Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thương mại tình hình GDP của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.77 KB, 25 trang )

Đề tài: TÌNH HÌNH GDP CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
SV thực hiện: Lưu Thị Tâm
Mã SV: 14108100546
Lớp: DHTCNH8A3HN
STT: 68
Tóm tắt
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) với tốc độ cao là mục tiêu quan trọng đối với
hầu hết các quốc gia. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá mức độ tăng trưởng kinh
tế và thành tựu xóa đói giảm nghèo của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, tốc độ tăng trưởng GDP cao không luôn đồng nghĩa với phát triển kinh tế
nhanh, bền vững mà thậm chí đôi lúc còn phát sinh những bất công trong xã hội, dẫn đến chất
lượng cuộc sống của người dân bị suy giảm. Đây cũng chính là một mục tiêu lớn, phức tạp mà
Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm giải quyết đúng theo tinh thần của Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI (đại hội XI).
I, Đặt vấn đề.
Năm 2016 đã gần kết thúc với nhiều sự kiện nổi bật vẽ lên một bức tranh đa sắc của nền
kinh tế Việt Nam. Dù có nhiều gam màu trầm, nhưng về chủ đạo, kinh tế Việt Nam đã có nhiều
dấu hiệu cải thiện cả ở góc độ sản xuất kinh doanh cũng như ổn định kinh tế vĩ mô. Điển hình là
10 sự kiện kinh tế tiêu biểu:
1. Năm quốc gia khởi nghiệp
Trong năm 2016, Nhà nước cam kết hỗ trợ mạnh mẽ các startup. Chính phủ đã và đang
đưa ra nhiều nhóm giải pháp cụ thể để tạo dựng môi trường thuận lợi, hỗ trợ các doanh nghiệp
đổi mới, sáng tạo và thành công. Các chính sách, thể chế đang được hoàn thiện để startup có thể
tiếp cận nguồn tín dụng, có môi trường kinh doanh thuận lợi. Mặt khác, các chính sách cũng đang
hướng tới việc thu hút các nhà đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư “thiên thần”; Xây dựng các trung tâm
hỗ trợ thông tin khởi nghiệp.


2. Môi trường kinh doanh được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World
Bank) năm 2016, Việt Nam xếp thứ 82/190 quốc gia về mức độ dễ dàng kinh doanh, tăng 9 bậc
so với năm ngoái.


3. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của ngành sản xuất. Theo thống kê, từ đầu năm đến tháng 11/2016, chỉ số
PMI Việt Nam luôn ở trên mức 50 điểm, vốn là định mức an toàn đối với ngành sản xuất. Mặt
khác, ở tháng 11, chỉ số PMI Việt Nam đã tăng vọt lên 54 điểm, cao nhất trong 1,5 năm qua.
4. Cán cân thương mại khả quan. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 159,5 tỷ USD, tăng
7,5% trong khi kim ngạch nhập khẩu ước đạt 156,6 tỷ USD, tăng 3,5%. Cán cân thương mại của
cả 11 tháng hiện đang dừng ở mức xuất siêu 2,9 tỷ USD.
5.Tổng thống Mỹ Obama sang thăm Việt Nam. Hồi tháng 5 năm nay, Tổng thống Mỹ Barack
Obama đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên trong 2 nhiệm kỳ nằm củng cố chính
sách xoay trục sang châu Á, thắt chặt quan hệ về an ninh, kinh tế với một số đối tác đang có vai
trò quan trọng trong khu vực.
6. Sự cố gây Formosa xả thải gây ô nhiễm biển miền Trung. Vụ vi phạm xả thải của Công ty
TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển từ Hà Tĩnh
đến Thừa Thiên Huế, gây hậu quả nặng nề đối với sản xuất và đời sống người dân, ước tính có
khoảng 50.000 người bị ảnh hưởng trực tiếp và 176.334 người phụ thuộc.
7. Nông nghiệp gặp khó chưa từng thấy trong suốt 6 năm qua. Theo ghi nhận, nông nghiệp đã
thoát khỏi tăng trưởng âm, đạt 0,05% trong 9 tháng qua. Tuy nhiên, về tổng thể, khu vực nông
nghiệp vẫn đang ở trạng thái thấp nhất trong 6 năm vừa qua, chỉ đạt 6,19%. Cả năm, GDP từ
nông nghiệp chỉ tăng trưởng 1,2%.
8. Tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu. Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2016 dự kiến
đạt 6,3 – 6,5%, không đạt chỉ tiêu 6,7% đặt ra cũng như mục tiêu trung bình của nhiệm kỳ (từ 6,5
– 6,7%). Tuy vậy, kinh tế Việt Nam vẫn có những điểm sáng khi Chính phủ đã hoàn thành được
11/13 chỉ tiêu đã được Quốc hội giao cho như: giữ tốc độ tăng giá tiêu dùng dưới 5%, giảm tỷ lệ
hộ nghèo, huyện nghèo; nâng tỷ lệ khu công nghiệp…


9. TPP không được thông qua. Việc ông Donald Trump, người thế hiện rõ sự hướng nội và có
thái độ không thân thiện với tự do hoá thương mại thắng cử đã khiến cho số phận của Hiệp định
TPP đang đi vào “ngõ cụt”.
10. Dệt may Việt Nam tăng trưởng thấp nhất trong 10 năm. Theo thống kê, tổng kim ngạch xuất
khẩu toàn ngành dệt may năm 2016 đã không đạt mục tiêu. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt

5,2%, thấp nhất trong 10 năm gần đây. Nguyên nhân được đưa ra là do tổng cầu thế giới yếu, giá
sản phẩm giảm…
Những sự kiện đó có hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là GDP phản
ánh ró nhất đến tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. Đây là một số vấn đề mà nước ta gặp
phải.
Theo thông cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, "mức tăng trưởng năm 2016 tuy thấp hơn mức
tăng 6,68% của năm 2015 và không đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh
kinh tế thế giới không thuận, trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn
biến phức tạp thì đạt được mức tăng trưởng trên là một thành công." Mức tăng trưởng này đã
vượt dự đoán 6% mà Ngân hàng Thế giới đưa ra.
Năm 2015, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất kể từ năm 2007 theo đà tăng liên
tục từ năm 2012. Mức tăng chậm lại năm nay xếp Việt Nam ở vị trí sau Ấn độ, Trung Quốc và
Philippines.
Tổng cục Thống kê nói mức tăng chậm lại của năm nay là do khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai biển và nền kinh tế toàn cầu không thuận lợi. Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy sản
lượng nông nghiệp và khai khoáng giảm sút làm cho mức tăng trưởng cả năm bị thấp hơn mục
tiêu của chính phủ.
Hạn hán ở vùng trồng cà phê Tây Nguyên, nhiễm mặn ở đồng lúa đồng bằng sông
Mekong, giá rét ở miền Bắc và ngập lụt ở miền Trung đã làm giảm mức tăng trưởng ngành nông
nghiệp xuống chỉ còn 1,36%.
Theo con số của Tổng cục Thống kê, thiên tai đã gây thiệt hại 18,3 ngàn tỷ đồng (tương
đương 813 triệu USD).


Việt Nam là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai trên thế giới sau Brazil và nước xuất khẩu
gạo thứ ba trên thế giới, chỉ sau Ấn độ và Thái Lan. Các nguồn thu ngoại tệ khác gồm điện thoại
di động, hàng may mặc, giày dép, cá và tôm.
Ngành khai khoáng của Việt Nam giảm 4% năm nay do giá than và dầu thô thế giới sụt
giảm. Sự cố môi trường biển hồi tháng Tư do nhà máy sản xuất thép ở Hà Tĩnh, thuộc tập đoàn
Formosa Đài Loan gây ra đã làm cạn kiệt nguồn cá và gây thiệt hại lớn cho ngành du lịch.

Bên cạnh sự phát triển nền kinh tế Việt Nam còn đối diện với nhiều thách thức
Trong một cuộc họp với các quan chức chính phủ, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc
đến xu hướng bảo hộ trên thế giới và tình hình khó đoán trước ở Biển Đông, nơi Trung Quốc và
nhiều quốc gia khác đang có tranh chấp lãnh thổ, như những thách thức Việt Nam phải đối mặt.
Theo hãng tin AP, đất nước 93 triệu dân này vẫn còn cả chặng đường dài để xây dựng các
chính sách tài chính tiền tệ vững chắc và vẫn dễ bị ảnh hưởng của biến động kinh tế toàn cầu.
Tổng thống tân cử Donald Trump có quan điểm chống Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) gây rủi ro cho nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các nhà đầu tư đã hy vọng
được ưu đãi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ và các thị trường TPP khác như Nhật.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm
2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ
trước đến nay.
"Việt Nam còn nhiều việc phải làm để đảm bảo nền kinh tế vĩ mô có thể đối phó với các
bất ổn tiềm năng", bà Beatrice Tanjangco của tổ chức Oxford Economics nói trong một báo cáo
gần đây. "Thương mại quốc tế đã giúp Việt Nam phát triển trong những năm qua, nhưng cũng
làm cho nước này dễ bị ảnh hưởng của các rủi ro toàn cầu.
Vậy chúng ta cần làm gì, cần có những giải pháp đóng góp nào để giúp Việt Nam có
những bước tiến mới trong trên nền kinh? Dưới đây là tình hình kinh tế Việt Nam năm 2016 và
một số giải pháp cho phát trển ổn định bền vững hơn trong các năm tiếp theo.
II, Thực trạng của vấn đề.


1. Tình hình GDP năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017.
a, GDP Việt Nam năm 2016.
Theo Tổng cục Thống kê, năm nay, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
6,21% so với năm 2015, trong đó quý I tăng 5,48%; quý II tăng 5,78%; quý III tăng 6,56%; quý
IV tăng 6,68%.
Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng chung;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn mức tăng 9,64% của năm trước, đóng

góp 2,59 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,98%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm.
Ngành nông – lâm – thuỷ sản tăng trưởng dương cả năm: Dù quý I, quý II tăng trưởng
âm, nhưng kết quả chung cả năm toàn ngành vẫn tăng trưởng dương, tăng 1,36% so với năm
2015. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành thu về 32,1 tỷ USD.
Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp đạt 642,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,79%; lâm nghiệp đạt 28,2
nghìn tỷ đồng, tăng 6,17%; thuỷ sản đạt 200 nghìn tỷ đồng, tăng 2,91%. Lĩnh vực lâm nghiệp vẫn
giữ mức tăng trưởng cao nhưng do ngành lâm nghiệp chiếm tỷ trọng thấp (3,2%) trong giá trị sản
xuất toàn ngành nên không tác động nhiều đến tốc độ tăng trưởng của toàn ngành.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,06% so với năm
trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao 11,90%, đóng góp đáng kể vào
mức tăng trưởng chung với 1,83 điểm phần trăm.
Ngành khai khoáng năm nay giảm tới 4,00%, đã làm giảm 0,33 điểm phần trăm mức tăng
trưởng chung, đây là mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu do giá
dầu thế giới giảm khiến lượng dầu thô khai thác giảm hơn 1,67 triệu tấn so với năm trước; sản
lượng khai thác than cũng chỉ đạt 39,6 triệu tấn, giảm 1,26 triệu tấn.
Năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao 11,90%, góp vào mức
tăng trưởng chung 1,83 điểm .Xu hướng ngành công nghiệp chuyển dịch sang lĩnh vực chế biến,
chế tạo, giảm sự phụ thuộc vào ngành khai khoáng là điều cần thiết vì Việt Nam đang hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững hơn
Còn ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 10,00%, đóng góp 0,60 điểm phần trăm
vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, một số ngành có đóng góp với tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng
chung như: Bán buôn và bán lẻ; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; kinh doanh bất
động sản; dịch vụ lưu trú và ăn uống.


Nguồn: Tổng cục Thống kê
Doanh nghiệp thành lập mới tăng kỷ lục: Tính chung cả năm 2016, số doanh nghiệp thành
lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015. Tổng vốn
đăng ký là 891,1 nghìn tỷ đồng, tăng 48,1%. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành

lập mới năm 2016 là 8,1 tỷ đồng, tăng 27,5% so với năm 2015. Tổng số lao động đăng ký của các
doanh nghiệp thành lập mới trong năm là 1.268 nghìn người, bằng 86,1% năm 2015. Trong năm,
còn có 26.689 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 24,1% so với năm trước, nâng tổng số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2016 lên gần
136,8 nghìn doanh nghiệp.
Tăng trưởng bán lẻ: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ doanh thu tiêu dùng năm 2016
ước tính đạt 3.527,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm trước (năm 2015 tăng 9,8%),
Cán cân thương mại năm 2016, suất siêu 2,68 tỷ USD: Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu
năm 2016 ước đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong
nước đạt 50 tỷ USD, tăng 4,8%. Khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 125,9%, tăng 10,2%. Kim
ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2016 ước đạt 173,3 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm trước, trong
đó khu vực kinh tế trong nước đạt 71,1 tỷ USD, tăng 4%; khu vực FDI đạt 102,2 tỷ USD, tăng
5,1%.
Cán cân thương mại tính chung cả năm 2016 suất siêu 2,68 tỷ USD. Trong đó, khu vực kinh tế
trong nước nhập siêu 21,02 tỷ USD, khu vực FDF xuất siêu 23,7 tỷ USD.
CPI cả năm 2016 tăng 4,74%: CPI tháng 12/2016 tăng 4,74% so với tháng 12/2015, bình
quân mỗi tháng tăng 0,4%. CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015.


Mặc dù mức tăng của năm 2016 cao hơn so với năm 2015 nhưng vẫn thấp hơn nhiều so
với mức tăng CPI bình quân của một số năm gần đây, đồng thời vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu
5% mà Quốc hội đề ra.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng
kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2016 tăng 1,83% so với bình quân năm 2015.
Như vậy, xét về quy mô nền kinh tế năm 2016: Tính theo giá hiện hành quy mô nền kinh
tế năm nay đạt 4.502,7 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 48,6 triệu đồng,
tương đương 2.215 USD, tăng 106 USD so với năm 2015. Về cơ cấu nền kinh tế năm nay, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 16,32%; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 32,72%; khu vực dịch vụ chiếm 40,92%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm
10,04% (Cơ cấu tương ứng của năm 2015 là: 17,00%; 33,25%; 39,73%; 10,02%).

Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2016, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,32% so với năm 2015,
đóng góp 5,29 điểm phần trăm vào mức tăng chung (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư
đóng góp 4,81 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 9,71%, đóng góp 3,08 điểm phần trăm;
chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình trạng nhập siêu làm giảm 2,16 điểm phần
trăm của mức tăng trưởng chung.
b, GDP Việt Nam 6 tháng đầu năm 2017.
Nửa đầu năm 2017 tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,73%, cao hơn so với mức
5,65% cùng kỳ năm trước.


Trong đó, quý I tăng 5,15%, quý II khởi sắc hơn quý I với 6,17%. Khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng 2,65%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 5,81%, đóng góp 2,0 điểm phẩn trăm; khu vực dịch vụ tăng
6,85%, đóng góp 2,59 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản có mức tăng cao nhất với 5,08% so với
cùng kỳ năm 2016, đóng góp 0,15 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành lâm
nghiệp tăng 4,31%, thấp hơn mức tăng 5,75% của 6 tháng năm 2016, đóng góp 0,03 điểm phần
trăm; ngành nông nghiệp tăng khá ở mức 2,01% so với mức giảm 0,78% của cùng kỳ năm trước,
đóng góp 0,25 điểm phần trăm.

Tăng trưởng GDP 6 tháng qua các năm.
Khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 5,33%, thấp hơn nhiều so với mức
tăng 9,66% và 7,01% của cùng kỳ năm 2015 và năm 2016, chủ yếu do ngành khai khoáng giảm
8,2%, làm giảm 0,61 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung, là mức giảm sâu nhất so với cùng
kỳ các năm từ 2011 trở về đây. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng 10,52%, tương
đương mức tăng 10,50% của cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,79 điểm phần trăm. Ngành xây
dựng 6 tháng đầu năm tăng trưởng khá tốt với tốc độ 8,50%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm vào
mức tăng trưởng chung.
Khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như
sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 7,10% so với cùng kỳ năm trước, là ngành có mức đóng góp cao

nhất vào mức tăng chung (0,65 điểm phần trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,90%, đóng
góp 0,35 điểm phầm trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,66%, đóng góp


0,31 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 3,86% (mức tăng cao nhất trong 5
năm gần đây), đóng góp 0,21 điểm phần trăm.

Cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2017
Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2017, khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng
15,06%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,76%; khu vực dịch vụ chiếm 41,84% (thuế
sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,34%).
Xét về góc độ sử dụng GDP 6 tháng đầu năm, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,04% so với cùng kỳ
năm 2016, đóng góp 8,48 điểm phần trăm; tích lũy tài sản tăng 9,50%, đóng góp 4,26 điểm phần
trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình trạng nhập siêu làm giảm 7,01%
điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
Như vậy, Tổng cục Thống kê cho biết, tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,73%. Tổng
cục trưởng Nguyễn Bích Lâm nhận định, mục tiêu tăng trưởng 6,7% năm 2017 là một thách thức.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm đạt 6,7% thì tăng trưởng 6 tháng cuối năm phải đạt trên
7,4%. Tuy nhiên, Vụ trưởng Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia Hà Quang Tuyến nhìn nhận, trong
lịch sử số liệu từ năm 2011 đến nay chưa có nửa cuối năm nào đạt được mức tăng cao như vậy.
Cụ thể, quý II đã có mức tăng trưởng đạt 6,17% được cho là khởi sắc nhưng vẫn thấp hơn mức
kỳ vọng 6,26% của Chính phủ được Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đưa ra mới
đây.
Mức tăng trưởng quý II so với quý I cao hơn 0,1 điểm phần trăm. Đây là mức tăng so với quý I
bứt phá cao nhất kể từ năm 2012 trở lại đây. Tuy nhiên, tình hình tăng trưởng chung của cả nửa


đầu năm 2017 không cải thiện được nhiều khi quý I chỉ đạt mức tăng trưởng GDP là 5,15%
(trước đó TCTK công bố tăng trưởng GDP quý I là 5,1%, sau khi rà soát số liệu, con số chính
thức là 5,15%).

Trong 6 tháng, khu vực dịch vụ đứng đầu với mức tăng trưởng 6,85%, cao nhất so với cùng kỳ
5 năm gần đây, đóng góp 2,59 điểm phần trăm vào tăng trưởng của cả nước. Khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,65%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm. Khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 5,81%, đóng góp 2,0 điểm phần trăm.
Mức mục tiêu tăng trưởng 7,4% cho 6 tháng cuối năm là con số chưa từng có trong lịch sử số
liệu nhưng ông Hà Quang Tuyến cho rằng vẫn còn nhiều cơ hội và thuận lợi. Ông cho biết, trong
bối cảnh Quý I tăng trưởng rất thấp, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 40 tiếp tục phấn
đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng. Các bộ ngành được, tập đoàn, tổng công ty được giao nhiệm
vụ cụ thể. Nhiệm vụ trong Chỉ thị này cụ thể như khu vực công nghiệp phải tăng 7,35%, xây
dựng tăng trưởng 10%...
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm cho rằng cần đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng đạt khoảng
18%, tạo điều kiện vay vốn sản xuất kinh doanh, vay tiêu dùng. Có giải pháp phù hợp thu hút các
nguồn vốn đầu từ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đảm bảo vốn đầu tư 34 - 35% GDP. Đặc biệt, ông
Lâm cho rằng cần đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công trong đó chú tọng các dự án lớn, quan
trọng.
Bên cạnh đó, TCTK đưa ra giải pháp duy trì và thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp chế biến,
chế tạo. Trong đó, có chính sách thúc đẩy sản xuất các ngành trong nước như đường, phân bón,
có biện pháp phòng vệ thương mại trong WTO để bảo vệ ngành thép, tìm thị trường cho ngành da
giày, dệt may.
Tổng cục trưởng Lâm cho biết thêm, theo chỉ thị của Chính phủ, để thúc đẩy tăng trưởng cần
xử lý dứt điểm các dự án thua lỗ kéo dài, thúc đẩy tổng cầu trong nước, tăng khả năng cạnh tranh
của hàng trong nước với hàng nhập khẩu.

2. Dự báo cho 6 tháng cuối năm 2017.


Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) dự báo
kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2017 sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh hơn.
Theo đó, trong nửa cuối 2017, nền tảng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được hỗ trợ bởi
các yếu tố: Triển vọng khả quan của kinh tế thế giới cũng như tín hiệu tích cực từ các nền kinh tế

chủ chốt sẽ tác động tích cực tới triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2017. Sự tăng giá của
một số đồng tiền và triển vọng phục hồi kinh tế có thể giúp Việt Nam có cơ hội đẩy mạnh xuất
khẩu sang các thị trường lớn qua đó thể phục hồi được tốc độ tăng trưởng thương mại; và những
cải thiện về môi trường đầu tư, kinh doanh, triển vọng hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động sản
xuất kinh doanh tiếp tục khởi sắc. Những cải thiện mạnh mẽ về cơ chế chính sách liên quan đến
cải cách thể chế, môi trường đầu tư, kinh doanh được Chính phủ quyết liệt chỉ đạo thực hiện
trong năm 2016 và đầu năm 2017 sẽ phát huy hiệu quả nhiều hơn trong những tháng cuối năm
nay; hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, qua đó thúc đẩy vốn
đầu tư cho nền kinh cao hơn so với năm 2016…
Cụ thể, tình hình kinh tế trong nước đã có chuyển biến tích cực hơn từ giữa quý 2/2017. Kinh
tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2017 dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh hơn khi những giải pháp
tháo gỡ khó khăn, đảm bảo tăng trưởng đã và tiếp tục được thực hiện với quyết tâm cao từ Chính
phủ. Mặc dù khu vực công nghiệp và xây dựng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là
sự tăng trưởng của ngành công nghiệp khai khoáng suy giảm còn tiếp diễn như nút thắt của tăng
trưởng toàn nền kinh tế nhưng nhìn chung khu vực này sẽ đạt mức tăng khá khi những nỗ lực
đảm bảo tăng trưởng của Chính phủ được hiện thực hóa. Nhiều khả năng, ngành công nghiệp
khai khoáng sẽ được vực dậy với kế hoạch gia tăng sản lượng khai thác than và dầu cùng với việc
thúc đẩy mạnh mẽ hơn ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong thời gian tới. Khu vực dịch vụ
được kỳ vọng sẽ ghi nhận mức tăng trưởng nhanh hơn so với cùng kỳ trong nửa cuối của năm
2017 khi tiêu dùng có xu hướng cải thiện tốt hơn và các dịch vụ du lịch có triển vọng phát triển
tốt hơn. Khu vực nông, lâm, thủy sản sẽ tiếp tục phục hồi tuy nhiên cũng cần đẩy mảnh hơn các
giải pháp để giải quyết vấn đề đầu ra cho các sản phẩm nông, lâm thủy sản.
Theo đó, tăng trưởng toàn nền kinh tế có thể đạt mức khá khi cả ba động lực chính của tăng
trưởng là khu vực nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, và dịch vụ cùng được cải thiện.
Nửa cuối năm 2017, vốn FDI được dự báo sẽ đạt nhiều kết quả tích cực nhờ hưởng lợi từ
nhiều yếu tố thuận lợi của nền kinh tế như môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện; kinh


tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, nhiều hiệp định thương mại quan trọng đã được ký kết
thời gian qua và chuẩn bị có hiệu lực; sự đánh giá tích cực của các tổ chức và nhà đầu tư nước

ngoài về triển vọng đầu tư tại Việt Nam.
Đồng thời, tận dụng cơ hội do hội nhập mang lại, thực hiện các giải pháp tăng cường thu hút
FDI và triển khai hiệu quả các chính sách ưu đãi cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh và cải
thiện môi trường kinh doanh, vốn FDI thực hiện năm 2017 duy trì mức tăng trưởng khá so với
năm 2016 và đạt khoảng 15.3 tỷ USD. Dòng vốn FDI tăng được kỳ vọng sẽ là động lực quan
trọng giúp hồi phục tăng trưởng xuất khẩu của cả năm 2017.
Tăng trưởng tiêu dùng cũng được dự báo tương đối sáng sủa trong những tháng cuối năm. Có
nhiều yếu tố tác động tích cực đến tăng trưởng tiêu dùng đáng kể như các giải pháp kích thích
đầu tư và sản xuất nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch đề ra sẽ tạo nguồn
cung sản phẩm dồi dào, giữ giá cả ở mức ổn định hoặc theo xu hướng giảm sẽ tạo ra tâm lý thoải
mái trong tiêu dùng của người dân; doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa kết thúc năm tài
chính và người dân thì có xu hướng chi tiêu nhiều hơn trong những tháng cuối năm. Lương cơ
bản dự kiến tăng từ 1/7/2017 sẽ có tác động tích cực đến sức mua nhưng mức độ tác động không
quá lớn do giá cả có thể tăng do ảnh hưởng của tăng lương.
Rủi ro tác động xấu đến tiêu dùng chỉ có yếu tố giá cả khi áp lực tăng giá vẫn còn hiện hữu.
Tiêu dùng cuối cùng dự báo tăng 7.7% năm 2017 so với năm 2016.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp, kinh tế Việt Nam sẽ còn gặp
nhiều khó khăn, cụ thể là: Những thách thức từ bên ngoài do bất ổn địa chính trị thế giới, xu
hướng gia tăng bảo hộ mậu dịch, việc Mỹ rút ra khỏi TPP và vấn đề chính trị hóa vốn đầu tư của
Mỹ có thể tác động tiêu cực tới hoạt động thương mại và ĐTTTNN của Việt Nam.
Chính sách bảo hộ thương mại và thuế biên giới mà Mỹ đề xuất sẽ khiến cho xuất khẩu của
Việt Nam vào Mỹ gặp nhiều khó khăn, trong khi Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam; Giá dầu đổi chiều đi xuống dưới 50$/thùng, cho thấy sự khó đoán định của thị trường này.
Nếu giá dầu tiếp tục đi xuống sâu thêm nữa Việt Nam cần cân nhắc lại chủ trương tăng khai thác
dầu cho mục tiêu tăng trưởng; Giá các mặt hàng nông sản tiếp tục giảm sâu, sẽ ảnh hưởng tới
xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Vì vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp gần 4%
trong các quý tiếp theo, cần phải có giải pháp tích cực hơn trong sản xuất và thị trường trong


nước; Trung Quốc có tín hiệu mở cửa hơn nữa với dòng vốn FDI cần tiếp tục theo dõi sát sao do

có thể ảnh hưởng trực tiếp tới dòng FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.
Tình hình lạm phát 6 tháng cuối năm dự báo sẽ còn nhiều biến động khi giá dầu thế giới diễn
biến phức tạp. Trong 6 tháng cuối năm, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục tăng cường công tác
quản lý giá, bình ổn giá theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan... nên
trong thời gian tới, nhu cầu hàng hoá thị trường không có nhiều biến động. Do đó giá cả hàng hoá
được dự báo vẫn sẽ ổn định, mặc dù việc tăng lương từ 1/7/2017 có thể làm tăng giá nhẹ. Dự báo
chỉ số giá tiêu dùng cả năm sẽ tiếp tục được kiểm soát ở mức dưới 5%.
Dựa trên tình hình thực tế 6 tháng đầu năm và các yếu tố đề xuất trong các giải pháp cho 6
tháng cuối năm (theo Chỉ thị 24/TTg-CT ngày 02/6/2017), dự báo: khu vực Công nghiệp chế biến
chế tạo tăng trưởng khá. Sản lượng khai thác dầu thô tăng thêm khoảng 1 triệu tấn so với kế
hoạch. Điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá linh hoạt, trong đó tỷ giá và mặt bằng lãi suất tương
đối ổn định, tín dụng đạt được mục tiêu đã đề ra (khoảng 18%). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội đạt
khoảng 34% như đã nêu tại chỉ thị 24/CT-TTg. Khi đó, tăng trưởng kinh tế năm 2017 sẽ ở mức
khoảng 6.5%, chỉ số giá tiêu dùng bình quân tăng khoảng 4%./
* Một số điểm sáng cho nền kinh tế.
Tạp chí danh tiếng Forbes nhận định, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, doanh nghiệp tư nhân
ngày càng mở rộng, người Việt giàu có thêm... sẽ là lực đẩy khiến kinh tế Việt Nam tăng tốc
trong năm 2017.
Theo Forbes, Việt Nam đã trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng năm 2016. Ngân hàng Thế giới
(WB) ước tính một phần ba dân số hiện vẫn sống ở mức nghèo. Tuy nhiên, giới phân tích nhận
định GDP hơn 200 tỷ USD và lợi thế giá sản xuất rẻ hơn Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam tiếp tục
thu hút đầu tư, tăng xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Kinh tế Việt Nam năm ngoái tăng trưởng 6,21%. Chính phủ dự báo con số này năm 2017
là 6,8%. Dưới đây là những động cơ giúp Việt Nam tiến tới mục tiêu này:
TPP sẽ hồi sinh hoặc được thay thế
Tổng thống đắc cử Mỹ - Donald Trump được dự báo rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên
Thái Bình Dương (TPP). Việc này sẽ khiến các nước xuất khẩu như Việt Nam chịu ảnh hưởng.
Tuy nhiên, một số người vẫn lạc quan rằng điều này không xảy ra.



Ngay cả khi TPP không trở thành hiện thực, Việt Nam cũng đã tham gia vào 16 hiệp định
thương mại tự do khác, trong đó có cả các cường quốc kinh tế như Nhật Bản hay Trung Quốc.
Việt Nam có thể ký hiệp định song phương với các nước TPP khác nếu Mỹ từ chối phê chuẩn
hiệp định này. Việt Nam cũng nằm trong danh sách đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực (RCEP) do Trung Quốc khởi xướng. Khối này sẽ bao phủ 30% GDP toàn cầu.
Đầu tư nước ngoài khởi sắc
Nhà đầu tư nước ngoài đã hưởng lợi từ thuế nhập khẩu thấp, nhờ các hiệp định thương
mại. Một số còn được nhiều ưu đãi thuế khác. Năm 2015, Việt Nam đã tăng cường minh bạch về
các quy định với đầu tư từ nước ngoài, đồng thời đẩy nhanh tốc độ cấp phép.
Forbes dẫn đánh giá của cố vấn kinh doanh quốc tế Oscar Mussons tại Dezan Shira &
Associates cho hay, năm ngoái là năm chuyển dịch cho những thay đổi này. Và đến năm 2017,
Việt Nam sẽ bắt đầu hưởng lợi từ hệ thống pháp lý cạnh tranh và có tổ chức hơn. Việc này sẽ có
tác động tích cực trong thu hút FDI và giúp Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản
xuất lớn trên thế giới.
Người Việt ngày càng giàu hơn
Forbes cho rằng, người Việt ngày càng có thu nhập cao và chi tiêu nhiều hơn. Đến năm
2020, tầng lớp trung lưu tại Việt Nam sẽ tăng gấp đôi, lên 33 triệu người.
Theo Boston Consulting Group, mức lương ở Việt Nam đang tăng, nhờ sự bùng nổ nhóm
việc làm liên quan đến sản xuất theo định hướng xuất khẩu.
Những người thuộc tầng lớp trung lưu có thể kiếm ít nhất 714 USD một tháng, đủ chi cho
điện thoại, xe máy, du lịch, chăm sóc y tế. Khi nguồn thu tăng cũng có nghĩa tiêu dùng sẽ tăng
theo.
Chuyển hướng sản xuất hàng giá trị cao
Sản phẩm công nghệ cao đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của Việt
Nam, đạt 25% năm 2015, so với chỉ 5% năm 2010. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục. Các khoản đầu
tư tỷ USD của các đại gia điện tử như Hon Hai Precision, Intel và Samsung sẽ là lực đẩy cho sự
chuyển dịch này.
Louie Nguyen - nhà sáng lập VietnamAdvisors cho biết, điện tử đang thay thế các mặt
hàng sản xuất truyền thống trong nhà máy dệt may, da giày. Giới chức Việt Nam muốn tăng kim
ngạch xuất khẩu hằng năm thêm 8% - 10% năm nay. Xu hướng này sẽ mang đến kỹ năng mới,

mức lương cao hơn và doanh thu lớn hơn cho các công ty sản xuất hàng giá trị cao.
Doanh nghiệp tư nhân mở rộng


Forbes đánh giá Việt Nam vẫn còn chậm chạp trong việc đẩy mạnh hoạt động của các
công ty tư nhân. Việc này khiến nền kinh tế vẫn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc,
dù các sản phẩm trên lý thuyết vẫn có thể được làm trong nước.
Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam đang tăng lên, đặc biệt trong
các ngành dệt may và sản xuất theo định hướng xuất khẩu. Các hãng bia, startup (khởi nghiệp)
trong ngành truyền thông, giải trí và thanh toán đang bùng nổ.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước cũng sẽ giúp doanh nghiệp
mới thành lập giải quyết vấn đề thiếu vốn.
Trong giai đoạn 2011-2016, nhiều chính sách tài chính đã được triển khai để tiếp tục cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Hướng tới năm 2017 với
nhiều thách thức tài khóa, hệ thống chính sách tài khóa cần có nhiều thay đổi để trở thành động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực gắn với quá trình tái cơ cấu đầu tư công. Vốn đầu
tư công, nhất là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) và trái phiếu chính phủ (TPCP)
được bố trí tập trung hơn, ưu tiên tập trung cho các công trình dự án quan trọng, cấp thiết, sớm
hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng để phát huy hiệu quả, khắc phục một bước tình trạng đầu tư
dàn trải, phân tán, thất thoát, lãng phí; đã tập trung xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) và
thanh toán vốn ứng trước; tăng cường quyền tự chủ, chủ động đi đôi với tăng cường trách nhiệm
của các cấp, các ngành trong việc phê duyệt dự án đầu tư, lựa chọn danh mục và phân bổ vốn cho
từng dự án cụ thể theo đúng các mục tiêu, định hướng phát triển; phân bổ vốn đầu tư bảo đảm
tính công khai, minh bạch.
Cơ chế phân bổ vốn đầu tư từng bước được thực hiện theo kế hoạch trung hạn, tạo điều
kiện cho các Bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc bố trí nguồn lực theo thứ tự ưu tiên phù
hợp với tình hình thực tế.
Nguồn lực NSNN, nguồn vốn TPCP và vốn ODA được ưu tiên đầu tư các công trình quan
trọng theo hướng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, có tính kết nối, lan tỏa, tạo động lực như các

chương trình mục tiêu quốc gia; các chương trình mục tiêu quan trọng thuộc các lĩnh vực giao
thông, thủy lợi, y tế, giáo dục; vốn đối ứng cho các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội...
Cơ cấu lại nợ công nhằm đảm bảo bền vững tài khóa, ổn định kinh tế vĩ mô. Dư nợ công
và dư nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi cho phép; thực hiện trả nợ đầy đủ, đúng hạn,
không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn, đảm bảo uy tín và các cam kết của Chính phủ; từng bước


cơ cấu lại danh mục TPCP, kéo dài thời hạn vay nhằm giảm dần áp lực trả nợ, đảo nợ và rủi ro tái
cấp vốn. Theo Ngân hàng Thế giới, dự kiến nợ công năm 2016 của Việt Nam là 64,1%, khá sát
ngưỡng 65% GDP.
Đổi mới cơ cấu và phương thức đầu tư từ NSNN đối với đơn vị sự nghiệp công theo
hướng từng bước thu hẹp đối tượng, phạm vi các đơn vị sự nghiệp công lập được hỗ trợ chi
thường xuyên từ NSNN so với hiện nay; chỉ có dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN mới được
Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng NSNN thì các đơn vị được thực hiện theo
cơ chế giá thị trường, tự cân đối thu, chi, NSNN không hỗ trợ. Đổi mới cơ chế giá dịch vụ sự
nghiệp công lập theo lộ trình để tạo cơ sở cho các đơn vị sự nghiệp công tiến tới hạch toán đầy
đủ, tạo điều kiện chuyển sang cơ chế tự chủ ở mức cao hơn.
Đồng thời, Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách (người có công, người
nghèo...) sử dụng dịch vụ sự nghiệp công, phù hợp với lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công.
Hệ thống các cơ chế, chính sách đẩy mạnh tái cơ cấu và phát triển các thị trường tài chính, dịch
vụ tài chính được tiếp tục hoàn thiện đồng bộ, phù hợp với các cam kết hội nhập; bảo đảm quá
trình giao dịch, vận hành và quản lý thông suốt, an toàn, công khai, minh bạch.
Đã tạo được khuôn khổ pháp lý để phát triển hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm, thị trường chứng khoán phái sinh, lĩnh vực kế toán, kiểm toán, từng bước ổn định và nâng
cao định mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia, tạo điều kiện giảm dần chi phí huy động trên thị
trường vốn quốc tế. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý hỗ trợ quá trình tái cơ cấu thị trường tài
chính, bao gồm bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng cũng tiếp tục được đẩy mạnh. Đồng thời,
đẩy mạnh phát triển các nghiệp vụ, sản phẩm bảo hiểm mới như: Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt
động xây dựng, bảo hiểm tàu cá, thuyền viên, bảo hiểm hưu trí tự nguyện...

Cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan. Chỉ số cải cách hành chính có sự cải thiện rõ
rệt; đã rà soát, đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, hải quan; rút ngắn số giờ nộp thuế.
Tính đến hết năm 2015, số giờ nộp thuế giảm còn 117 giờ (vượt so với mức mục tiêu 121,5 giờ
đã được đề ra trong Nghị quyết số 19-2016/NQCP); thực hiện chuẩn hoá và ban hành quyết định
sửa đổi, bổ sung 46/70 quy trình, quy chế (bao gồm cả quy trình, quy chế nội bộ); cắt giảm 63 thủ
tục hành chính và đơn giản hóa 262 thủ tục hành chính về thuế nội địa; ban hành mới 23 thủ tục,
thay thế 128 thủ tục, bãi bỏ 84 thủ tục.
Mở rộng áp dụng nộp thuế điện tử trên phạm vi cả nước. với 98,95% số doanh nghiệp đã
thực hiện khai thuế qua mạng đang thuộc diện quản lý thuế nội địa. Dự kiến đến hết năm 2016, số
giờ nộp thuế trung bình còn 110 giờ.


Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) và kết nối kỹ thuật cơ chế một cửa ASEAN (ASW) đã
chính thức thực hiện từ tháng 9/2015; hệ thống VNACCS/ VCIS áp dụng trên tất cả các chi cục,
cục hải quan, qua đó giảm thời gian thông quan hàng hóa, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong năm 2016, xu hướng kinh tế phục hồi rõ nét và tăng trưởng tích cực qua các quý, quý sau
cao hơn quý trước, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,21%. Một phần là nhờ sự phát triển khá tốt của
khu vực dịch vụ trong khi đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ tăng 1,36%, thấp nhất
trong 5 năm gần đây.
Tuy nhiên, xu hướng này vẫn thấp hơn năm 2015 và chưa có nhiều cải thiện so với năm
2014. Trong đó, khu vực dịch vụ tăng tốc và là đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế năm nay, tăng
6,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng (đóng góp 2,67 điểm phần
trăm); công nghiệp và xây dựng duy trì mức tăng trưởng khá ở mức 7,57% nhưng vẫn thấp hơn
năm 2015 (9,64%).
Cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch tích cực khi tỷ trọng nông nghiệp đã giảm từ
17% năm 2015 xuống 16,3% năm 2016, dịch vụ tăng từ 39,75 năm 2015 lên 40,9% năm 2016.
Ổn định kinh tế vĩ mô năm 2016 tiếp tục được củng cố, lạm phát ở mức 4,74% so với tháng
12/2015 và ở mức 2,66% so với cùng kỳ năm trước, thị trường tiền tệ tích cực, tổng cầu và tổng
cung cải thiện tốt hơn.
Trong đó, về phía tổng cầu, tổng mức bản lẻ hàng hoá và dịch vụ, vốn đầu tư toàn xã hội

tăng, thị trường bất động sản đang phục hồi, giải ngân FDI cao nhất từ trước đến nay, đạt 15,8 tỷ
USD, và khu vực FDI tiếp tục đóng vai trò quan trọng nhất cho xuất khẩu của Việt Nam với mức
xuất siêu 23,7 tỷ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu là 179,2 tỷ USD và lần thứ 2 có xuất siêu trên 2 tỷ USD (năm
2014 là 2,37 tỷ USD, năm 2016 là 2,68 tỷ USD. Về phía tổng cung, sản xuất công nghiệp tăng
trưởng khả quan, tồn kho diễn biến tích cực; tăng trưởng tín dụng được cải thiện, lãi suất cho vay
duy trì ở mức thấp, giá cả các nguyên liệu đầu vào giảm, nhất là giá các mặt hàng năng lượng góp
phần hỗ trợ doanh nghiệp tiết giảm chi phí nâng cao sức cạnh tranh.
Tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp tư nhân có những chuyển biến tích cực
khi số doanh nghiệp thành lập mới tăng kỷ lục (110,1 ngàn doanh nghiệp) trong khi số doanh
nghiệp quay trở lại hoạt động là gần 27 ngàn doanh nghiệp, tăng 24,1% so với năm 2015. Năm
2016 tiếp tục đánh dấu cho những nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh
doanh, phát triển doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia.
Các nhóm giải pháp cụ thể tại Nghị quyết số 192016/NQ-CP ngày 28/4/2016 và Nghị
quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ đã nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu


tư, giảm thời gian và chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp, tăng cường tính công khai
và minh bạch.
Báo cáo môi trường kinh doanh 2017 của Ngân hàng Thế giới cho thấy năm 2016 Việt
Nam tiếp tục tăng 9 bậc so với năm 2015 và xếp hạng 82/190 nền kinh tế nhờ sự cải thiện của 5
chỉ số: Tiếp cận điện năng (tăng 5 bậc), bảo vệ nhà đầu tư nhỏ (tăng 31 bậc), nộp thuế (11 bậc),
thương mại quốc tế (15 bậc).
Những kết quả này là nhờ nỗ lực cải cách trong việc nâng cao vai trò của các cổ đông
trong quản trị công ty, trách nhiệm của ban điều hành, đơn giản hóa thủ tục khai thuế và nộp thuế,
thực hiện thủ tục hải quan điện tử…
III, Giải pháp.
1. Nhiệm vụ phát triển kinh tế năm và thách thức tài khóa
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 bình quân 6,5 - 7%, trong đó năm
2017 là 6,8%, lạm phát khoảng 4%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 6-7%, tỷ lệ nhập siêu so với

tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 3,5%; tỷ lệ bội chi NSNN không quá 3,5% GDP, tổng vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội khoảng 31,5% GDP.
Nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 đã được Quốc hội thông qua nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, cùng với đó là quá trình tiếp tục
thực hiện 3 đột phá chiến lược, tạo cơ sở phát triển bền vững nền kinh tế.
Yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế rất cao với mục tiêu năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
đóng góp khoảng 30-35% vào tăng trưởng, nhiều chỉ tiêu về môi trường kinh doanh theo tiêu
chuẩn ASEAN – 4 (Singapore, Malaysia, Philippines, Thái Lan). Thách thức lớn và trực diện
nhất là sức ép cạnh tranh gay gắt ở cả 3 cấp độ: Sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
Theo đó, không gian chính sách mang tính hỗ trợ riêng cho từng doanh nghiệp, ngành
hàng cũng sẽ bị hạn chế. Điều đó có nghĩa là đổi mới, cải cách thể chế, trong đó có chính sách tài
chính sẽ tập trung vào tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, giữa các hình thức sở hữu. Các yêu cầu này đặt ra những thách thức không nhỏ đối với
chính sách tài khóa trong bối cảnh không gian chính sách đang bị thu hẹp.
Đảm bảo nguồn lực cho tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020, trong đó tỷ lệ huy động vào
NSNN bình quân 20 - 21% GDP. Đây là một thách thức lớn trong bối cảnh nhiều chính sách thu


đã được điều chỉnh để hỗ trợ thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 2011 2015 thông qua các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu từ NSNN.
Thực hiện mục tiêu tỷ trọng thu nội địa đạt khoảng 84 - 85% tổng thu NSNN, tỷ trọng thu từ dầu
thô và xuất nhập khẩu khoảng 14 - 16%. Trong bối cảnh giá dầu giảm trong thời gian qua và dự
báo khó vượt ngưỡng 100 USD/thùng trong trung hạn, Việt Nam tham gia các hiệp định thương
mại tự do thì nguồn thu dựa vào dầu thô và thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm dần.
Trong khi đó, nguồn thu trong nước phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất kinh doanh,
mở rộng cơ hội đầu tư của doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào tổng cầu trong nước, thị trường
xuất khẩu cũng như những giải pháp tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
Bội chi vẫn là yếu tố quan trọng tác động đến bền vững nợ công. Với nhu cầu chi khoảng
24 - 25% GDP giai đoạn 2016 - 2020 thì bội chi hằng năm vào khoảng 3 - 5% GDP, trong đó năm
2017 là 3,5% GDP. Trong khi đó yêu cầu đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, an ninh nợ công thì
nợ công không được phép vượt 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 54% GDP.

Khả năng huy động vốn từ thị trường tài chính trong nước cũng rất khó khăn. Yêu cầu vay nợ
năm 2017 là khá lớn với mức vay bù đắp bội chi và vay đảo nợ là 340.157 tỷ đồng (trong đó vay
bù đắp bội chi là 172.300 tỷ đồng), cộng với 50.000 tỷ đồng TPCP.
Đây là áp lực khá lớn đối với thị trường tài chính Việt Nam khi đang phải thực hiện quá trình xử
lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đảm bảo vốn cho tăng trường kinh tế với mức tăng
trưởng tín dụng bình quân khoảng 18 - 20%/năm, trong khi đó tỷ lệ tiết kiệm hằng năm chưa đến
30% GDP, trung bình giai đoạn 2011 - 2015 là 27,6% GDP.
Xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu ngân hàng. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đòi hỏi một
nguồn lực khá lớn để thực hiện, nhất là việc xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, thậm chí
có thể phải phá sản, xử lý các dự án đầu tư không hiệu quả, cần xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu
ngân hàng thương mại để đến năm 2020 không quá 3%.
2. Một số biệp pháp nhằm phát triển nền kinh tế.
Thứ nhất, đẩy mạnh tái cơ cấu đây là điều kiện thiết yếu để tiến tới mô hình tăng trưởng
dựa trên năng suất.


Theo ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam,
cho dù môi trường toàn cầu còn chưa khởi sắc, kinh tế Việt Nam vẫn ổn định nhờ nhu cầu trong
nước cao và ngành sản xuất chế tạo chế biến định hướng xuất khẩu. Báo cáo Điểm lại của Ngân
hàng Thế giới vừa được công bố cũng cho rằng triển vọng trung hạn của Việt Nam vẫn thuận lợi,
với tăng trưởng GDP dự kiến đạt 6,8% trong năm nay.
Phân tích kỹ hơn về những dự báo này, ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng
của WB, cho hay: Tăng trưởng của Việt Nam giảm nhẹ xuống 5,9% trong 3 quý đầu năm 2016,
chủ yếu do đợt hạn hán nghiêm trọng khiến sản lượng nông nghiệp thấp, sản lượng dầu thô bị cắt
giảm và nhu cầu bên ngoài chững lại. Các yếu tố căn bản đảm bảo tăng trưởng - sức cầu trong
nước ổn định và nền sản xuất chế tạo chế biến định hướng xuất khẩu – nhìn chung vẫn đứng
vững.
Tăng trưởng của Việt Nam đạt được trong điều kiện lạm phát thấp và tài khoản vãng lai
thặng dư cao. Mặc dù giá dịch vụ y tế và giáo dục tăng, lạm phát lõi vẫn ở mức thấp còn lạm phát
chung dự kiến không vượt chỉ tiêu chính thức là 5%.

“Ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam là môi trường thuận lợi để các nhà hoạch định chính
sách đẩy mạnh tái cơ cấu, đây là điều kiện thiết yếu để tiến tới mô hình tăng trưởng dựa trên năng
suất," theo ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. “Kế hoạch
tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, vừa được Quốc hội thông qua, sẽ xử lý được một số
bất cập phát sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế.”
Thứ hai, tăng hỗ trợ để chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp
Tại Báo cáo lần này của WB cũng bàn về hướng đi để ngành nông nghiệp đem lại giá trị
kinh tế cao hơn và sinh kế tốt hơn cho người tiêu dùng và nông dân, giảm thâm dụng tài nguyên,
nhân lực và không gây suy thoái môi trường.WB cho rằng, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn, chẳng hạn về năng suất và sản lượng, góp phần hoàn thành các mục tiêu
của quốc gia về an ninh lương thực, giảm nghèo và ổn định xã hội. Tuy nhiên, hiện đang có quan
ngại lên về chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Tăng trưởng
năng suất đạt được trong thời gian qua vẫn nhờ vào thâm dụng đầu vào ngày càng nhiều và phí
tổn môi trường ngày càng cao.
WB nhận định rằng, Chính phủ Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát
triển nông nghiệp. Nhưng trong thời gian tới, các chuyên gia WB khuyến nghị Chính phủ cần
giảm chỉ đạo và tăng hỗ trợ để chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp và hệ thống nông nghiệp thực phẩm ở Việt Nam.


Chẳng hạn, Chính phủ có thể giảm đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp, đồng thời tập trung
đẩy mạnh hỗ trợ để thị trường đất nông nghiệp vận hành năng động hơn và khôi phục lại hệ thống
đổi mới sáng tạo trong
Thứ ba, đẩy mạnh các chính sách tạo bước đột phá cho sản xuất công nghiệp, cụ thể là
doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhất là đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu trong điều kiện
cạnh tranh cao.
Trong đó, cần cơ chế, chính sách, giải pháp thu hút đầu tư vào các ngành sản phẩm kích
phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường như công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, nông
nghiệp công nghệ cao; gỡ khó cho doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi nhất cho phát triển sản
xuất, kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là rà soát, cải cách thủ tục hành chính thuế và
hải quan.

Thứ tư,Hỗ trợ các doanh nghiệp hội nhập quốc tế bằng cách bộ ngành phải thường xuyên
cung cấp thông tin về thị trường, ngành hàng, các quy định, rào cản của các thị trường xuất khẩu
mục tiêu…; tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và chính quyền để kịp thời gỡ khó cho
doanh nghiệp…
Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần tăng mạnh ưu tiên nguồn vốn tín dụng thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Tiếp tục xem FDI là động lực tăng trưởng nhưng cần có giải pháp gắn kết các doanh
nghiệp trong nước với DN FDI, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng vốn FDI, giảm thiểu
khó khăn cho các DN nội địa khi thực hiện giải pháp liên kết với với DN FDI để DN nội địa tham
gia sản xuất sản phẩm phụ trợ cho DN FDI.
Thứ năm, thúc đẩy xuất khẩu với tốc độ cao hơn so năm 2016.
Hỗ trợ tối đa cho DN tìm kiếm đơn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu. Tổ chức kết nối thị trường
trong và ngoài nước để định hướng sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu hàng hóa đến tất cả các ngành
hàng
Thứ sáu,gia tăng nguy cơ dễ tổn thương về tài chính và kinh tế vĩ mô.
Báo cáo cũng cho biết bội chi ngân sách của Việt Nam đang ở mức cao và đang tiến sát
ngưỡng Quốc hội cho phép là 65% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tuy nhiên Chính phủ đã tiếp
tục cam kết củng cố tình hình tài khóa trong trung hạn. Ông Sebastian Eckardt bình luận: “Thành
quả kinh tế vừa qua phần nào có được do tăng trưởng tín dụng cao và chính sách tài khóa tạo hỗ
trợ, có thể giúp thúc đẩy các hoạt động kinh tế trong ngắn hạn nhưng lại làm tăng những rủi ro tài
khóa và tài chính hiện hữu trong trung hạn”.


Bên cạnh đó, WB cho rằng, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng khá nhiều và tăng trưởng
tín dụng tiếp tục ở mức cao, có thể làm gia tăng những nguy cơ dễ tổn thương hiện hữu về tài
chính và kinh tế vĩ mô. Triển vọng trong trung hạn có phải tính đến một số rủi ro bất lợi, như
chậm trễ trong triển khai chuyển đổi cơ cấu và cải cách tài khóa, kinh tế toàn cầu tiếp tục suy
giảm, tình hình thị trường tài chính toàn cầu chưa khả quan và viễn cảnh tăng lãi suất tại Mỹ.
Thứ bảy,chính sách tài chính năm 2017
Để tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,

gắn với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn từ năm 2016 - 2020, kế hoạch tài chính - ngân
sách giai đoạn từ năm 2016 - 2020, hoàn thành 3 đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
chính sách tài chính năm 2017 cần tập trung vào một số giải pháp ưu tiên.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định,
minh bạch, thông thoáng thông qua việc tháo gỡ các rào cản, vướng mắc về thuế, hải quan, chế
độ kế toán, kiểm toán, thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính. Thực hiện có hiệu quả chính
sách ưu đãi về thuế, tín dụng, các nghĩa vụ tài chính về đất đai, nhất là đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Giảm thời gian doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính thuế với mục tiêu đến 2020
Việt Nam đứng trong 4 nước đứng đầu ASEAN trong xếp hạng mức độ thuận lợi về thuế. Thực
hiện đơn giản, hài hòa thủ tục hải quan phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế để đảm bảo
thời gian thông quan hàng hóa đến năm 2020 đạt mức tương đương các nước tiên tiến trong khu
vực.
Loại bỏ các yêu cầu cung cấp thông tin, chứng từ trùng lắp, chồng chéo; phân định rõ thủ
tục và các chế độ quản lý hải quan; áp dụng rộng rãi và hiệu quả việc thực hiện thủ tục, kiểm tra,
giám sát hải quan bằng phương thức điện tử trên các mặt: Khai và tiếp nhận thông tin khai hải
quan; trao đổi thông tin cấp phép và các chứng từ liên quan giữa các cơ quan nhà nước trong
khuôn khổ cơ chế một cửa hải quan quốc gia.
Đồng thời chuẩn bị các điều kiện để thực hiện Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO theo
Quyết định số 1969/QĐ-TTg ngày 13/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Tập trung nguồn lực để phát triển các tiền đề cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích sự tham gia của các
thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công và trong đầu tư
vào các lĩnh vực ưu tiên như đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là các dự án áp dụng công
nghệ cao, công nghệ chế biến sau thu hoạch, dự án đầu tư vào các vùng đặc biệt khó khăn.


Xây dựng cơ chế tài chính đặc thù áp dụng cho các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực
để các vùng kinh tế trọng điểm thực sự là đầu tàu tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách, bảo đảm an toàn nợ công và tài chính quốc gia.

Thực hiện đúng Luật NSNN, các luật về thuế, phí và lệ phí. Thực hành tiết kiệm chi tiêu trong
khả năng của nền kinh tế. Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay, chỉ vay trong khả năng
trả nợ; kiểm soát chặt khoản vay của chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương thu, chi ngân sách ở các cấp, ngành, địa phương và
đơn vị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài chính, tài sản, quản lý đầu tư, quản lý nguồn
vốn nhà nước. Đổi mới chính sách phân bổ nguồn lực thông qua lập và thực hiện kế hoạch tài
chính - NSNN trung hạn và kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Bố trí chi đầu tư phát triển khoảng 25-26% tổng chi NSNN hằng năm; phân bổ tập trung,
theo cam kết bố trí dự toán chi NSNN cho các chương trình, dự án để nâng cao vai trò định
hướng đầu tư nhà nước, kết hợp với nâng cao chất lượng quản lý đầu tư. Tiếp tục ưu tiên bố trí
chi cho khoa học công nghệ, môi trường, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất giáo dục, đào tạo, y tế
gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng.
Thực hiện cơ chế quản lý như doanh nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ
điều kiện; cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện, trừ các bệnh viện, trường
học; giải thể đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả.
Tính đúng, tính đủ chi phí hợp lý vào giá các dịch vụ công thiết yếu, thực hiện điều chỉnh
giá các loại dịch vụ công theo cơ chế thị trường; có lộ trình thực hiện giá thị trường đối với giáo
dục, y tế...gắn với hỗ trợ đối tượng chính sách và người nghèo; chuyển từ cơ chế cấp phát sang
đặt hàng, từ giao kinh phí theo đầu vào sang theo số lượng và chất lượng đầu ra, từ hỗ trợ cho các
đơn vị cung cấp sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng.
Đồng thời, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực
như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác làm tăng
tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ thông qua việc khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công, nhất là quản lý sử dụng có hiệu quả
vốn vay, quản lý tốt nợ trung hạn và quỹ tích lũy trả nợ, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro; tiếp tục
cơ cấu lại các khoản vay; tăng cường quản lý các khoản vay mới, khoản vay có bảo lãnh của
Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện. Đảm bảo nợ công
không quá 65% GDP, nợ chính phủ không quá 54% GDP, nợ nước ngoài quốc gia không quá
50% GDP.



Hoàn thành cơ cấu lại và xây dựng chiến lược phát triển thị trường tài chính ổn định, lành
mạnh và cân bằng giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn để giảm sức ép cung ứng vốn từ hệ
thống tổ chức tín dụng; giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu; giữa TPCP và trái phiếu doanh
nghiệp để phấn đấu đến năm 2020 đưa thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài
hạn chủ đạo của nền kinh tế; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng, phát
triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, thị trường chứng khoán phái sinh và tín dụng tiêu dùng.
Đồng thời, đa dạng hóa các định chế tài chính cũng như hàng hóa trên thị trường.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế phát triển.
2. Giáo trình kinh tế vĩ mô.
3. Giáo trình tài chính tiện tệ.
4. Báo tài chính.
5. Báo kinh tế.
6. Tin tức 24h.
7. Tổng cục thống kê năm 2016…..
8. />9. />…


×