Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Vấn đề đạo đức cách mạng của sinh viên ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.13 KB, 117 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN AN BÌNH

VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA SINH VIÊN
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS . TS TRẦN SỸ PHÁN

Hµ Néi - 2011


2

Mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Công cuộc đổi mới xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
đem lại những kết quả to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những kết quả đó là do sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết một lòng của toàn Đảng,


toàn dân ta. Trong đó phải kể đến vai trò của lực lượng thanh niên - lực lượng
xã hội đặc biệt có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng, phát
triển đất nước. ở bất kì giai đoạn cách mạng nào, thanh niên luôn là lực lượng
đi đầu trong các phong trào cách mạng, họ là “mùa xuân của nhân loại”. Khi
đánh giá vai trò của thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh, một phần lớn là do thanh niên.
Phát huy vai trò người chủ tương lai của đất nước, sinh viên là một bộ phận
khá đông đảo trong lực lượng thanh niên nước ta hiện nay, họ đã và đang có
những đóng góp tích cực đối với sự phát triển của đất nước. Sinh viên là
những người có tri thức, năng động, nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới.
Trong tương lai họ chính là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tay nghề phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau hai mươi lăm năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều thay đổi căn bản.
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tạo điều kiện, cơ hội
thuận lợi cho sinh viên được rèn luyện, phấn đấu vươn lên và để khẳng định
mình. Bên cạnh những chuyển biến tích cực, thì sự tác động mạnh mẽ từ mặt
trái của cơ chế thị trường đã và đang làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực,
ảnh hưởng không tốt đến lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên các
trường đại học, cao đẳng nước ta nói riêng.
Bên cạnh đa số thanh niên - sinh viên say mê tích cực học tập, trau dồi phẩm
chất đạo đức, mong muốn trở thành những công dân có ích cho đất nước, vẫn
còn một bộ phận không nhỏ có thái độ tiêu cực xa rời truyền thống tốt đẹp mà


3

bao thế hệ sinh viên nước nhà tạo dựng nên. Đó là lối sống thực dụng, buông
thả, bất chấp đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phai nhạt lí
tưởng, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

Làm thế nào để góp phần khắc phục tình trạng xuống cấp đạo đức trong một
bộ phận sinh viên hôm nay. Làm thế nào để đào tạo ra được những sinh viên
có nhân cách phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đây là câu hỏi lớn mà chúng ta đang tìm lời giải đáp.
Việc tìm hiểu thực trạng đạo đức sinh viên, tìm ra những giải pháp để khắc
phục mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực trong đời sống đạo đức sinh viên,
để sinh viên thực sự xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước đã
và đang trở thành cấp thiết hơn bao giờ hết. Từ suy nghỉ đó tác giả chọn “Vấn
đề đạo đức cách mạng của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hưng Yên
hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức thanh niên - sinh viên nói riêng trong
những năm gần đây đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu:
- Các công trình đã in thành sách:
+ “Đạo đức mới” do GS Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Khoa học xã hội,
1974). Trong tác phẩm này vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức
mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
+ “Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới” của Tương Lai
(Nxb Sự thật, 1983). Trong cuốn sách này, tuy còn có những hạn chế nhất
định nhưng có thể coi đây là tài liệu tham khảo bổ ích về lĩnh vực đạo đức
học.
+ “Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” của Ban tư tưởng - Văn hoá Trung
ương (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2004). Cuốn sách này đã đề cập một cách



4

hệ thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đã khái quát một cách cô
đọng những chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những
nguyên tắc phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
+ “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” của TS Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị Quốc gia, HN,
2009). Công trình này tác giả đã tập trung xem xét tác động của kinh tế thị
trường đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay và thực trạng đạo đức ở
nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường đối với đời sống đạo đức xã hội.
+ “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” Sách chuyên khảo
của PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt nxb CTQG năm 2011. Cuốn sách gồm hai
chương, chương I bàn về “Nguồn gốc bản chất và nội dung đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh”; chương II bàn về “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo hiện
nay - thực trạng và giải pháp ( dưới ánh sáng đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh)”. Cuốn sách là tài liệu tham khảo có giá trị đối vối những ai nghiên cứu
về đạo đức cách mạng, đạo đức Hồ Chí Minh.
- Các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
+ “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sỹ Phán, Luận án Tiến sĩ,
1999).
+ “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho
thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (Luận văn thạc sĩ,
2000).
+ “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay” của Doãn Thị Chín (Luận văn thạc sĩ, 2004).



5

+ “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn thạc sĩ,
2004).
+ “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân cách
đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hà (Luận văn
thạc sỹ, 2007).
+ “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên Bạc Liêu hiện nay” của Trần Tam Phương (Luận văn thạc sĩ,
2008).
- Các bài viết nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức trong một số
tạp chí như:
+ “Tư tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh
niên trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm (Tạp chí Triết học, số 2,
2001).
+ “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường” của Đỗ Lan Hiền (Tạp chí Triết học, số 4, 2002).
+ “Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của
người cán bộ quản lý” của Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Lý luận chính trị số
4, 2001).
+ “Đạo đức mới - đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác
nhau” của Trịnh Duy Huy (Tạp chí Triết học số 1, 2006).
+ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục thế hệ trẻ” của
Thái Thanh Thuỷ (Thông tin công tác Trường chính trị, số 1, 2006)
+ “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo
đức mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 11,
2006).

+ “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức mới” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 3, 2007).


6

+ “Giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống cho Thanh niên” của Ngô Văn
Thạo (Tạp chí Lý luận chính trị số 1- 2010)
+ “Thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ, Đảng viên nước ta hiện nay
qua Văn kiện Đại hội XI của Đảng” của Trần Sỹ Phán (Tạp chí Triết học, số 8
– 2011)
Nhìn chung, những công trình và bài viết nêu trên không chỉ đã đề cập
đến vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức trong điều kiện phát triển
hiện nay, góp phần vào việc xây dựng và phát triển đạo đức ở nước ta. Là các
nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo và thừa kế trong quá trình thực
hiện đề tài luận văn của mình. Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên là vấn đề cấp thiết, phức tạp vì thế cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên ở tỉnh Hưng
Yên trong những năm gần đây và những nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách
mạng cho đối tượng này.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn cần giải quyết cỏc nhiệm vụ sau:
-


Làm rõ khái niệm đạo đức cách mạng và nội hàm của nó.

-

Phân tích thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên các trường đại

học, cao đẳng ở Hưng Yên hiện nay và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng
đó.
-

Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nõng cao đạo

đức cách mạng cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên các trường đại học, cao đẳng.


7

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên đang học tập ở các trường đại học cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên.
5.

Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu


5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những
vấn đề liên quan đến đạo đức nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng, đồng
thời tác giả còn kế thừa có chọn lọc những giá trị của các công trình nghiên
cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic; phân tích và
tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học.
6.

Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1 Đóng góp khoa học của luận văn

Luận văn góp phần làm sỏng tỏ thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên ở
Hưng Yên. Trên cơ sở đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng
ở Hưng yên trong điều kiện hiện nay.
6.2 ý nghĩa của luận văn
- Góp phần luận chứng về mặt lý luận cho công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên, học sinh, sinh viên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức, tổng kết thực tiễn, khái
quát lý luận liên quan đến đạo đức.
7.

Kết cấu của luận văn



8

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn
được bố cục gồm 2 chương 4 tiết.

CHƯƠNG 1
ĐạO ĐứC cách mạng Và THựC TRạNG ĐạO ĐứC cách mạng CủA SINH
VIÊN ở TỉNH HƯNG YÊN HIệN NAY


9

1.1. Đạo đức cách mạng và yêu cầu đạo đức cách mạng đối với sinh viên ở
tỉnh Hưng Yên hiện nay.
1.1.1. Đạo đức cách mạng - cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức.
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử tư tưởng loài người. Ngay từ trong xó hội cộng sản nguyờn thủy, tuy
cũn ở trong “trạng thỏi mờ”. Nghĩa là nó chưa được phõn xuất, phõn chia ra
thành một hỡnh thỏi ý thức xó hội riờng biệt, từ những nguyờn tắc, chuẩn
mực đạo đức như: không được lấy phần của cải của nhau, không được đàn áp
nhau…đó xuất hiện. Đây chính là những nguyờn tắc, chuẩn mực đạo đức đầu
tiờn của con người.
Bước sang xó hội chiếm hữu nụ lệ, lần đầu tiờn xó hội cú sự phõn chia giai
cấp, vỡ vậy đạo đức cũng mang tớnh giai cấp. Điều như Ph. Ăng ghen gọi đây
là: “một bước thụt lùi tương đối” về mặt đạo đức.
Theo quan niệm phương Đông trong cỏc học thuyết của phật giỏo, của đạo
giỏo, của nho giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhõn xử thế và tự rốn
luyện mỡnh, khuyờn con người làm điều thiện, tránh điều ỏc. Cỏc học thuyết
đề xuất cỏc quy tắc cỏc chuẩn mực, những ràng buộc trong cỏc hoạt động
sống của con người. Cú thể núi, khỏi niệm đạo đức ở phương Đông có nghĩa

là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn mực về cỏc mối quan hệ vua tụi,
cha con, vợ chồng, anh em, làng xúm, bạn bè, tu thân dưỡng tõm, rốn luyện
khớ tiết... theo những giỏ trị định hướng nhất định.
ở phương Tây, khỏi niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ “mos” trong ngữ vựng La
tinh, cú nghĩa là lề thúi. “Moralis” cú nghĩa là thúi quen. Ngoài ra trong tiếng
Hy lạp cũn cú khỏi niệm ethicos cũng cú nghĩa là tập tục gắn với thúi quen.
Cả hai từ này đều chỉ đạo đức của xó hội, tức là núi về tập quỏn, tập tục, lề
thúi trong cỏc quan hệ giao tiếp giữa con người với con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đạo đức học mác xít


10

cho rằng: đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó nhân tố
quy định đạo đức là các quan hệ lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế - cái chi
phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức. Đúng như các nhà duy vật
Pháp quan niệm: “lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ
đạo đức".
Cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức, nhưng ở mức độ khái
quát nhất, chúng ta có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dõn tộc và sức
mạnh của dư luận xã hội [1, tr.7].
Trong quan niệm này, có mấy điểm cần chú ý sau đây:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của
kiến trúc tầng, tư tưởng đạo đức vừa phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối liên
hệ mật thiết với tư tưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Theo quan
niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử tư tưởng đạo đức cũng như tư tưởng chính

trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nghệ thuật, đều là sự phản ánh một cơ sở
kinh tế – xã hội nhất định, vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dưới các hình
thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu hiện các lợi ích kinh tế,
chính trị , pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại
nhất định. Sự tương tác giữa tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư tưởng
pháp quyền, tư tưởng triết học, tư tưởng tôn giáo, tư tưởng khoa học tạo nên
sự thống nhất trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tư tưởng đạo đức có tính độc lập
tương đối so với cơ sở kinh tế và trong tương quan với tư tưởng của các hình
thái ý thức xã hội khác. Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là
chỉ một số truyền thống, ít nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đạo
đức tồn tại lâu dài khi cơ sở kinh tế, các thiết chế chính trị đã mất đi. Nhiều


11

quan hệ đạo đức vẫn còn tác dụng gìn giữ sự phát triển của các mối quan hệ
nhân bản giữa con người với con người, khi điều kiện kinh tế – chính trị – xã
hội đã qua đi lâu rồi.
Có thể nói khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồm các
hành vi đạo đức, tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, lý tưởng đạo đức…
Thứ hai, Sự biến đổi của các quan hệ đạo đức trong xã hội phụ thuộc vào
phương thức sản xuất của xã hội. Đạo đức phát sinh và phát triển do nhu cầu
của xã hội, đặc biệt là các nhu cầu về lao động, về sản xuất, về sinh tồn, về
giao tiếp. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, dưới chế độ cộng sản
nguyên thủy, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra các quan hệ đạo
đức bình đẳng nguyên thủy. Lúc ấy cá nhân con người hòa nhập với cuộc
sống cộng đồng nguyên thủy. Chủ nghĩa tập thể nguyên thủy tạo ra các quan
hệ đạo đức gắn con người với tự nhiên và với cộng đồng của mình, cá nhân
không tách khỏi cộng đồng. C.Mác và Ph. Ăngghen thường nói đến đạo đức

với các hình thái xã hội cổ điển, ở đó con người vẫn gắn chặt với cuống rốn
cộng đồng.
Trong hình thái xã hội mà ở đó chưa có sự phân chia giai cấp không có hiện
tượng người bóc lột người. Con người cùng nhau hái lượm đánh bắt muông
thú, chim cá và ăn ở tập thể. Các phong tục, tập quán, uy tín, sự tôn kính
nhau, sự giúp đỡ nhau tự nguyện là hiện tượng đạo đức phổ biến trong xã hội
nguyên thủy. Trong các thị tộc nguyên thủy, các quan hệ đạo đức bình đẳng,
nhất trí, đoàn kết là nghĩa vụ. Nhiều nhà nghiên cứu đạo đức nguyên thủy đều
cùng có chung một nhận xét rằng: các quan hệ giữa người và người trong xã
hội nguyên thủy rất thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm, theo đúng
nghĩa vụ.
Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, đòi hỏi đời sống đạo đức cũng phải
thay đổi theo. Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển
của đạo đức, những thời đại khác nhau, cộng đồng khác nhau có những kiểu


12

đạo đức khác nhau. Chẳng hạn, ứng với chế độ phong kiến, là đạo đức phong
kiến; ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê
là đạo đức tư sản; chế độ Xã hội chủ nghĩa tạo ra nền đạo đức thông qua mối
quan hệ hợp tác trên tình đồng chí, quan hệ tương trợ lẫn nhau của người lao
động đã được giải phóng khỏi áp bức bóc lột.
Trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, sự đối lập về lợi ích giữa các giai
cấp tạo nên tính khụng thống nhất trong nhận thức, đánh giá, và do đó, tạo
nên tính không thống nhất trong điều chỉnh đạo đức. Các giai cấp khác nhau,
đối lập nhau có những nguyên tắc, những chuẩn mực điều chỉnh riêng phù
hợp với lợi ích giai cấp mình. Trong điều kiện đó, điều chỉnh hành vi đạo đức
trên toàn xã hội không thể thực hiện được theo một phương hướng thống nhất.
Không một giai cấp nào, kể cả giai cấp thống trị, có thể kiểm soát được toàn

bộ đời sống đạo đức trên quy mô xã hội. Do đó trong điều kiện của xã hội có
đối kháng giai cấp, sự điều chỉnh hành vi bằng pháp luật trở thành phương
thức điều chỉnh hành vi chiếm ưu thế.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức,
người lao động không những không đối lập mà càng thống nhất với nhau. Các
giai cấp, các tầng lớp trong xã hội đều có một mục tiêu, một lý tưởng chung là
xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Mục tiêu ấy vừa là mục tiêu kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu, lý tưởng
đạo đức. Phấn đấu cho mục tiêu đó không chỉ là đòi hỏi về mặt kinh tế - xã
hội, mà còn là đòi hỏi về mặt đạo đức. Những đòi hỏi này sẽ điều chỉnh hoạt
động của xã hội theo một hướng thống nhất. Đồng thời, trong quá trình này,
các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động vừa là chủ thể vừa là khách thể
của điều chỉnh đạo đức. Điều đó không chỉ cho phép mở rộng phạm vi mà còn
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức trên bình diện xã hội rộng lớn. Hơn
thế, nó còn đặt ra yêu cầu cũng như tạo ra điều kiện để đưa điều chỉnh đạo
đức vào trong quá trình quản lý xã hội như một yếu tố hữu cơ. Điều chỉnh đạo


13

đức, do vậy, vừa là động lực của quản lý xã hội, vừa là mục tiêu của quản lý
xã hội.
- Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Sự hình thành, phát triển và
hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện
của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức
phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy sẽ mang tính tích cực, mang
tính nhân đạo. Ngược lại, hệ thống ấy sẽ là tiêu cực, phản động, phản nhân
đạo nếu nó đi ngược lại với sự phát triển, sự tiến bộ.
Trước Mác và ăng ghen, phần lớn cỏc nhà triết học không thấy được tính
quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và đạo

đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc
thù của con người, của xã hội được họ nhìn nhận tách rời cơ sở kinh tế - xã
hội, cái sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo đức học trước Mác đã
tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính con người,
hoặc ở bản tính siêu nhiên ở bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét
chung của các lý thuyết này là coi đạo đức không phải là cái phản ánh cơ sở
xã hội, hiện thực khách quan.
Những nhà duy tâm khách quan, tiêu biểu là Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ đến “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để
lý giải bản chất và nguồn gốc đạo đức.
Những nhà duy tâm chủ quan coi đạo đức như là những năng lực “tiên
thiên” của lý trí con người. ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi của
Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm,
nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con
người.
Quan niệm của Phoiơbắc, đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ của con người,
người với người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng,


14

bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc
và thời đại.
Khác với tất cả các nhà triết học trên đây, Mác và ăng ghen quan niệm
đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển
lịch sử. Hai ông cho rằng, con người khi sống có quan hệ song trùng. Một mặt
con người có quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thoả mãn cuộc
sống của mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên con người không thể đơn
độc, con người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác
động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và hoạt

động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, Mác và Ăng ghen cho rằng “Lao động là điều kiện
cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người” [40, tr.641]; người ta phải
ăn, mặc, ở, đi lại trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật… Xuất phát từ
con người thực tiễn, chứ không phải con người thuần tuý ý thức hay con
người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức sản xuất quyết định
toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài người. Trong lời tựa của tác
phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, Mác viết “Phương thức
sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị
và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại
của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [34, tr.15].
Luận điểm này chính là chìa khoá để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội
trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở
bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự
biểu hiện của những năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người.
Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế - xã hội. Đúng như ăng


15

ghen viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến
nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [40, tr.137].
Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra
trước hết từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất,
trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát
triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của các quan hệ xã hội, hệ thống
các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày

càng phát triển, nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức có các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng điều chỉnh hành vi: Theo quan niệm Mác xít, lợi ích cá
nhân là động lực trực tiếp nhất thúc đẩy con người hoạt động. Nhưng sự thực
hiện lợi ích cụ thể của mỗi người cụ thể nhiều khi lại cản trở, thậm chí lại triệt
tiêu lợi ích của người khác. Vì thế để ổn định và phát triển của xã hội, những
phương thức điều chỉnh hành vi người nhằm giải quyết một cách hợp lý quan
hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được hình thành. Đạo đức là một trong
những phương thức điều chỉnh hành vi người nhằm đảm bảo sự ổn định và
phát triển của xã hội loài người.
Điều chỉnh đạo đức xuất hiện ngay từ thời nguyên thủy với tư cách là sự tiếp
tục, sự phát triển và mở rộng tập quán của các thị tộc, bộ lạc. Đặc trưng của
sự điều chỉnh đạo đức là tính tự giác, tự nguyện. Con người (cá nhân) lĩnh hội
các yêu cầu của xã hội dưới hình thức các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo
đức, biến các nguyên tắc các chuẩn mực đó thành động cơ, tình cảm và nghĩa
vụ đạo đức. Do đó, hành vi thực hiện các yêu cầu đạo đức xã hội trở thành
hành vi tự do.
Điều chỉnh đạo đức được thực hiện thông qua tác động của ý thức đạo đức đối
với hành vi người. Toàn bộ các thành tố của ý thức đạo đức đều tham gia vào
quá trình điều chỉnh đạo đức; trong đó, chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức
và tình cảm đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng.


16

Chuẩn mực đạo đức phản ánh những yêu cầu của xã hội với cá nhân. Nó xác
định những giới hạn được phép và không được phép của hành vi. Sự lĩnh hội
và quán triệt các chuẩn mực đạo đức sẽ điều chỉnh hoạt động của con người
phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Nói cụ thể hơn, nhờ sự lĩnh hội các chuẩn
mực đạo đức, con người biết làm gì và không được làm gì trong những tình

huống cụ thể của cuộc sống.
Lý tưởng đạo đức cũng phản ánh yêu cầu của xã hội đối với con người.
Nhưng khác với chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức chủ yếu phản ánh sự
phát triển, phản ánh tương lai của xã hội những yêu cầu đặt ra trong lý tưởng
đạo đức bao giờ cũng cao hơn các yêu cầu đặt ra trong chuẩn mực. Vì thế, lý
tưởng đạo đức tham gia vào điều chỉnh đạo đức vừa như là nhân tố bảo đảm
sự ổn định, sự bền vững, vừa như là nhân tố làm mở rộng và phát triển hài
hòa các quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Các
chuẩn mực đạo đức xã hội chỉ có thể thực hiện được vai trò điều chỉnh đạo
đức khi con người lĩnh hụụ̣i chúng.
Con người là một thực thể hoạt động có ý thức. Mọi hoạt động của con người
đều là hoạt động nhằm theo đuổi nhu cầu, lợi ích (vật chất và tinh thần) nhất
định và nhằm hiện thực hoá nhu cầu đó. Một động cơ đạo đức trong sáng,
lành mạnh sẽ quy định tính lành mạnh, tính trong sáng của phương thức, của
phương tiện đạt mục tiêu phù hợp với chuẩn mực đạo đức tiên tiến; và ngược
lại như Mác đã nói: mục tiêu nhân bản không thể sử dụng những phương tiện
phi nhân tính.
Do đặc trưng “tự ý thức” như là thuộc tính trội trong đạo đức, con người
sẽ có sự cân nhắc cần thiết về phương diện đạo đức, hậu qủa đạo đức của
hành vi trước khi thực hiện hành vi đó. Nhờ vậy, nếu được chỉ đạo bởi quan
niệm đạo đức đúng đắn, mối quan hệ giữa người và người có liên quan tới
hành vi đó sẽ mang tính chất lành mạnh, trong sáng, tích cực. Điều đó không
chỉ góp phần củng cố, phát triển mối quan hệ hài hoà giữa người và người, đó


17

còn là phương thức quan trọng để tăng cường sự hoà hợp xã hội giữa các
công dân, tạo ra sự lành mạnh và ổn định xã hội. Bởi vì, suy cho cùng, nói tới
chức năng điều chỉnh hành vi và tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người với

người, thực chất là nói tới chức năng tự điều chỉnh mối quan hệ lợi ích bao
gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần giữa người với người. Một người
hoặc một cộng đồng xã hội có đạo đức cao sẽ không bao giờ thực hiện hành
vi mang lại lợi ích cho mình mà làm thiệt hại tới lợi ích chân chính, đúng đắn
của người khác, của cộng đồng khác; họ tự ý thức đúng đắn về sự công bằng,
bình đẳng và biết tự kiềm chế hành vi của mình trong giới hạn đó.
Như vậy, chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và
lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa, hành vi con người đã trở thành đặc
trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng
xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
Thứ hai, chức năng giáo dục.
Đạo đức là một trong những nụụ̣i dung cốt yếu nhất của nhân cách. Người có
học vấn nhưng vô đạo đức hoặc có nhiều thói xấu đạo đức, không được coi là
người có nhân cách phát triển. Năng lực đạo đức vừa là nhân tố cấu thành
nhân cách vừa là chỉ báo cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên năng lực đạo
đức hoặc những phẩm chất đạo đức của con người với tư cách cá nhân không
phải tự nhiên mà có được. Sự hình thành và phát triển đạo đức cá nhân bị quy
định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội và bởi hệ thống đạo đức của xã hội.
Tác động của hệ thống đạo đức xã hội tới sự hình thành đạo đức cá nhận
chính là sự thể hiện và thực hiện chức năng giáo dục của đạo đức. Mặc dù đạo
đức xã hội tồn tại dưới một xã hội đặc thù và không phải tồn tại một cách biệt
lập mà tồn tại thông qua cá nhân nhưng nó có tính độc lập tương đối, có mối
quan hệ, tương tác với cá nhân làm hình thành và phát triển nhân cách đạo
đức của con người


18

Nhân tố đầu tiên cấu thành đạo đức là ý thức đạo đức, trong đó có tri thức,
niềm tin, tình cảm và ý chí đạo đức. Việc cá nhân, cộng đồng xã hội nói

chung thấm nhuần những bộ phận cấu thành nhân tố đó, rèn luyện cho mình
một hệ chuẩn đúng đắn trên những vấn đề vừa nêu sẽ góp phần tích cực vào
việc hoàn thiện nhân cách của chủ thể tương ứng. Chính trên cơ sở đó, đạo
đức giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của
cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng bản thân mình.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu, một mặt “giáo
dục lẫn nhau trong cộng đồng”; giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và
cộng đồng. Mặt khác, là sự “tự giáo dục” ở cả cấp độ cá nhân và cấp độ cộng
đồng.
Thứ ba, chức năng nhận thức (chức năng phản ánh). Với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn
tại xã hội. Các nguyên tắc , các chuẩn mực đạo đức chính là sự phản ánh đặc
thù các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Đạo đức phản ánh hiện thực
có đặc điểm khác biệt với các hình thái ý thức khác. Vì đạo đức là phương
thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản
thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần được quy định bởi tồn tại xã hội.
Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức)
không tách rời thực tiễn - hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện
tượng xã hội vừa mang tính tinh thần, vừa mang tính hành động hiện thực.
Quan điểm mácxít cho rằng, tiến bộ xã hội, tự do của con người là tiêu chí
khách quan của nhận thức đạo đức. Điều đó có nghĩa rằng, tất cả những gì
góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội và giải phóng con người đều hiện
diện trước nhận thức đạo đức của nhân loại như là những giá trị thiện đích
thực, trong trường hợp ngược lại, đó là điều ác. Trong điều kiện xã hội phân
chia giai cấp, bao giời cũng tồn tại một giai cấp tiến bộ đang lên. Lợi ích của
giai cấp đó phù hợp với sự phát triển xã hội. Vì thế lập trường của giai cấp


19


tiến bộ, cách mạng cho phép nhận thức và đánh giá một cách khách quan các
hiện tượng đạo đức. Giai cấp vô sản hiện đại với tư cách là giai cấp có sứ
mệnh giải phóng nhân loại khỏi mọi sự phân biệt giai cấp, mọi áp bức bóc lột
là giai cấp có khả năng nhận chân những quy luật phát triển xã hội và những
giá trị xã hội hiện đại. Lập trường của nó là điều kiện tất yếu để nhận thức và
đánh giá một cách đúng đắn các giá trị đạo đức trong điều kiện hiện nay.
Nhận thức đạo đức và kết quả của nó, các nguyên tắc các chuẩn mực đạo
đức...chính là cơ sở điều chỉnh hành vi con người.
Đạo đức cách mạng - Cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức.
Đạo đức cách mạng là đạo đức của giai cấp công nhân, đạo đức cộng sản. Xã
hội loài người vận động, phát triển như một quá trình lịch sử - tự nhiên, từ
thấp đến cao qua các hình thái kinh tế - xã hội khỏc nhau. Phự hợp với mỗi
hỡnh thỏi kinh tế - xó hội cụ thể có những quan điểm đạo đức tương ứng. Đạo
đức xã hội cũng vận động, phát triển, đỉnh cao là đạo đức cộng sản.
Về mặt lịch sử, đạo đức cách mạng đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã
hội Xã hội chủ nghĩa, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị
của mình. Chính nội dung của cuộc đấu tranh đó quy định sự phát triển nội
dung của đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đạo đức cách mạng hình thành và phát triển từ đạo đức của giai
cấp vô sản và ngày càng trở thành đạo đức chung của xó hội. Và trong tương
lai trở thành đạo đức chung của nhân loại và là đạo đức cộng sản sau khi đã
qua giai đoạn đầu của nó là đạo đức Xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản - đạo đức cách mạng - đạo đức mới - là
hoàn toàn mới trong lịch sử xã hội. Nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản
và các giai cấp bóc lột khác. Nó cũng khác với đạo đức của những người sản
xuất nhỏ, xét về bản chất. V.I Lê nin nờu rừ rằng: đạo đức của chúng ta hoàn
toàn phục vụ lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản; đạo đức của chúng



20

ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra.
“Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm
đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư
hữu nhỏ, vỡ chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá nhân thành quả lao động do
toàn thể xó hội sáng tạo ra. Ruộng đất đối với chúng ta là tài sản chung” [48,
tr.369].. Vì vậy, “đối với một người cộng sản, tất cả đạo đức là nằm trong cái
kỷ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu tranh tự giác của quần chúng
chống bọn bóc lột…Đạo đức giúp xó hội loài người tiến lên cao hơn, thoát
khỏi ách bóc lột lao động” [48, tr 371].
Sự khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các hệ thống đạo đức khác
là ở tính cách mạng và khoa học của nó. Đạo đức cách mạng là đạo đức phản
ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động khác, nó mang bản chất giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam
giành lại độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu
lý tưởng đó phù hợp với quy luật vận động tất yếu của lịch sử xã hội và quy
luật tiến bộ của đạo đức nhân loại; vì nó hướng tới mục tiêu giải phóng triệt
để con người khỏi khổ đau, áp bức bóc lột, bất công trong xã hội hiện thực.
Tính cách mạng và khoa học của đạo đức cách mạng thể hiện trong hệ thống
những nguyên tắc cơ bản, nó không mang tính cố định, giáo điều, mà đòi hỏi
phải được bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách
mạng. ở các giai đoạn khác nhau của cách mạng, trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã bổ sung và phát
triển những nội dung đạo đức cách mạng để phù hợp với thực tiễn.
Thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, Đảng yêu cầu cán bộ phải “Am hiểu con đường chính trị...” [2, tr.528]
và Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến niềm tin cộng sản: “Giữ chủ nghĩa cho
vững”, ý thức giữ “bí mật”, trách nhiệm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và



21

cổ động quần chúng theo Đảng... nhằm chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho
tổng khởi nghĩa thắng lợi. Sau thắng lợi chiến dịch Đông Xuân năm 1947,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang thời kỳ mới - Thời kỳ
cầm cự, khó khăn gian khổ, quyết liệt hơn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, khi
viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần
học tập, nhất là học tập lý luận Mác - Lênin; đề cao chuẩn mực đạo đức “Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; nhấn mạnh lề lối, tác phong làm việc khoa
học... nhằm khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ còn yếu kém về lý luận, tác
phong công tác, đạo đức lối sống. Khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước
vào khôi phục kinh tế, chuẩn bị tiền đề cho chủ nghĩa xã hội, tạo hậu phương
vững chắc để giải phóng miền Nam, trước yêu cầu mới của thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm “Đạo đức
cách mạng”, Người đề cập nhiều đến chủ nghĩa tập thể, đấu tranh loại trừ chủ
nghĩa cá nhân, nhất là các biểu hiện quan liêu, đặc quyền, đặc lợi...
Như vậy, lý luận đạo đức cách mạng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta bổ sung và phát triển theo yêu cầu thực tiễn cách mạng nước ta. Từ “Tư
cách người cách mệnh” đến “Đạo đức cách mạng”, đến “Di chúc” được coi là
những mốc đánh dấu sự phát triển về nội dung đạo đức cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích trên, cho phép tác giả luận văn đưa ra quan niệm về đạo
đức cách mạng như sau:
Đạo đức cách mạng là đạo đức của giai cấp công nhân phản ánh lợi ích cơ bản
của họ trong quá trình vận động của lịch sử tiến lên xã hội XHCH, góp phần
đoàn kết tất cả các lực lượng cách mạng, thủ tiêu tận gốc mọi sự bóc lột và áp
bức, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Đạo đức cách mạng được hiểu với nội dung là tổng hòa các phẩm chất đạo
đức của người cách mạng. Đó là lòng trung thành vô hạn với mục tiêu, lý


22

tưởng cách mạng, chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác, sáng tạo, chủ nghĩa yêu
nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những
phẩm chất đạo đức cá nhân như tính trung thực, tính nguyên tắc, tính khiêm
tốn, tinh thần dũng cảm... Những phẩm chất đạo đức cách mạng trên thống
nhất hữu cơ trong nhân cách của người cách mạng. Đạo đức cách mạng không
ngừng được củng cố và phát triển cùng với sự thắng lợi ngày càng to lớn của
cách mạng Xã hội chủ nghĩa, của phương thức sản xuất Xã hội chủ nghĩa, trở
thành nền đạo đức chung của loài người. Đạo đức vô sản như Ph.Ăngghen nói
là thứ đạo đức: “đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của
tương lai... là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn
một sự tồn tại lâu dài” [40, tr.136].
Đạo đức cộng sản là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
nó khẳng định những giá trị tốt đẹp, đồng thời phê phán, đấu tranh chống lại
những khuynh hướng, tàn dư của đạo đức cũ, những biểu hiện không lành
mạnh, đi ngược lại lợi ích chân chính của con người.
Lênin đã khẳng định: “Đối với chúng ta, đạo đức phải phục tùng lợi ích của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản” [47, tr.368]. Từ đó, Người đã đưa
ra định nghĩa và những nội dung cách mạng của đạo đức cộng sản “Đó là
những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản” [47, tr.369 - 371].
Lênin còn khẳng định vai trò cách mạng của đạo đức cộng sản trong xã hội
hiện tại: “Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc
lột lao động” [47, tr.371].

Bản thân sự nghiệp cách mạng và cuộc đời hoạt động của các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác là những tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cách
mạng.


23

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét một cách sâu sắc về tấm gương đạo đức
của Lênin: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính tính coi khinh sự
xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là
đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân
tộc Châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn
cản nổi” [54, tr.295].
Như vậy, với tính khoa học, cách mạng và cuộc đời của chính những người
sáng lập, đạo đức cộng sản là sự thể hiện triệt để nhất và đầy đủ nhất những
khuynh hướng tiến bộ trong sự phát triển đạo đức của loài người.
Xõy dựng hoàn thiện và phỏt triển đạo đức cỏch mạng cho sinh viờn là một
quỏ trỡnh tự giỏc quỏ trỡnh ắt phải tuõn thủ những nguyờn tắc cơ bản sau đây
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức cách mạng.
Chủ nghĩa tập thể được hình thành từ trong lao động và trong sinh hoạt của
con người. Chính lao động và nhờ lao động mà con người ngày càng phát
triển, hoạt động của con người ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Ngay từ
đầu, trong lao động và sinh hoạt con người đã mang trong mình bản tính xã
hội. Xã hội càng phát triển, tính cộng đồng, tính tập thể càng mở rộng.
Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một giá trị cao đẹp, được coi như
là một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát triển thành chủ nghĩa tập
thể. Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì lý tưởng
cao quý của con người. Đây là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh thần trách
nhiệm, thái độ tôn trọng, tương trợ, giúp đỡ, chăm lo cho nhau nhằm bảo đảm
cho mỗi cá nhân, tập thể cộng đồng và xã hội phát triển.

Chủ nghĩa tập thể vừa là nguyên tắc, vừa là cơ sở và trung tâm của đạo đức
mới, ở đây tập thể vừa là phương tiện, vừa là hình thức để cho các cá nhân
phát triển.
Tính tập thể được hình thành rất sớm trong lịch sử, nhưng tính tập thể đó còn
mang nặng tính tự phát chưa trở thành ý thức của toàn xã hội. Chỉ khi giai cấp


24

vô sản bước lên vũ đài chính trị và chủ nghĩa Mác công khai tuyên bố mục
đích, lý tưởng của mình thì chủ nghĩa tập thể mới có nội dung đầy đủ và trở
thành tư tưởng dẫn đường cho nhân loại. Bởi vì cách mạng Xã hội chủ nghĩa
là cuộc cách mạng triệt để, sự thay đổi lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
dẫn đến sự thay đổi các mặt đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hội đem giá trị của
con người trả lại cho con người, coi con người là mục đích cao nhất. Chủ
nghĩa tập thể coi quan hệ của con người với con người là tình đồng chí, trong
đó sự phát triển tự do cá nhân của mỗi người là điều kiện phát triển tự do cho
mọi người.
Ngày nay, bằng hình thức thích hợp, chủ nghĩa tập thể quy định tính chất hoạt
động của người lao động, con người không chỉ nghĩ về mình mà còn vì người
khác với một tinh thần trách nhiệm chăm sóc lẫn nhau thực hiện mục tiêu
chung phù hợp với tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tập thể luôn có sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các
cá nhân một cách hợp lý là điều quan trọng, mang lại nội dung của chủ nghĩa
tập thể.
Xây dựng ý thức tập thể, cộng đồng đòi hỏi phải cương quyết chống chủ
nghĩa cá nhân. Tập thể phải chăm lo lợi ích chính đáng của cá nhân, nhưng
không tuyệt đối hoá lợi ích của cá nhân, phải đặt lợi ích của cá nhân trong lợi
ích chung của tập thể, cộng đồng, xã hội, tuy nhiên, cũng không được giày
xéo lên lợi ích cá nhân.

Phát huy chủ nghĩa tập thể trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa càng phải chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa tập thể hoàn
toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Lý tưởng của chủ nghĩa tập thể là đem lại
tự do, hạnh phúc cho mọi người trong xã hội. Như Mác đã nói: giải phóng xã
hội là điều kiện để giải phóng cá nhân, xã hội có được giải phóng thì mọi
người mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức cách mạng.


25

Tính quy định sâu xa của lao động đối với sự hình thành đạo đức biểu hiện
trước hết ở vai trò của lao động trong sự hình thành của con người. Trong tác
phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành
người, bằng sự khái quát các tài liệu sinh học, nhân học đương thời,
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng; “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người, và như thế, dến một mức độ mà trên một ý nghĩa nào
đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”(40. tr.641)
Nhưng, lao động không chỉ sáng tạo ra con người với tư cách là con người
sinh vật, nghĩa là làm phát triển bộ não, hoàn thiện các quan năng. Cùng với
diều đó và quan trọng hơn là lao động đã sáng tạo ra con người với tư cách là
con người xã hội có các năng lực, các phẩm chất như: nhận thức, thẩm mỹ,
đạo đức...
C. Mác từng chỉ ra rằng, hành động lịch sử đầu tiên của con người là lao động
thì không bao giờ là hành động đơn lẽ, cá biệt. Trong các quan hệ giữa người
với người, nghĩa là trong các quan hệ xã hội, con người tiên hành lao động để
thỏa mãn nhu cầu sống cũng như các lợi ích của mình. Nhờ có tư duy, con
người nhận ra sự cần thiết của sự tương trợ lẫn nhau trong lao động. Tính tất
yếu này đòi hỏi một sự hy sinh nhất định lợi ích cá nhân cho lợi ích của người
khác, lợi ích của cộng đồng. Nhưng đổi lại lao động của con người có hiệu

quả hơn. Sự tương trợ đó, ban đầu được thể hiện trên cơ sở con người ý thức
được tính tất yếu về mặt lợi ích của sự tương trợ lẫn nhau. Nhưng, sự tương
trợ một khi đã trở thành thói quen, tập quán thì khi đó con người nảy sinh
khát vọng tương trợ tự nguyện. Khát vọng đó chính là tình cảm đạo đức đầu
tiên của con người. Hành vi được điều chỉnh bởi ý thức và khát vọng tương
trợ tự nguyện chính là hành vi đạo đức đầu tiên của con người. Từ lao động
và cùng với lao động, sự tương trợ lẫn nhau được mở ra các lĩnh vực sống của
con người, xã hội. Đó chính là cơ chế của sự hình thành đạo đức. Như vậy,
đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con người. Nó


×