Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tieu luan quan ly cong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.47 KB, 15 trang )

Họ và tên: MA HOÀNG THAO
Lớp: Cao học QLKT 12A
BÀI KIỂM TRA
Môn: QUẢN LÝ CÔNG

Câu hỏi 1: Xu hướng triển khai cải cách nền hành chính của các nước
trên thế giới. Hãy phân tích một trong những nội dung cải cách đó, liên hệ thực
tế ở Việt Nam?
Trả lời:
Bước sang thế kỷ 21, thế giới phải đối diện với nhiều thách thức hơn, các
yếu tố môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến từng quốc gia và cả ở
phạm vi khu vực và quốc tế nhanh hơn. Hành chính công ở nhiều nước ngày
càng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp hơn của đời sống xã hội diễn ra
không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế. Đặc biệt, cuộc
khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế diễn ra trên quy mô toàn cầu
trong những năm qua tác động không nhỏ tới nền kinh tế của các quốc gia. Đây
cũng là thách thức đối với Chính phủ ở nhiều nước và để vượt qua được thách
thức đó đòi hỏi hành chính công ở các nước phải thay đổi mạnh hơn và theo
hướng tích cực hơn nữa.
Ngày nay, cải cách hành chính trở thành một trào lưu, là một nhu cầu tự
thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm xây dựng một nền hành
chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, một nền hành
chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục đích chủ yếu, để từ đó xây dựng,
phát triển và hoàn thiện nền hành chính. Trong thực tế, những thay đổi đó đang

1


diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau và các xu hướng này thường được diễn
ra đan xen và kết hợp với nhau nhằm đạt được hiệu quả cao.
1. Khái niệm cải cách hành chính


Cải cách hành chính là một khái niệm đã được nhiều học giả, các nhà
nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa ra, dựa trên các điều kiện về chế độ
chính trị, kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm
và mục tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các định nghĩa này là khác nhau. Tuy
nhiên, qua xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ định nghĩa của khái niệm, có
thể thấy các khái niệm về cải cách hành chính được nêu ra có một số điểm thống
nhất sau:
- Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu
nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà
chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn
so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào
cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến
hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý
kinh tế - xã hội của một quốc gia.
- Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của
lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra
những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số
nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức,
thể chế pháp lý hoặc tài chính công .v.v...

2. Các xu hướng cải cách nền hành chính trên thế giới hiện nay
2


2.1. Thay đổi về thể chế của hành chính công, về quản lý nguồn lực
con người và quản lý tài chính công.
Thể chế hành chính công bao gồm các văn bản luật, thủ tục hành chính và
thiết chế tổ chức, làm cơ sở để điều chỉnh hành vi của công chức nói riêng và

công dân nói chung. Cải cách thể chế và các quy định của pháp luật nhằm tạo
điều kiện cho các nhà quản lý chủ động và linh hoạt hơn trong quản lý thực thi
công vụ, áp dụng cạnh tranh, tạo động lực làm việc cho công chức, thực thi công
vụ dựa vào nhu cầu của công dân, tăng cường sự tham gia của nhân dân . Xu
hướng cải cách này cũng nhằm loại bỏ những cản trở trong hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước, do đó hiệu quả hoạt động sẽ được cải thiện. Thể chế
còn bao gồm những thủ tục hành chính cơ bản điều chỉnh hoạt động công vụ, tài
chính và ngân sách. Cải cách thể chế cho phép các nhà quản lý linh hoạt hơn
trong hoạt động quản lý của mình dựa vào những thủ tục hoạt động và cách thức
cung cấp dịch vụ công phù hợp, hiệu quả hơn. Với cải cách này, các nhà quản lý
được tăng cường trách nhiệm trong thực thi công vụ. Tính chủ động, linh hoạt
của các nhà quản lý được tăng lên nhờ sự nới lỏng kiểm soát của các cơ quan
trung ương đối với các nguồn lực đầu vào (đặc biệt là nguồn nhân lực và tài
chính) và các thủ tục hoạt động và nhờ vào việc quản lý dựa vào mục tiêu. Các
mục tiêu được xác định rõ ràng, các nhà quản lý được trao trách nhiệm cá nhân


trách

nhiệm

tổ

chức

để

chủ

động


thực

hiện

mục

tiêu.

Thay đổi về quản lý nguồn lực con người diễn ra cả về phạm vi lẫn bản chất của
hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Những thay đổi này gắn liền với tư duy và đặc điểm của “quản lý nguồn nhân
lực chiến lược”. Con người từ chỗ được coi là chi phí của tổ chức thì với sự thay
đổi này, họ được coi là tài sản, là nguồn “vốn” của tổ chức.

3


Các nhà quản lý được chủ động trong việc tuyển dụng, sa thải, thăng tiến,
thuyên

chuyển,

duy

trì



trả


lương

công

chức. Việc trả lương công chức gắn với quá trình thực thi công vụ và kết quả
thực hiện công việc. Tuy nhiên, thực hiện được điều này không dễ dàng bởi nếu
hệ thống lương trả theo công việc không được thiết kế chính xác, khoa học sẽ
ảnh hưởng đến động cơ và tâm lý làm việc của công chức, do đó ảnh hưởng đến
mục tiêu và hiệu quả hoạt động chung của tổ chức. Vấn đề quan trọng nhất là
phải xây dựng được các tiêu chí rõ ràng và các công cụ để đo lường hoạt động
thực

thi

công

vụ

của

công

chức.

Ngoài ra, trong quản lý công chức các nước đều cố gắng thay đổi văn hoá tổ
chức

theo


hướng

quan

tâm

đến

hiệu

quả

công

việc.

Trong quản lý tài chính công, các thay đổi chủ yếu tập trung vào các nội dung
sau: áp dụng các thực tiễn quản lý đã thành công của khu vực tư nhân; tập trung
vào hoàn thiện hệ thống kiểm toán hoạt động hiệu quả; chú ý đến quá trình thực
hiện chứ không chỉ đầu vào; kiểm soát chi phí hoạt động của các tổ chức hành
chính nhà nước; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý tài chính.
2.2.Sử dụng hệ thống quản lý thực hiện công việc theo định hướng kết
quả
Để quản lý theo định hướng kết quả, các cơ quan hành chính nhà nước
phải phát triển các kế hoạch chiến lược để gắn kết mục tiêu phát triển của tổ
chức với kết quả hoạt động của tổ chức. Cách thức quản lý tập trung vào “ thực
hiện công việc” và kết quả công việc” khiến cho các nhà hoạch định chính sách
thay đổi từ việc quan tâm tới vấn đề quy trình “quyết định được làm như thế
nào” sang kết quả và từ việc quan tâm xem bộ máy hành chính nhà nước chi tiêu
như thế nào sang quan tâm tới vấn đề bộ máy hành chính nhà nước làm được

những gì. Các nhà quản lý có trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của tổ chức.
Sự cống hiến của họ được thừa nhận và khen thưởng xứng đáng. Họ cũng được
trao quyền chủ động và linh hoạt hơn trong quá trình hoạt động để đạt được mục
4


tiêu đã định. Nhiều tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý và giám sát
quá trình thực hiện công việc của công việc của cả tổ chức nói chung một cách
có hiệu quả nhất. Quản lý theo định hướng kết quả đòi hỏi phải có sự thay đổi tư
duy và thái độ của các nhà quản lý và lãnh đạo, từ việc tập trung xem “có đạt
được mục tiêu hay không” sang xem xét “đạt mục tiêu đó bằng cách nào”. Các
nhà quản lý ngoài việc quan tâm đến mục đích. mục tiêu, các chiến lược và biện
pháp thực hiện còn phải chú ý đến phản hồi của các nhóm khác nhau để kịp thời
điều chỉnh. Các thành viên của tổ chức có vai trò quan trọng trong việc đánh giá
các kết quả đạt được của tổ chức cũng như trong việc đề xuất các giải pháp để
đạt được mục tiêu.
2.3. Áp dụng các yếu tố thị trường trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước
Theo xu hướng này, nhiều yếu tố thị trường như cạnh tranh, đa dạng hóa sự
lựa chọn, tạo động lực thông qua các biện pháp mang tính thị trường được áp dụng
trong cung cấp dịch vụ công. Tăng cường sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài,
thông qua mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với khu vực tư nhân ( ví dụ hợp đồng
cung cấp dịch vụ với các yếu tố tư nhân) cũng được quan tâm. Nhiều nước đặt mục
tiêu xây dựng một chính phủ giống với doanh nghiệp. Các cơ quan hanh chính nhà
nước ngày càng thay đổi theo hướng có nhiều đặc điểm giống với khu vực tư nhân.
Những thay đổi này diễn ra cả bên trong và bên ngoài tổ chức. Các thay đổi bên
trong tổ chức bao gồm: áp dụng cạnh tranh, sử dụng các biện pháp tạo động cơ làm
việc gắn với thị trường, linh hoạt hơn trong quản lý, điều hành và áp dụng hợp
đồngtrong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Từ bên ngoài tổ chức, các
thay đổi diễn ra theo hướng tăng cường sự lựa chọn trong cung cấp dịch vụ, đảm

bảo minh bach, hiệu quả, đáp ứng được đòi hỏi của công dân và của tổ chức, các
mục tiêu phải được xác định rõ và đo lường được. Tăng cường áp dụng các biện
pháp của khu vực tư nhân như sử dụng các hình thức đấu thầu giữa các tổ chức của
nhà nước và tổ chức tư nhân trong cung cấp dịch vụ công.
5


4. Xây dựng một bộ máy hành chính hoạt động theo nhu cầu
Xu hướng chung là các nước đều đặt mục tiêu xây dựng một bộ máy hành
chính với các đặc điểm cơ bản sau:
- Đáp ứng nhanh chóng với các yêu cầu hiện tại và tương lai của công dân, tổ
chức;
- Chỉ tập trung vào các hoạt động mà các cơ quan hành chính nên làm và làm
tốt. Để làm được điều này cần phải có cơ sở pháp lý và thực tiễn để xác định các
nhiệm vụ của nhà nước phải thực hiện và các nhiệm vụ do các tổ chức không phải
nhà nước đảm nhận;
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại vào quản lý hành chính nhằm thúc
đẩy sự hợp tác và cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Áp dụng công nghệ
thông tin trong quản lý hành chính nhà nước làm thay đổi cách thức hoạt động của
chính phủ, vừa đáp ứng được nhu cầu phục vụ ngày càng cao của xã hội, vừa giúp
giảm chi phí hoạt động; góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động của các cơ quan
trong nền hành chính. Công nghệ thông tin cũng được xem là một công cụ chính
nhằm tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của hệ thống hành
chính.
5. Tăng cường sự tham gia của nhân dân
Thực tế cải cách hành chính của nhiều nước cho thấy, gia tăng sự tham gia
của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính đem lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, các
chính sách và quyết định của nhà nước được ban hành sát thực tế hơn nên hiệu quả
và hiệu lực được cải thiện hơn. Thú hai, thông qua sự tham gia vào hoạt động quản
lý của nhà nước, lòng tin của nhân dân đối với nhà nước được tăng lên. Theo hướng

này, sự thay đổi của hành chính công ở nhiều nước thường tập trung vào:

6


- Tạo điều kiện để công dân và tổ chức tiếp cận các thông tin về hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước một cách đẽ dàng, chính xác và kịp thời hơn. Đây
cũng là cơ sở đảm bảo tính minh bạch của nền hành chính
- Gia tăng trách nhiệm trong hoạt động ung cấp dịch vụ công và đa dạng hóa
các hình thức phản hồi của các tổ chức và công dân đối với các dịch vụ công
- Đề cao vai trò của công dân trong đánh giá hoạt động của nhà nước. Công
dân cần được tham gia xây dựng và phát triển các tiêu chí đánh giá hoạt động cơ
quan hành chính nhà nước ( nhưng các quan điểm của công chúng đối với việc cung
cấp các dịch vụ công chỉ là một yếu tố trong đánh giá, bên cạnh nhiều yếu tố khác)
- Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạch định chính sách và ra
các quyết định. Ở nhiều nước cá các quy định pháp lý cụ thể về việc bảo đảm sự
tham gia của nhân dân trong việc ra quyết định cũng như hoạch định chính sách
công ở tất cả các cấp chính quyền
Sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước không chỉ được thực hiện
thông qua các đại diện của dân, do dân bầu ra mà ngày nay, cùng với sự phát triển
của công nghệ hiện đại, việc người dân tham gia vào hoạch định chính sách và ra
các quyết định có thể được thực hiện thông qua trưng cầu dân ý(hỏi ý kiến trực tiếp
của người dân) và đối thoại trực tiếp qua truyền hình hoặc Internet.
6. Sử dụng các mối quan hệ hợp tác hơn là cơ cấu thứ bậc trong hoạt
động hành chính
Ngày nay các vấn đề xã hội càng trở nên phức tạp và để giải quyết các
vấn đề phức tạp này thì một cơ quan hay một tổ chức đơn lé không thể làm được
mà cần có sự tham gia và phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Chính
vì vậy nhiều chính phủ trên thế giới đang cố gắng tạo dựng các mối quan hệ hợp
tác có hiệu quả giữa các tổ chức hành chính nhà nước, giữa trung ương với địa

phương, giữa các cấp hành chính địa phương khác nhau, giữa các tổ chức hành
7


chính nhà nước với các tổ chức xã hội, giữa các tổ chức trong khu vực công và
các tổ chức trong khu vực tư....


Liên hệ thực tế ở Việt Nam:

Qua tìm hiểu xu hướng, nội dung cải cách nêu trên cho thấy, bài học thành
công của một số nước là ở sự chú trọng thiết kế các chiến lược và chương trình
cải cách trong điều kiện cụ thể của nước mình. Khi vận dụng bài học kinh
nghiệm của các nước khác hay của các tổ chức quốc tế, cần đặc biệt quan tâm
đến bối cảnh chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội mà cuộc cải cách đó diễn ra, như
hệ thống chính trị, trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, năng lực lãnh
đạo chính trị, truyền thống lịch sử, tập quán dân tộc, văn hóa vùng miền, tầm
quan trọng của các mối quan hệ thân thích, cá nhân. Tuy nhiên, chúng ta cần
quan tâm đến xu hướng chung là các hệ thống công vụ đều nhìn nhận tính hiệu
suất không chỉ dừng ở khía cạnh đạt được các mục tiêu đề ra với chi phí hiệu
quả. Hệ thống công vụ phải vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp, nguyên tắc thực
tài, hướng tới các giá trị phục vụ công; đảm bảo cung ứng hiệu quả hàng hóa,
dịch vụ công đến công dân, bao gồm những người nghèo, nữ giới, dân tộc thiểu
số, người có hoàn cảnh thiệt thòi; đồng thời, đảm bảo tăng cường quyền năng
của công dân, giúp họ chủ động tham gia và tham gia thực sự bình đẳng trong
quá trình hoạch định chính sách và quản lý hành chính công. Do vậy, cùng với
việc tăng cường năng lực bộ máy hành chính, nâng cao trách nhiệm giải trình
bên trong, tạo động lực cho công chức tận tâm tận lực phục vụ đất nước, phụng
sự nhân dân, nhiều nước quan tâm nâng cao trách nhiệm giải trình với bên ngoài
(với xã hội và công dân), thông qua việc thể chế hóa và áp dụng các nguyên tắc

công khai, minh bạch, công bằng, chung tay quản lý và cung ứng dịch vụ công;
xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu quản lý, xây dựng chính phủ điện tử; Hiến
chương Công dân; kiểm toán xã hội; các cơ chế phân cấp phân quyền; áp dụng
mô hình đối tác công tư (PPP) và ký hợp đồng cung ứng dịch vụ với bên
ngoài…
8


Việt Nam đã và đang tập trung triển khai các giải pháp đề ra cho giai đoạn
2016 – 2020 của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, đẩy mạnh
cải cách chế độ công vụ, công chức theo Đề án 1557 của Chính phủ. Các nội
dung cải cách được triển khai theo đúng quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ, phù hợp với thực tiễn trong nước và xu hướng quốc tế. Thời gian tới,
để có thể xây dựng Chính phủ minh bạch, liêm chính, gần dân, năng động, kiến
tạo phát triển, cần tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo thuận lợi cho xã hội,
các doanh nghiệp, tổ chức ngoài khu vực nhà nước đảm đương những việc có
thể thực hiện hiệu quả hơn các cơ quan, tổ chức nhà nước. Trong cải cách công
vụ, cần đề cao tinh thần đổi mới-sáng tạo, đưa các nội dung thu hút và trọng
dụng nhân tài vào cuộc sống, huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước,
phục vụ hiệu quả nhu cầu chính đáng của người dân. Để đạt được mục tiêu nêu
trên, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách; hoàn thiện mô hình
tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; tổ chức sơ kết, tổng kết để đề xuất
phân cấp, phân quyền trong tuyển dụng, quản lý công chức, viên chức cho phù
hợp; phòng chống quan liêu, sách nhiễu, lãng phí, tham nhũng; đề cao nguyên
tắc công khai, minh bạch; nâng cao trách nhiệm giải trình của người đứng đầu
và từng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện tinh giản biên chế gắn với việc
xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; hoàn
thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo quản lý, tiêu chuẩn chức danh
ngạch công chức chuyên ngành, chức danh nghề nghiệp của viên chức; xây

dựng hệ thống các bản mô tả công việc, khung năng lực công chức gắn với các
vị trí, chức danh, tạo điều kiện cho phương thức quản lý nguồn nhân lực dựa
trên năng lực; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong theo dõi, giám sát
tiến độ, chất lượng thực thi công tác của từng công chức, từng cơ quan, đơn vị;
đổi mới cơ chế đánh giá, phân loại cán bộ, công chức viên chức theo hướng
thường xuyên đánh giá và đánh giá kết quả dựa trên mức độ hoàn thành từng
nhiệm vụ được phân công (không chỉ đánh giá định kỳ vào các cuộc họp tổng
9


kết, bình xét cuối năm); sử dụng kết quả đánh giá năng lực, đánh giá việc thực
thi công tác vào mục tiêu tinh gọn, nâng cao chất lượng đội ngũ thông qua kế
hoạch tinh giản biên chế, sắp xếp lại, tuyển dụng mới, đào tạo bồi dưỡng và phát
triển chức nghiệp của công chức, viên chức nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong hiện tại và tương lai./.
Câu hỏi 2: Những thách thức đối với hành chính công truyền thống trong
nền kinh tế thị trường?
Trả lời:
So với các ngành khoa học xã hội khác, khoa học hành chính công ra đời
tương đối muộn, năm 1887 Woodrow Wilon (1856-1924) viết cuốn sách
“Nghiên cứu về Hành chính công”, với việc khẳng định: “Thực hiện Hiến pháp
khó hơn là xây dựng nên nó”, Ông đã đặt viên gạch đầu tiên cho việc phát triển
một lĩnh vực khoa học liên quan đến sự quản lý của Chính phủ và vận dụng
nguồn lực tri thức để thực hiện có hiệu quả công việc quản lý của một quốc gia.
Hành chính công là khoa học nghiên cứu các quy luật quản lý có hiệu quả những
công việc xã hội của các tổ chức hành chính Nhà nước. Kể từ khi khoa học
Hành chính công ra đời đã có nhiều mô hình lý thuyết khác nhau với các bước
phát triển thăng trầm. Trong những năm gần đây (thập kỷ 80 và những năm đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX) rất nhiều nước trên thế giới đặt vấn đề xem xét lại
khu vực công về quy mô và khả năng điều hành sự phát triển của đất nước, đặc

biệt một số nước như Anh, Mỹ. Những nước này đã đưa ra mô hình Quản lý
công mới (Hành chính phát triển) thay thế cho mô hình Hành chính công truyền
thống. Việt Nam đang trong tiến trình đẩy mạnh cải cách hành chính, hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế của thế giới. Để hội nhập thành công, ngoài
sự quyết tâm về mặt chính trị, Việt Nam cần phải tự xây dựng mô hình quản lý
có hiệu quả. Ở Việt Nam, khoa học hành chính ra đời và phát triển rất muộn, lại
phải chịu sự tác động trực tiếp của Chính trị, chính vì vậy tính độc lập của khoa
10


học hành chính mờ nhạt. Chúng ta thực sự chưa có một mô hình hành chính
công.
Hành chính truyền thống được hiểu là cách thức tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước thuộc các kiểu nhà nước trong lịch sử, cũng như các cơ
quan, tổ chức khác, trên cơ sở những nguyên tắc, quy tắc nhất định (bao gồm cả
nguyên tắc chính trị - xã hội và nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật) do nhà nước hoặc
các chủ thể đặt ra mà bản chất chủ yếu thiên về tính “cai trị”, phương thức hoạt
động dựa trên cơ sở thi hành các quy định một cách “cứng nhắc”, lấy tổ chức
thứ bậc chặt chẽ, trình tự, thủ tục và việc thực hiện nghiêm ngặt các thủ tục đó
làm biện pháp tối ưu mà ít quan tâm đến kết quả hoạt động của nhà nước, của
các cơ quan, tổ chức hay của công chức nhà nước.
Trước tình hình phát triển mới của đất nước cũng như bối cảnh quốc tế
đang đặt ra nhiều thách thức đối với nền hành chính công.
Trước hết, hệ thống thể chế hành chính Nhà nước tuy đã đạt được những
kết quả tiến bộ, quan trọng và đáng ghi nhận nhưng hiện vẫn còn nhiều mặt hạn
chế, yếu kém, bất hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, đòi hỏi của
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chưa khẳng định được số
lượng các đạo luật cần thiết trong hệ thống thể chế của Việt Nam khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường. Chưa đổi mới căn bản công tác xây dựng thể chế,
chưa có cơ quan chuyên trách để tránh việc cục bộ của các bộ, ngành, địa

phương trong quá trình xây dựng thể chế. Đặc biệt, vẫn chưa xác định được một
cách đầy đủ và rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt
động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi
về mặt thể chế trong những năm qua mặc dù rất tích cực và đã mở rộng quy mô
về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế; còn có tính chắp vá, cục bộ, thiếu ăn
khớp, thiếu đồng bộ và còn bị ảnh hưởng nhiều bởi thể chế cũ – cơ chế quản lý
tập trung, quan liêu, bao cấp.
11


Thứ hai, về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước, tuy các đầu mối
trực thuộc Chính phủ có giảm nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành thì lại
phình ra. Bộ máy chính quyền địa phương thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi.
Thiếu quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Công tác kiểm tra sau phân
cấp còn buông lỏng. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chồng chéo về
mặt thẩm quyền và nhiệm vụ quản lý Nhà nước, còn mang nặng dấu ấn của mô
hình hành chính quan liêu nhiều thứ bậc. Mặc dù công cuộc cải cách hành chính
được tiến hành nhiều năm với trọng tâm là cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Nhà nước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế quản lý mới và yêu
cầu hội nhập quốc tế. Chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương các cấp còn
ôm đồm quá nhiều việc, từ đó dẫn đến chưa thực hiện tốt chức năng chính là
quản lý vĩ mô.
Thứ ba, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, hạn chế
cả về phẩm chất, năng lực và uy tín, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
mới, cả trong lĩnh vực xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, quản trị doanh nghiệp
và hội nhập kinh tế quốc tế. Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu, kỹ năng
hành chính của cán bộ công chức còn thấp. Trình độ hiểu biết và kỹ năng của
cán bộ công chức trong xử lý các vấn đề quản lý ở tầm vĩ mô, vi mô còn thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiện đại. Không ít cán bộ quản lý,
từ nhận thức đến năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện mô hình phát triển cũng

như bản lĩnh hội nhập và xử lý những tình huống phát sinh còn nhiều lúng túng.
Một bộ phận cán bộ công chức suy giảm lý tưởng, lối sống, vi phạm đạo đức
công vụ, gây bất bình trong nhân dân. Trong khi đó, tệ cửa quyền, quan liêu,
tham nhũng, thiếu công khai minh bạch của nền hành chính đang là những thách
thức lớn đối với quá trình cải cách hành chính nói riêng và quá trình hội nhập
quốc tế nói chung.
Thứ tư, kết quả đạt được của cải cách tài chính công còn hạn chế. Các thể
chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp
12


với thực tế. Một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo sát sao để
triển khai thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và
kinh phí chi hành chính, chưa thấy được vai trò của việc thực hiện cơ chế tự chủ
là tạo điều kiện cho thủ trưởng và cán bộ công chức trong đơn vị chủ động sử
dụng biên chế và kinh phí được giao, gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng
và hiệu quả công việc.
Thứ năm, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
vào hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước đạt kết quả thấp, gây lãng
phí cho ngân sách. Việc hiện đại hóa công sở không đồng bộ, dẫn tới manh mún,
phân tán. Việc sử dụng trang thiết bị công sở và áp dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động hành chính chưa hiệu quả nên nhìn chung nền hành chính của
chúng ta còn lạc hậu so với mặt bằng trong khu vực và thế giới.
Ngày nay, hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. Quá trình này đem lại cho mỗi nước những cơ hội mới, song cũng
có những thách thức mới. Sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó nền hành chính
công của mỗi nước cũng không nằm ngoài sự tác động này. Có thể thấy, bối
cảnh của hội nhập quốc tế tác động đến nền hành chính công của Việt Nam hiện
nay được thể hiện trên các phương diện:

- Xu hướng dân chủ hóa đời sống chính trị trên thế giới do trình độ dân trí
được nâng cao, cùng với công cuộc đổi mới trong nước đang tiến bước đòi hỏi
sự nghiệp củng cố và hoàn thiện nền dân chủ XHCN và đặt ra những yêu cầu
mới đối với nền hành chính. Nhân dân đòi hỏi và mong muốn được thực hiện
quyền làm chủ hợp pháp một cách đầy đủ, được yên ổn sinh sống và làm ăn
trong môi trường lành mạnh, đảm bảo an ninh, trật tự, không bị phiền hà, sách
nhiễu. Vì vậy, xây dựng một bộ máy thực thi quyền lực chính trị trong sạch và
vững mạnh, thực sự có năng lực, phẩm chất, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao là
13


con đường duy nhất để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước.
- Việc quốc tế hóa kinh tế đã tạo ra hệ thống kinh tế thế giới mới, trong đó
hình thành nên những khu vực kinh tế, những cộng đồng các quốc gia vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh. Xu hướng hội nhập về kinh tế, thương mại, thuế quan, luật
pháp quốc tế,.., và sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường, cũng như công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong thời kỳ mới đòi hỏi nền hành chính công phải tiếp tục hoàn thiện thể chế
và nâng cao hiệu lực quản lý theo cơ chế mới, đảm bảo cho đất nước phát triển
nhanh, bền vững theo định hướng XHCN.
Sự mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng hóa đòi hỏi thể chế
hành chính và đội ngũ cán bộ công chức vừa phải thích ứng với luật pháp quốc
tế, đồng thời giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thế giới ngày nay là một thế giới năng động, đang trong quá trình thay
đổi, đòi hỏi khách quan nền hành chính các nước cần có những hướng cải cách,
đổi mới và sáng tạo với những hình thức phong phú, đa dạng trong sự thống
nhất không chỉ trong bản thân nội bộ mỗi nước mà cả trong quan hệ quốc tế.
Nền hành chính công Việt Nam trong thời gian qua tuy đã có nhiều đổi
mới nhưng về cơ bản vẫn là một nền hành chính thực hiện theo cơ chế mệnh

lệnh và xin – cho. Nền hành chính như vậy chưa thể đảm nhận vai trò khai thông
các nguồn lực trong mỗi cá nhân, tổ chức và xã hội để phát triển đất nước. Vì
vậy, trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối
cảnh hội nhập như hiện nay, cần phải có những đổi mới hết sức sâu sắc cả về
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, của bản thân hệ thống thể
chế, hành chính, của cơ cấu hệ thống tổ chức hành chính và đội ngũ công chức
hành chính… Đồng thời, cần chú trọng quan tâm tham khảo, nghiên cứu nền
hành chính các nước đang chuyển đổi từ hành chính công truyền thống sang
14


hành chính phát triển. Tuy nhiên, trong xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế,
chúng ta cần phải giữ vững những đặc tính cơ bản, có tính bản chất của nền
hành chính công Việt Nam chứ không nên áp dụng một cách rập khuôn, máy
móc.

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×