọn trang PowerPoint để soạn thảo bài giảng

25

1.3.1.3 Chọn màu nền cho Template

26

1.3.1.4 Nhập văn bản cho trang soạn thảo

26

1.3.1.5 Hiệu chỉnh văn bản


26

1.3.2 Thiết lập hiệu ứng

27

1.3.2.1 Mở cửa sổ custom animation

27

1.3.2.2 Thiết lập thứ tự hiệu ứng

28

1.3.2.3 Thiết lập thời gian bắt đầu thực hiện

28

1.3.2.4 Việc sử dụng chèn âm thanh, hình ảnh

28

1.3.3 Ưu việt của phần mềm PowerPoint

29

Chương II: Ứng dụng PowerPoint cho bài giảng cụ thể

31


2.1 Trình bày hệ thống nội dung bài giảng

31

2.2 Sử dụng các tính năng của PowerPoint để minh họa nội dung

32

2.2.1 Các hình tĩnh

32

2.2.2 Các đoạn phim

32

2.2.3 Các mô hình chuyển động

33

2.2.3.1 Nguyên tắc quán triệt mục tiêu dạy học

34

2.2.3.2 Nguyên tắc mô hình phù hợp với nội dung dạy học

35

2.2.3.3 Nguyên tắc đảm bảo tính sư phạm


35

2.2.3.4 Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan

35

2.2.3.5 Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả

36


Chương III: Giới thiệu một số bài giảng dòng điện trong các môi trường
được thiết kế bằng PowerPoint

37

Phần 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Sản phẩm đạt được của đề tài

64

2. Đánh giá tiết học có ứng dụng CNTT

65

3. Hướng phát triển tiếp theo của đề tài

66


4. Kết luận và kiến nghị

66


Luận văn tốt nghiệp

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và khoa học công
nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời
sống xã hội. Trong bối cảnh đó, để ngành giáo dục đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta cần cải cách phương pháp dạy
học (PPDH) theo hướng vận dụng CNTT và các trang thiết bị dạy học hiện đại phát huy
mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành để nâng cao chất lượng dạy học. Máy vi tính
(MVT) được sử dụng rộng rãi trong nhà trường với tư cách là phương tiện dạy học với
nhiều loại phần mềm được thiết kế dưới các quan điểm khác nhau. Hình thức sử dụng
MVT vào dạy học rất đa dạng, đang được ứng dụng phổ biến ở các nước có nền công
nghệ dạy học tiên tiến và nó được coi là một trong những PPDH tích cực.
Trong trường Đại học Cần Thơ nói riêng hay các trường đại học trong cả nước nói
chung việc sử dụng PowerPoint không những trong dạy học mà trong các hội nghị, hội
thảo đang rất phổ biến.Với những tiện ích kì diệu và dễ sử dụng của PowerPoint mà trong
thời gian gần đây phần mềm này đã thu hút rất nhiều giáo viên nghiên cứu và sử dụng
trong dạy học ở các trường đại học cũng như trường phổ thông nước ta. Vật Lí là môn
khoa học thực nghiệm đặc biệt là nội dung phần điện học, đây là phần kiến thức khó và
trừu tượng. Để học sinh có thể hiểu dễ dàng hơn, nhanh hơn, sâu sắc hơn thì việc thiết kế
và sử dụng các mô hình động bằng phương tiện máy tính đã trở nên hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lí do trên mà em chọn đề tài “Thử thiết kế bài giảng Điện học
bằng PowerPoint phần Dòng điện trong các môi trường”. Nội dung em chọn là thiết kế

bài giảng PowerPoint cho phần Dòng điện trong các môi trường: kim loại, chất bán dẫn,
chất điện phân, chất khí và chân không.
Điện học là môn khoa học xuất hiện lâu đời song chỉ mang lại sự thú vị đối với
những người đam mê nó. Ngày nay, Điện học được biết đến như một ngành khoa học đa
ngành, hiện đại nhất có nhiều ứng dụng trong đời sống và cũng là ngành khoa học phục
vụ nhiều cho công cuộc cải tạo tự nhiên trong tương lai của loài người. Tuy nhiên, để thật
1
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

sự hiểu biết về Điện học thì người học cần biết được ít nhiều về lịch sử phát minh cũng
như phát triển của ngành khoa học này.
1.1 Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận chung về việc thiết kế bài giảng điện tử phần Điện học trong
Vật Lí.
- Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học theo hướng tích cực
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập học phần Điện học ở trường Đại học.
1.2 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn em chỉ nghiên cứu và thực hiện đề tài ở phần “Dòng điện
trong các môi trường” ở giáo trình Điện học hiện hành, mặc dù để đủ tri thức em phải đọc
lại toàn bộ giáo trình này. Để phục vụ cho đề tài (Dòng điện trong các môi trường) em
phải khai thác nhiều tài liệu có liên quan, chú trọng vào lĩnh vực khai thác kiến thức phần
“Dòng điện trong các môi trường” trên mạng Internet, đĩa CD-ROM, DVD và các sách
phổ biến khoa học. Em có ý định soạn 5 bài giảng về Dòng điện trong các môi trường.
Về kỹ thuật máy tính, em sẽ nghiên cứu tình hình của việc sử dụng máy tính trong
giảng dạy ở các trường, chủ yếu là ở Đại học Cần Thơ. Các kỹ thuật sử dụng ở đây chủ

yếu là khai thác tất cả các tính năng của phần mềm PowerPoint kết hợp sử dụng các phần
mềm hổ trợ như Photoshop, Flash,…
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1 Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong GD ở một số nước trên thế giới
Trên thế giới việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã được quan tâm từ lâu, nhất là
các nước tư bản phát triển. Từ những năm 1984, 1985 tổ chức NSCU (National Sofware –
Cordination Unit) được thành lập, cung cấp chương trình giáo dục máy tính cho các
trường trung học. Các môn học đã có phần mềm dạy học bao gồm: Nông nghiệp, Nghệ
thuật, Thương mại, Giáo dục kinh tế, tiếng Anh, Địa lí, Sức khoẻ, Lịch sử, Kinh tế gia
đình, Nghệ thuật công nghiệp, Toán, Âm nhạc, Tôn giáo, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã
hội, Giáo dục đặc biệt .
Ở Ấn Độ tổ chức NCERT (National Council of Education Resarch and Training) ở
New Dehli đã thực hiện đề án CLASS (Computer Literacy and Studies in School). Đề án
xem xét việc sử dụng máy tính trợ giúp việc dạy học trong lớp, đồng thời quan tâm đến
2
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

vai trò của máy tính như là một công cụ ưu việt đánh dấu sự thay đổi có ý nghĩa về
phương pháp luận dạy học.
Năm 1985 các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Srilanka, Thái lan,
Malaysia tổ chức các hội thảo về phần mềm dạy học tại Malaysia đã đưa ra tiêu chuẩn
đánh giá phần mềm gồm 3 yếu tố: Đặt vấn đề, trình bày bài giảng và kỹ thuật lập trình. Ở
Nhật Bản, máy tính được dùng làm công cụ để giáo viên trình bày kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, tiếp thu bài mới và giải quyết các vấn đề đặt ra trong tiết học. Nhật Bản khẳng định
việc sử dụng máy tính trong dạy học, đặc biệt ở phổ thông, đã có tác dụng kích thích sự

hứng thú học tập của học sinh. Hiện nay các nước trong khu vực như: Singapore, Thái
Lan việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng đã trở nên rất phổ biến.
2.2 Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, nước ta đã bắt đầu sử dụng máy tính điện tử. Hội
đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ đã ra Nghị quyết số: 173- HĐBT (1975) và số: 245HĐBT (1976) về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong cả nước. Viện
Công nghệ thông tin được thành lập và có những đề án nghiên cứu ứng dụng CNTT, đưa
tin học vào nhà trường. Đặc biệt trong khoảng 10 năm trở lại đây đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về việc ứng dụng tin học trong dạy học các môn học ở trường phổ thông.
Chẳng hạn như:
-

Năm 2002, các tác giả Phạm Xuân Quế, Phạm Kim Chung đã thử nghiệm xây

dựng trang Web dạy học chương “Dao động cơ học” ở chương trình Vật lí lớp 12 THPT
theo hướng phát triển hứng thú, tích cực, tự lực tham gia giải quyết vấn đề trong học tập
của học sinh.
-

Năm 2005, tác giả Hoàng Trọng Phú đã ứng dụng phần mềm Working model để

thiết kế các thí nghiệm mô phỏng trong dạy Vật lí. Theo tác giả thì những hiện tượng vật
lí như được thu nhỏ lại trước màn hình giúp HS có thể theo dõi, quan sát hiện tượng ở
nhiều góc độ khác nhau.
- Lê Công Triêm đã giới thiệu một số Website điển hình dùng cho việc khai thác tư
liệu hỗ trợ cho việc thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học Vật lí.

3
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa



Luận văn tốt nghiệp

Vấn đề ứng dụng CNTT trong GD& ĐT được Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng,
coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại là điều hết
sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ GD& ĐT đã
thể hiện rõ điều này (Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Chỉ thị số 29 của Bộ GD& ĐT
(30/7/2001/CT)). Đặc biệt, chiến lược phát triển GD& ĐT 2001 - 2010 của Bộ GD& ĐT
đã yêu cầu ngành GD& ĐT phải từng bước phát triển dựa trên CNTT, vì: “CNTT và đa
phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lí hệ thống GD& ĐT, trong chuyển
tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy
và học”.
Tại trường Đại học Cần Thơ, việc sử dụng PowerPoint để báo cáo trong hội nghị là
yêu cầu bắt buộc đối với mỗi cán bộ. Cũng có nhiều giáo viên ở Khoa Sư phạm dạy môn
học của mình với sự hổ trợ của máy tính. Ngay từ năm 1997 đề tài nghiên cứu cấp bộ do
PGS.TS Lê Phước Lộc chủ trì “Nghiên cứu việc sử dụng máy tính vào dạy và học ở các
trường phổ thông (Mã số: B92-10-14)” đã được bảo vệ thành công cho thấy tập thể tác giả
(các cán bộ giảng dạy của Khoa Sư phạm) đã là những người đi tiên phong trong lĩnh vực
áp dụng tin học vào dạy học. Từ đó cho đến nay lượng cán bộ giảng dạy của khoa tiếp cận
và sử dụng máy tính trong dạy học càng nhiều mà phổ biến là sử dụng PowerPoint.
Không những thế sinh viên của khoa còn được khuyến khích sử dụng máy tính để dạy
học. Thực tế, trong nhiều năm qua đã có rất nhiều sinh viên thực hiện một số bài giảng ở
phổ thông bằng máy tính trong các đợt đi thực tập sư phạm.
Nhìn chung cơ sở vật chất thiết bị dạy học trong các trường học ở Việt Nam còn
thiếu, không đồng bộ. Đội ngũ giáo viên chưa xem việc sử dụng máy tính, cũng như các
phương tiện dạy học hiện đại khác trong quá trình giảng dạy là một nhu cầu thiết yếu. Mặt
khác để soạn thảo một giáo án điện tử không chỉ đòi hỏi những kỹ năng sử dụng máy tính
nhất định mà còn đầu tư về thời gian của giáo viên. Hiện nay đa số các trường đều được
trang bị các phòng máy tính và phương tiện hiện đại khác. Vì vậy em hy vọng đề tài này

sẽ có ích cho thời gian tới.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
-

Các phương pháp nghiên cứu:
4

GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

+ Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu Điện học và các vấn đề liên quan đến Dòng
điện trong các môi trường; Nghiên cứu thêm về lý thuyết tin học; Nghiên cứu LLDH,…
+ Nghiên cứu các địa chỉ Internet có liên quan đến nội dung đề tài để học tập cách
trình bày hình ảnh kết hợp với nội dung sao cho kích thích sự hứng thú học tập của người
học.
-

Thực hành trên máy tính: Thiết lập 5 bài giảng trên trang PowerPoint có kết hợp

các kỹ thuật khai thác phần mềm ứng dụng như đã đề cập ở trên.
-

Các phương tiện nghiên cứu:
+ Máy tính (Personal Computer)
+ Máy chiếu: Video Projecter
+ Các loại tài liệu: Sách Điện học, tạp chí, băng, đĩa CD-ROM, DVD,…


4. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Với thời gian thực hiện gần một năm học (từ tháng 09 năm 2011 đến tháng 05 năm
2012), đề tài này được thực hiện theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Sưu tầm tài liệu, nghiên cứu cơ sở lý thuyết về lý luận dạy học, các
phương pháp dạy học hiện đại, nghiên cứu các lọai tài liệu về Điện học,….
- Giai đoạn 2: Khảo sát thực tế việc sử dụng phần mềm PowerPoint vào giảng dạy
ở các trường Phổ thông, thử nghiệm soạn và giảng dạy Vật lý ở trường THPT Nguyễn
Việt Dũng bằng phần mềm PowerPoint.
- Giai đoạn 3: Tiến hành thực hiện đề tài, soạn các bài Dòng điện trong các môi
trường, giáo trình Điện học hiện hành.
-

Giai đoạn 4: Phân tích và viết luận văn.

5. LÀM RÕ MỘT SỐ KHÁI NIỆM ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
1) Máy tính (MT): Là máy tính điện tử (MTĐT) hay là máy vi tính (MVT) đôi khi
còn gọi là PC (Personal Computer).
2) Chương trình (Program): Trong đề tài tuy không sử dụng cho mục đích lập trình
đối tượng nhưng sản phẩm của công việc được gọi chung là chương trình, tạo ra để ra
lệnh cho máy tính thực hiện.
3) Phần mềm( Software): Là các chương trình cài đặt trên hệ thống MVT để điều
khiển, khai thác phần cứng.
5
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp


Trong đề tài này, phần mềm là các chương trình đơn giản đựoc tạo ra nhằm hai
mục đích:
-

Cung cấp các công cụ để người giáo viên có thể sử dụng chúng trong quá trình

trình diễn bài trên lớp.
-

Cung cấp các chương trình nguồn (PowerPoint) để các giáo viên có thể sử dụng

trực tiếp, có thế thay đổi theo ý mình hoặc tham khảo trong quá trình thực hiện soạn thảo
giáo án điện tử.
4) Hổ trợ (trợ giúp): Trước hết hổ trợ là sự “giúp đỡ”, cụ thể trong đề tài này là sự trợ
giúp của máy tính đối với việc dạy và học. Song trong đề tài này, em không dùng từ “giúp
đỡ” bởi lẽ nó có một số sự khác biệt như sau:
-

Khi người ta không làm được cái gì đó thì cần giúp đỡ. Song việc gì đó người ta đã

làm được, cần làm cho tốt hơn, chất lượng hơn lúc đó cần một sự “hổ trợ”.
-

Có sự tương tác giữa phương tiện “hổ trợ” và người được “hổ trợ”. Người được

“hổ trợ” không ỉ lại vào công cụ , cần suy nghĩ song song với sự hổ trợ đó để lĩnh hội
cũng như đôi khi cần tác động ngược lại để có phương tiện tốt.
5) Mô phỏng (Simulation): đó là sự bắt chước, làm theo (ở đây đề cập đến biễu diễn
trên màn hình máy tính) một sự vật, sự việc có trong tự nhiên hoặc do con người tạo ra,

trong đó lưu lại những thuộc tính bản chất của sự vật, sự việc ấy nhằm mục đích đơn giản
hóa để dễ hiểu hoặc làm nổi bật những thuộc tính riêng để khai thác, tận dụng những ưu
điểm của các thuộc tính ấy.
6) Hình tĩnh: Là loại hình được sao chép lại tại một trạng thái vận động của sự vật.
Khi thực hiện trình chiếu chỉ làm cho người học quan sát được rõ ràng hơn, chi tiết hơn.
7) Hình động (hoặc Video clip) :Được sao chép hay copy lại toàn bộ trạng thái vận
động của một sự vật hiện tượng nào đó mà không làm mất đi các đặc tính của chuyển
động.
8) Quá trình dạy học: Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất của hoạt động chỉ
đạo của thầy với họat động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực sáng tạo của trò, nhằm làm
cho thầy đạt được mục đích dạy học.
9) Giáo án điện tử:Tạm hiểu theo nghĩa đơn giản đó là giáo án được soạn bằng MVT
trên các trang PowerPoint để thực hiện giảng dạy của giáo viên.
6
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

10) Internet: Là hệ thống mạng máy tính được liên kết với nhau trên phạm vi toàn
thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ truyền thông dữ liệu như đăng nhập từ xa,
truyền các tập tin, thư tín điện tử và các nhóm thông tin.
Thông tin lưu trữ trên Internet ở dạng siêu văn bản, sử dụng đồng thời nhiều
phương tiện truyền thông tin như văn bản, đồ họa, âm thanh cùng với sự gây ấn tượng
bằng tương tác, MVT thì kết hợp với hệ thống đa phương tiện, làm việc với các siêu văn
bản hoàn toàn đáp ứng được khả năng nghe-nhìn-điều khiển. Khả năng này tạo mối tương
tác hai chiều giữa học sinh với chương trình ở mức độ cao hơn. Thể hiện sự phản ứng linh
hoạt với các sự kiện xảy ra trên màn hình máy tính.


7
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương I:

CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT
1.1 Cơ sở tâm lý học
1.1.1 Hoạt động tâm lý
Trong các hoạt động tâm lý diễn ra trong suốt quá trình nhận thức của con người.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động này là phản ánh hiện thực khách quan và nó phải có
hướng đích. Quá trình nhận thức được chia ra làm hai giai đoạn, thể hiện những mức độ
phản ánh khác nhau về lượng cũng như về chất: quá trình nhận thức cảm tính và quá trình
nhận thức lí tính, hai quá trình này sẽ cho chủ thể những sản phẩm khác nhau về hiện thực
khách quan, thể hiện ở các dấu hiệu của đối tượng. Nhận thức cảm tính chủ yếu cho chủ
thể những hình ảnh chính xác về sự việc, sự vật với những dấu hiệu bên ngoài còn nhận
thức lí tính cho chủ thể biết cái bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng. Hai quá trình
nhận thức này có mối quan hệ biện chứng: không có nhận thức cảm tính thì đối tượng sẽ
không phản ánh đầy đủ về hình thức bên ngoài và do đó chủ thể sẽ không tìm thấy được
rõ ràng các đặc tính bản chất bên trong, đôi khi đi vào duy ý chí ( phát biểu tính chất bên
trong của đối tượng theo chủ quan của chủ thể ); nếu không có nhận thức lí tính thì chủ
thể sẽ nhận thức sự vật, hiện tượng một cách rời rạc, không bản chất.
1.1.2 Nhận thức cảm tính

Khi nói đến vấn đề này ta không thể không chú ý đến hoạt động cảm giác và tri
giác của con người. Hai yếu tố cấu thành ấy, yếu tố nào cũng quan trọng. Cảm giác phản
ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động
vào các giác quan của ta. Nhưng những tác động ấy đôi khi làm chủ thể chưa thật sự ý
thức vấn đề học tập mà nó thể hiện ra là chủ thể lơ là, không tập trung và do đó kết quả
nhận thức chưa có gì là đảm bảo. Chúng ta nói đến hoạt động tri giác. Hoạt động này thể
hiện sự lưu tâm thật sự của chủ thể vào đối tượng, quan sát có ý thức, quan sát có tập

8
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

trung và quan sát toàn diện, không bỏ qua chi tiết nhỏ nào ở đối tượng. Hai hoạt động này
phải kết hợp với nhau và chúng có vai trò:
-

Giúp con người định hướng hành vi, hoạt động trong cuộc sống và có thể thích ứng

sự thay đổi của môi trường.
-

Nó là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não giúp cho

con người có cuộc sống tinh thần bình thường. Các công trình nghiên cứu cho thấy những
người “đói cảm giác” thì các chức năng tâm lý sẽ bị rối loạn.
-


Nó là nguồn cung những nguyên vật liệu cho những quá trình tâm lý cao hơn. Hay

nói cách khác là nó là viên gạch đầu tiên để xây dựng nên tòa lâu đài của nhận thức.
Như vậy trong dạy học, đây quả là một bước nhận thức cơ bản nhằm làm cho học
sinh bị thu hút bởi những vấn đề trong bài giảng của mình. Sau cảm giác các vấn đề học
tập, học sinh phải tri giác, liên tưởng nó tới các vấn đề khác nhau hưng có dấu hiệu bề
ngoài giống nhau để có thể tạm thời đưa ra một số kết luận về hình thức bên ngoài của
(một hoặc nhiều) sự vật, hiện tượng chuẩn bị nghiên cứu chúng sâu hơn về bản chất bằng
các hoạt động tư duy (nhận thức lí tính).
1.1.3 Nhận thức lý tính
Để các kết quả của tri giác trở thành có ý nghĩa, chủ thể phải suy ngẫm bằng các
hoạt động phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, so sánh, khái quát hóa,...v.v..mà ta gọi đó
là các hoạt động tư duy để tiến tới các quá trình qui nạp hoặc diễn dịch để phản ánh cái
bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Đây là quá trình hình thành một lí thuyết nào
đó. Trong quá trình này, tư duy ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng và nó phải thể hiện
các kết quả bằng ngôn ngữ (viết hoặc nói).
Xu thế đổi mới giáo dục hiện nay là đào tạo nên những con người thông minh,
sáng tạo, đứng trước một vấn đề phải biết soi xét, áp dụng vào hoàn cảnh thực tế. Đây là
mức độ nhận thức cao hơn về chất so với cảm giác, tri giác. Tư duy trừu tượng, khái quát
đến mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa
muốn tư duy trước hết phải tri giác được hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các sự kiện.
Kết quả của tư duy phải được kiểm tra trong thực tiễn và lại thông qua các quá trình nhận
thức cảm tính để đánh giá…
9
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa



Luận văn tốt nghiệp

Như vậy để phát huy được hết các đặc điểm tâm lý nói trên đối với người học,
trong các hoạt động này đòi hỏi người học phải vận động tích cực, bắt tay vào nhiệm vụ
học tập như tri giác, tư duy, tưởng tượng cao độ…Trong điều kiện giảng dạy, học sinh
thoải mái đón nhận nhiệm vụ học tập, tích cực hợp tác, thì không có gì khó khăn, nhưng
vào các trường hợp ngược lại, hoặc lượng thông tin quá nhiều, thời gian thực hiện quá lâu
thì lại mang ý nghĩa ngược lại. Trong tâm lý của con người, ai cũng muốn mình hoàn
thiện, muốn tìm đến cái mới và hữu ích hơn. Vì thế để giảng dạy có hiệu quả, phải cần
thay đổi phương pháp, phương tiện dạy học. Do đó mà dạy học bằng MVT có thể kết hợp
được các ưu điểm của các họat động tâm lý nói trên.
Nói như vậy để ta khẳng định lại nhận thức luận mà Lê – nin đã viết: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thức hiện thực khách
quan”. Cũng chính từ quan điểm nhận thức ấy mà trong dạy học cần các phương tiện trực
quan như mô hình, biểu bảng, hình ảnh, thí nghiệm,…Và trong thời đại ngày nay, chúng
ta có thêm nhiều công cụ hiện đại để trực quan hóa bài học. Chiếc máy tính đã giúp cho
quá trình nhận thức cảm tính (các hình ảnh động và cố định, các biểu bảng,…) được tích
cực hóa. Tuy nhiên với những kỹ xảo của các chương trình hiện nay, chiếc máy tính làm
cho con người nhanh chóng đạt được kết quả của nhận thức lí tính (biễu diễn, mổ xẻ và
mô phỏng sự vật, hình tượng hóa sự việc,…). Việc dùng PowerPoint để dạy học cũng với
mục đích trên, nếu chỉ xét về mặt tâm lý.
1.1.4 Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học
Phương tiện dạy học là các phương tiện được sử dụng trong QTDH, bao gồm các
đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy học, các thiết bị hỗ trợ và các
điều kiện cơ sở vật chất khác.
Theo Lotsklinbo: “PTDH là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp GV
hay HS tổ chức tiến hành hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dục và giáo dưỡng ở các cấp
học, ở các lĩnh vực, các môn học để có thể thực hiện những yêu cầu của chương trình
giảng dạy. PTTQ bao gồm mọi thiết kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong

QTDH, để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo”.
10
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

PTTQ là nguồn chứa đựng thông tin tri thức hết sức phong phú và sinh động, giúp
HS lĩnh hội tri thức đầy đủ và chính xác, đồng thời giúp củng cố, khắc sâu, mở rộng, nâng
cao và hoàn thiện tri thức. Qua đó rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy tìm tòi
sáng tạo, năng lực quan sát, phân tích tổng hợp, tình hình phát triển động cơ học tập tích
cực, làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học. Từ đó có khả năng vận dụng những
tri thức đã học vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.
Trực quan trong dạy- học là một nguyên tắc lý luận dạy- học ra đời sớm nhất. Từ
cổ xưa, người ta đã sử dụng nó trong quá trình truyền đạt những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ
xảo, ở những chỗ mà lời giảng không đủ để đảm bảo cho trẻ em hiểu thấu được đối tượng.
J.A.Cômenxki (1592 - 1679) nhà giáo dục nổi tiếng Slovakia được xem là
người đầu tiên nêu ra luận đề cơ bản về giảng dạy trực quan. Theo ông, không hề có gì
hết trong trí não nếu như trước đây không có gì trong cảm giác. Vì vậy, dạy- học không
thể bắt đầu từ sự vật mà phải từ sự quan sát trực tiếp của chúng. Trực quan được xem là
một phương tiện phản ánh khách quan, trung thực vào đối tượng và các quá trình của thế
giới hiện thực, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với việc phát triển tư duy trừu tượng của
HS.
PTTQ là một công cụ trợ giúp đắc lực cho GV trong quá trình tổ chức hoạt động
dạy học ở tất cả các khâu của QTDH. Nó không thể thiếu trong việc vận dụng phối hợp
các PPDH cụ thể, giúp GV trình bày bài giảng một cách tinh giảm nhưng đầy đủ, sâu sắc
và sinh động, điều khiển quá trình nhận thức của HS một cách hiệu quả, sánh tạo.
PTTQ là những phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông tin nhằm đáp ứng nhu

cầu nhận thức, phát triển, giáo dục của quá trình sư phạm. Tuy nhiên, PTTQ có giá trị dạy
học cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ sư phạm trong quá trình nghiên cứu
xây dựng và sử dụng của người GV. Nếu trong giờ học, PTTQ được sử dụng không hợp
lý sẽ dẫn đến những hậu quả xấu về mặt sư phạm và kinh tế. Chúng có thể phá vỡ cấu trúc
bài giảng, phân tán sự chú ý của HS, lãng phí thời gian và tiền của. Vì vậy, một trong
những vấn đề quan trọng hàng đầu là việc nghiên cứu xây dựng và sử dụng các PTTQ
phải gắn liền với việc hướng dẫn sử dụng có hiệu quả cho đội ngũ GV. Đây cũng chính là
một vấn đề còn ít được quan tâm đầy đủ, và là một khâu yếu nhất trong nhà trường phổ
thông hiện nay.
11
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Trong lí luận dạy học, quá trình dạy học là một quá trình truyền thông tin bao gồm
sự lựa chọn sắp xếp và truyền đạt thông tin trong một môi trường sư phạm thích hợp tối
ưu cho người học. Trong bất kỳ tình huống dạy- học cũng có một thông điệp để dạy, cũng
có thể là các câu hỏi về nội dung cho người học, và các phản hồi từ người học, kể cả sự
kiểm soát quá trình này về sự nhận xét đánh giá các câu trả lời hay các thông tin khác.
PTTQ chính là các cầu nối truyền thông tin từ GV tới HS và ngược lại. Mỗi môn học đều
cần có các PTTQ phù hợp, đặc biệt là trong thế kỷ 21 với sự bùng nổ của thông tin thì
PTTQ lại càng có vai trò quan trọng hơn.
1.2 Cơ sở lý luận dạy học
1.2.1 Quá trình dạy học (QTDH)
Khái niệm này đã được đề cập ở trên. Song để hiểu được điều này một cách cụ thể, người
ta phải biết xem nội dung bên trong nó là gì, nó được xây dựng bởi những yếu tố (thành
tố) cơ bản nào và tìm hiểu ý nghĩa của các thành tố đó.

1.2.2.1 Sơ lược các thành tố của quá trình dạy học
Các thành tố của quá trình dạy học
* Các thành tố phi vật chất:
- Mục tiêu đào tạo: Thành tố này chi phối toàn bộ việc dạy học của chúng ta, hay nói
khác đi nó qui định mức độ cũng như chất lượng cấu thành của các thành tố khác trong
QTDH. Thành tố này luôn được điều chỉnh bởi xã hội, vì vậy các thành tố khác cũng phải
thay đổi cho phù hợp.
- Phương pháp dạy và phương pháp học: Thành tố này thể hiện ra bên ngoài ở người
dạy và người học, là con đường, cách thức để QTDH đạt được mục đích dạy học. Thành
tố này cũng vận động khi mục tiêu đào tạo thay đổi.
- Thành tố môi trường xã hội và môi trường giáo dục: Thành tố này bao gồm thể chế
xã hội – quy định mục tiêu đào tạo – môi trường xã hội quanh trường, tập thể học sinh,
tập thể giáo viên - ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu đào tạo. Đây là thành tố quan trọng,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến QTDH
* Các thành tố mang tính vật chất:
- Người dạy: Cùng với mục tiêu đào tạo, thành tố này chỉ đạo trong QTDH.
12
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

- Người học: Đây là thành tố vừa bị chỉ đạo bởi các thành tố khác, đặc biệt là người
dạy, vừa là tự chỉ đạo (chủ động) trong QTDH.
- Phương tiện dạy học: Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển rất cao về phương tiện
nghe nhìn và máy móc thông tin. Nếu ngành giáo dục tận dụng được các phương tiện hiện
đại vào dạy học thì có thể nói QTDH trong thời đại mới sẽ thay đổi sâu sắc về hình thức
lẫn chất lượng.

Thế nhưng mục đích của ta là đi tìm bản chất của QTDH. Ở trên ta thấy nổi bật lên
hai thành tố chính yếu mà nếu không có chúng thì sẽ không có quá trình dạy học, đó là
người dạy và người học. Nói rõ hơn, đó là quá trình làm việc của người học và bản chất
của QTDH cũng được thể hiện ra ở mối quan hệ giữa hai thành tố này, đặc biệt là sự vận
động bên trong của quá trình học dưới sự hổ trợ, dẫn dắt của người dạy.
Hoạt động giảng dạy của giáo viên giữ vai trò chủ đạo: Tổ chức, lãnh đạo, điều
khiển quá trình dạy học. Người học trong quá trình học tập, vừa là đối tượng, vừa là
khách thể của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động nhận thức, chủ thể chiếm lĩnh
tri thức, kỹ năng theo mục đích, nhiệm vụ của quá trình dạy học. Họ không ngừng phát
huy tính cao độ tự giác, tính tích cực, tính sáng tạo, tính độc lập trong học tập dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của giáo viên.
Để đảm bảo được sự thống nhất giữa vai trò tổ chức, điều khiển quá trình học tập
của người học, trước hết hoạt động dạy học phải tiến hành hướng về người học, phải phát
huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của họ, tạo điều kiện để họ có thể học bằng hoạt động
của chính mình.
1..1.2 Mối liên hệ nghịch giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Nếu như quan sát sơ đồ dưới đây:

13
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Ta thấy rằng mũi tên chỉ theo hai chiều: Chiều thuận (ngược chiều kim đồng hồ)
chỉ liên hệ thuận tác động từ người dạy (D) đến người học (H) – Quan hệ điều khiển.
Chiều ngược lại chỉ liên hệ nghịch từ người học đến người dạy hoặc đến các đối tượng
của hoạt động học, gọi lại mối liên hệ nghịch ngoài. Riêng mối liên hệ nghịch từ kết quả

đến người học là mối liên hệ nghịch trong, thể hiện sự tự điều chỉnh của bản thân người
học các hoạt động học của mình (gọi là liên hệ nghịch trong).
Các mối liên hệ xuôi là các hoạt động dạy học – các hoạt động chỉ đạo. Sự thể hiện
các mối liên hệ này không hoàn toàn như trước đây. Các hoạt động dạy có thể không xuất
hiện thường xuyên và tường minh. Nghĩa là, không phải lúc nào người dạy cũng đứng
trên bục giảng, trước mặt học sinh. Thầy có thể đứng ngoài lớp học, thậm chí ở nhà
nhưng học sinh phải làm việc theo sự hướng dẫn của thầy.
Thầy đứng trước lớp nhưng không phải lúc nào cũng thuyết giảng mà có thể thầy
hướng dẫn học sinh học tập, thảo luận,…Trong dạy học tích cực, các hoạt động ấy nằm
trong quan hệ chỉ đạo từ thầy đến trò. Các hoạt động chỉ đạo còn bao gồm cả việc hướng
dẫn học sinh lựa chọn nội dung tham khảo ở nhà, chọn bài tập để làm, giới thiệu cho học
sinh phương pháp học sao cho thích hợp với mỗi các nhân.
Trong lý luận dạy học hiện đại, người ta quan tâm nhiều đến các mối quan hệ
nghịch. Bên cạnh việc học SGK học sinh còn phải đi thư viện theo sự giới thiệu của thầy
trên lớp. Đặc biệt quan trọng là mối quan hệ nghịch từ học sinh tới thầy. Trong quá trình
14
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

học tập, học sinh phản hồi những thăc mắc, mâu thuẫn trong tư duy phát triển QTDH. Sự
“giao lưu” này cùng kết quả kiểm tra, thầy đánh giá được học sinh của mình và cũng từ
đó thầy tự điều chỉnh các hoạt động chỉ đạo của mình cho sát với khả năng của từng lớp,
từng học sinh. Muốn có QTDH tối ưu, thầy phải tự điều chỉnh hoạt động dạy của mình
cho thích hợp, quan tâm nhiều đến phương pháp dạy, dạy như thế nào để đi đôi với hành.
Như vậy việc sử dụng các phương tiện trực quan trong giảng dạy là hết sức cần thiết, như
vậy MVT trở thành phương tiện không thể thiếu trong QTDH.

Theo lý thuyết này thì việc sử dụng MVT để hổ trợ cho dạy học sẽ đáp ứng ở mức
độ cao sự chỉ đạo của thầy cũng như giữ được mối quan hệ xuôi và ngược ở mức độ cao.
Việc thiết kế giáo án dạy học trên máy tính sẽ thể hiện rất rõ sự chỉ đạo của thầy: lúc nào
cần đưa nội dung, lúc nào đưa các hình ảnh mô phỏng, lúc nào để cho học sinh hoạt
động,…Phản ứng của học sinh trong giờ học (phấn khởi, ngạc nhiên, nhàm chán,…) sẽ
được thể hiện trong khi trình diễn các trang PowerPoint. Sự tự điều chỉnh của giáo viên sẽ
được thể hiện ở việc thầy sửa chữa, cập nhật các trang PowerPoint của mình ngay sau giờ
giảng.
1..2

MVT được nhìn dưới góc độ sư phạm
QTDH là quá trình hoạt động của thầy lẫn trò, đôi khi riêng biệt, đôi khi chung, nó

diễn ra không chỉ ở lớp học mà còn ở nhà, ngoài xã hội. QTDH bao gồm cả việc dạy bài
học mới, ôn tập, kiểm tra, đánh giá.
Với tính cách là một công cụ dạy học bình đẳng với các công cụ truyền thống
khác, MVT có thể sử dụng theo hướng khác nhau với nhiều mục đích khác nhau. Trước
hết, chiếc máy tính như là phương tiện trực quan trong QTDH.
1.2.2.1 MVT – Phương tiện trực quan hiện đại trong QTDH
Trong mỗi nội dung dạy học đòi hỏi phải có những phương pháp và phương tiện
dạy học tương ứng. Ngày nay, mục đích của QTDH là đào tạo nên những con người
thông minh, sáng tạo, phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Chính vì vậy mà
nội dung dạy học cũng đã được điều chỉnh và phương tiện dạy học cũng đã được cải tiến,
hiện đại hóa. MVT là một phương tiện dạy học hiện đại. Việc sử dụng MVT trong dạy
học có những đặc điểm sau:
15
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa



Luận văn tốt nghiệp

-

Tăng tính trực quan, sự hứng thú học tập kích thích sự chú ý của học sinh ở mức

độ cao.
-

Giao tiếp người – máy trong quá trình học tập là hoàn toàn chủ động theo sự điều

khiển của giáo viên và học sinh.
-

Tạo cơ hội để chương trình hóa không chỉ nội dung tri thức mà cả những con

đường nắm vững tri thức, điều khiển được QTDH.
-

Giảm thời gian viết, nói của giáo viên trên lớp vì nhiều nội dung đã được chuẩn bị

trên màn hình, kể cả những hình ảnh động. Cụ thể, đối với việc sử dụng phần mềm
PowerPoint trong giảng dạy Điện học, những hình ảnh, những kết quả của lý thuyết được
ghi nhận lại và được trình diễn lại. Đối tượng học tập coi như đã tri giác thực tế và hình
dung được nội dung đó.
-

Dạy học với MVT không bị hạn chế, gò bó theo thời gian biểu, có thể thực hiện


dạy học ở tình huống “không lớp” như phụ đạo riêng cho một số người, giao nhiệm vụ
cho học sinh về nhà tự học trên máy, trong đĩa CD..v..v..
-

MVT cho phép củng cố ngay lập tức và thường xuyên hơn so với dạy học truyền

thống, kế thừa kết quả của hoạt động trước đó.
-

Cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh ở mức độ cao. Học sinh có thể được

giao nhiệm vụ học tập với mức độ riêng phù hợp với khả năng, đặc điểm tâm lý và điều
kiện học tập của từng cá nhân.
-

Các mô hình, hiện tượng,…khi quan sát có sự trợ giúp của MVT được thực hiện

một cách nhanh chóng với độ chính xác cao.
-

Các số liệu, hình ảnh, đánh giá và biểu diễn linh hoạt.

-

Với các phần mềm thích hợp, với các thiết bị ngoại vi kèm theo có thể xây dựng

được phần mềm giảng dạy Điện học cho tất cả các đối tượng như chương trình đào tạo từ
xa, qua mạng Internet. Đây là vấn đề mà Đảng và nhà nước ta đang quan tâm. Thông qua
Internet chúng ta có thể lấy được những thông tin mới nhất liên quan đến nội dung dạy
học.

-

Việc sử dụng MVT trong dạy học cũng làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy

học của giáo viên. Hình thức tổ chức dạy học cũng từ đó được cải tiến, hoàn thiện theo
hướng linh hoạt phong phú hơn.
16
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

1.2.2.2 Các xu hướng sử dụng MVT ở trường Phổ thông
Giáo dục tin học cho học sinh thông qua giảng dạy các môn học khác, sử dụng
hình thức nội, ngoại khóa,…Sự nghiệp giáo dục phải đáp ứng những đòi hỏi của xã hội.
Đó là yêu cầu có tính chất nguyên tắc. Trong thời đại ngày nay MVT trở thành học vấn
phổ thông của mọi thành viên trong xã hội. Nếu như sự phát triển mạnh mẽ và ứng dụng
rộng rãi của tin học là một đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học công nghệ của
thế kỷ này thì việc đưa tin học vào nhà trường cũng là một bước ngoặc trọng đại trong sự
nghiệp đào tạo, nó vừa sử dụng công nghệ thông tin cho chính nó, nó cũng vừa đào tạo
cho xã hội những con người ra đời tiếp cận với MVT để làm việc.
Có hai xu hướng để đưa tin học vào trường phổ thông:
-

Đưa tin học vào chương trình giảng dạy, xem tin học như một môn học tương tự

các môn học khác (thực tế đã thực hiện tại hầu hết các trường phổ thông hiện nay).
-


Sử dụng MVT như một công cụ dạy học: công cụ xử lí số liệu trong phòng thí

nghiệm và công cụ trực tiếp phục vụ cho người giáo viên trên lớp.
Dưới đây em chỉ đề cập đến xu hướng thứ hai có liên quan trực tiếp tới đề tài này.
1.2.2.3 Sử dụng máy tính như công cụ dạy học
a. Mô phỏng các nội dung dạy học
Theo hướng này, các môn học chẳng hạn như Vật Lý, Toán, Hóa Học, Sinh Học và
cả các môn kỹ thuật sẽ có rất nhiều lợi thế trong việc tận dụng màn hình của chiếc MVT.
Với các ngôn ngữ lập trình không đến nỗi phức tạp lắm như: Pascal, Visualbasic, htlm và
đặc biệt là các phần mềm sẵn có (Maple, Mathlap, Interactive Physic 2000,…), nếu biết
kết hợp những lợi điểm của MVT cùng với những ưu thế tuyệt đối của người giáo viên về
những ý tưởng cũng như những cái nhìn mang tính sư phạm, chúng ta có thể biểu diễn các
hình ảnh, hiện tượng cũng như các thí nghiệm trên màn hình, giả sử áp dụng cho mô
phỏng Vật Lý:
-

Biễu diễn cái cụ thể nhưng rất trừu tượng (hệ chuyển động tương đối - hệ quy
chiếu).

-

Có thể làm chậm hóa một vấn đề để quan sát (hình ảnh dòng điện chạy trong dây
dẫn).
17

GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa



Luận văn tốt nghiệp

-

Biễu diễn các hiện tượng của Vật Lý vĩ mô có bản chất mang tính vi mô (biễu diễn
sự truyền dao động của sóng ngang, sóng dọc, sự dính ướt,…).

-

Biễu diễn dao động cơ điều hòa và trực quan hóa sự biến đổi năng lượng trong
khung dao động điện,…

-

Mô phỏng nguyên tắc cấu tạo và hoạt động của các động cơ, mô phỏng các hiện
tượng Vật Lý.

-

Mô phỏng các thí nghiệm Vật Lý từ đơn giản đến phức tạp (các thí nghiệm cơ.
nhiệt, điện, quang, nguyên tử hạt nhân, thuyết tương đối,…).

Đây là một công việc hết sức cần thiết, bởi lẽ trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
hiện nay còn yếu kém, thiết bị hiện đại chưa được trang bị đầy đủ.
b. Soạn thảo giáo án dựa vào phần mềm PowerPoint
Thực tế giảng dạy cho thấy, sử dụng phần mềm PowerPoint trên lớp đã có thể thay
thế gần như hoàn toàn cho bảng viết trong suốt tiết học. Cũng có thể sử dụng MVT ở từng
giai đoạn của tiết học: củng cố tri thức cho học sinh trước khi bắt đầu giờ giảng, xây dựng
tri thức mới, ôn luyện và vận dụng tri thức, tổng kết hệ thống hóa kiến thức và kiểm tra.

MVT có thể mô phỏng các thí nghiệm ảo với hình ảnh, âm thanh, màu sắc hợp lí để có thể
kích thích học sinh trong lớp học. Trong dạy học Điện học, hệ thống các hình ảnh tĩnh,
động mô tả dòng điện, hình ảnh các nhà nghiên cứu lịch sử về điện,… cần thiết cho nội
dung bài học sẽ được biễu diễn nhanh chóng và hoàn toàn động mà không cần lập trình
phức tạp. Những cách làm ấy sẽ góp phần tích cực hóa các hoạt động học tập của người
học.
1.2.3 Hiện trạng ứng dụng PowerPoint trong dạy học
Microsoft PowerPoint là chương trình ứng dụng trong bộ sản phẩm nổi tiếng của
Microsoft mang tên Microsoft Office. Cùng với Microsoft Word và Microsoft Excel,
PowerPoint thực sự cần thiết cho tất cả các cơ quan, công sở, trường học, văn phòng.
Hiện nay, phần mềm PowerPoint là công cụ được sử dụng với nhiều mục đích và ngày
càng được khẳng định tầm quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Nó cũng được nghiên cứu sâu
những chức năng vốn có để phục vụ nhu cầu ngày càng lớn về giảng dạy và học tập trong
các nhà trường. Khác với hai sản phẩm phổ biến của Microsoft, PowerPoint với công cụ
18
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

tinh xảo, biểu mẫu, biểu đồ có sẵn và tự thiết kế cũng như một loạt những chức năng tự
động hóa các quá trình này dùng để tạo ra các biểu mẫu đồ hoạ trang trí đẹp mắt và phim
dương bản được kết nối tạo nên các trình phim biểu diễn các cơ chế, các quá trình... được
ứng dụng rất nhiều trong việc thiết kế các bài giảng, các thuyết minh khoa học, các báo
cáo... hết sức sinh động. Nhờ đó, PowerPoint thực sự mang lại hiệu quả cho những ứng
dụng nhằm tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực.
Hiện nay, một số giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ về đổi mới phương pháp
dạy- học. Khi sử dụng PowerPoint, nhiều giáo viên quên việc sử dụng bảng và coi màn

hình là công cụ duy nhất. Kết quả là trong giờ học, học sinh chỉ làm nhiệm vụ chép lại
những chữ phóng to trên màn hình, không còn thời gian để nghe hoặc trao đổi về bài học.
Vì vậy mỗi GV cần phân tích những ưu nhược điểm của việc áp dụng công nghệ thông
tin, phân tích sự khác nhau về mức độ áp dụng cho từng bài, từng phần kiến thức.
Nghiên cứu bước đầu của em cho thấy phần mềm PowerPoint có thể thực hiện
được các công việc phục vụ giảng dạy, học tập sau:
• Tạo giáo trình, sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hướng dẫn phục vụ giảng
dạy, học tập trong nhà trường và tự học của HS.
• Tạo các trình phim, mô hình động mang tính trực quan, phù hợp với việc tổ chức
dạy- học, phục vụ hội thảo, triển lãm...
Phần mềm PowerPoint có những tính năng sau:
-

PowerPoint là một phần mềm cho phép chúng ta thiết kế ở diện rộng phù hợp với

tất cả các môn học, nó có tác dụng giúp giáo viên trình bày nội dung kiến thức một cách
lôgic, dẫn dắt học sinh đi sâu vào từng vấn đề cụ thể, đặt các em trước những tình huống
có vấn đề cần phải giải quyết.
-

Giáo viên có thể dựng hình ảnh, âm thanh, cùng với chữ viết dưới dạng câu hỏi,

bài tập... Các vấn đề cụ thể được trình bày lần lượt trên một phông nền có màu sắc hài
hoà, không gian ba chiều kèm theo hình ảnh, âm thanh sinh động gây ấn tượng mạnh tới
người học.
-

Giáo viên có thể hiển thị nội dung theo những biểu mẫu có sẵn hay tự thiết kế nội

dung bằng các sơ đồ, biểu bảng, chữ viết kết hợp với việc dựng đồ họa; có thể cho các

hình ảnh, sơ đồ, nội dung của các câu hỏi, bài tập lần lượt xuất hiện trên màn hình theo
19
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


Luận văn tốt nghiệp

tiến trình dạy học; cũng có thể sử dụng âm thanh, lời nói, nhạc nền phụ họa cho bài giảng
tạo cảm giác hưng phấn giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn.
-

Giáo viên có thể kết nối các slide trong từng phần của nội dung dạy học để tạo

thành một chương trình lôgic theo hình thức tự động hoá hoàn toàn, hoặc theo hình thức
tự điều khiển thông qua bàn phím hay con chuột... cho phép giáo viên hoàn toàn chủ động
điều khiển hoạt động dạy học trong một tiết dạy để đạt hiệu quả cao nhất.
-

Phần mềm PowerPoint dễ thiết kế, dễ sử dụng và sử dụng linh hoạt trong các điều

kiện dạy học khác nhau: cụ thể sử dụng trực tiếp bằng máy tính kết hợp với máy chiếu đa
năng, cũng có thể ghi toàn bộ phần mềm dạy học đó ra đĩa CD để sử dụng với đầu VCD
phát ra màn hình vô tuyến mà hiện nay rất phổ biến ở các trường học.
-

So với sử dụng đèn chiếu, dùng PowerPoint có nhiều ưu điểm: giáo viên hoàn toàn

chủ động không mất nhiều thời giờ vào các động tác như phải thay hoặc lật các bản trong

trên đèn chiếu; hình ảnh chữ biết thể hiện các màu sắc sinh động, giáo viên có thể tổ chức
hoạt động nhận thức cho học sinh theo chương trình tự động trong thời gian một tiết học,
hay tự điều khiển bằng bàn phím hoặc con chuột cho linh hoạt phù hợp với tiến trình bài
giảng và đối tượng học sinh, cho phép cụ thể hoá từng phần kiến thức hay sơ đồ hoá một
cách hệ thống chứ không đơn điệu như khi đưa bản trong lên đèn chiếu.
-

Việc thiết kế và sử dụng phần mềm PowerPoint giảng dạy bằng máy vi tính thực

sự đơn giản và tiện ích, không tốn kém nhưng khả năng phát huy tính tích cực của học
sinh trong giờ học lại đạt hiệu quả cao. Các hình thức sử dụng hình ảnh, bảng biểu, sơ đồ
trong giảng dạy linh hoạt, phong phú cho phép giáo viên dẫn dắt học sinh đi từ các chi tiết
cụ thể đến khái quát hoặc ngược lại. Hơn thế nữa, những kiến thức quan trọng cần phải
nhấn mạnh và phải dành nhiều thời gian hơn thì khi thiết kế, chúng ta có thể hoàn toàn
chủ động điều chỉnh bằng cách đặt chế độ tự động về thời gian, hay điều khiển các slide
bằng bàn phím hoặc con chuột; hoặc ghi toàn bộ phần mềm dạy học đó ra đĩa CD để sử
dụng.
1.2.4 Tính sư phạm của một bài giảng PowerPoint
1.2.4.1 Các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PowerPoint
* Ưu điểm:
20
GVHD: Th.S Dương Quốc Chánh Tín

SVTH: Trần Hồng Khoa


×