1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) mạnh mẽ, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động cũng theo đó mà thay
đổi theo hướng tích cực. Những chính sách thu hút đầu tư đang ngày càng
được hoàn thiện, theo đó là hàng loạt diện tích đất nông nghiệp bị chuyển đổi
mục đích sử dụng thành đất công nghiệp và dịch vụ. Các khu công nghiệp và
đô thị được hiện ra cũng là thời điểm người nông dân không còn đất canh tác.
Từ đây, vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn được chú trọng hơn bao giờ
hết. Bởi lẽ, chỉ khi chất lượng nguồn lao động nông thôn được cải thiện thì
nguồn lao động mới có thể đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề mới, công
việc mới nói riêng, và của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói
chung.
Để giải quyết vấn đề cấp bách trên, Đảng và Nhà nước đã có những hành
động cụ thể mang tính tích cực. Nghị quyết số 26/2008/NQ-TW của Ban chấp
hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi là Nghị quyết
Tam nông) ra đời ngày 5/8/2008, đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để công
tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai ở nhiều nơi. Cụ thể hơn,
ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành
"Chương trình hành động của Chính phủ", trong đó có nêu mục tiêu: "Tập trung
đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu nhập một
bước cho người nông dân"[1]. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong
Chương trình hành động của Chính phủ là: "Xây dựng Chương trình quốc gia về
đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp
đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các
2
cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ; chuyển nghề; bộ phận nông dân
còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất
nông nghiệp hiện đại. [1]
Và để cụ thể hóa chủ trương trên, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định
1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt đề án đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020 (thường gọi là đề án 1956) với quan điểm :
"Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước,
của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông
thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn”.[15] Đây là văn bản quan trọng giúp các địa phương cũng như các bộ
ban ngành có cơ sở để tiến hành đào tạo nghề, nâng cao trình độ cho lao động
nông thôn.
Sau 3 năm (2010-2012) thực hiện đề án 1956 của Chính phủ, TP Hà Nội
đã có những đánh giá sơ bộ về kết quả triển khai đề án trên địa bàn TP. Tuy đã
đạt được một số mục tiêu, chủ trương chính của đề án, nhưng vẫn còn tồn tại
nhiều vấn đề chưa đạt yêu cầu. Những hạn chế, thiếu sót nói trên do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo ra. Chính vì vậy phải có một nghiên
cứu tổng quan về đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956 trên
địa bàn TP Hà Nội, từ đó đưa ra được những đánh giá, nhìn nhận khách quan,
thực tế, và đề xuất được hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956. Do vậy tôi
đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn
theo đề án 1956 ở TP Hà Nội” để nghiên cứu vấn đề trên. Việc lựa chọn đề
tài nghiên cứu là cần thiết, khách quan và xuất phát từ yêu cầu thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhận được
sự quan tâm của nhiều đề tài nghiên cứu trong cả nước. Cụ thể:
3
Tác giả Tăng Minh Lộc - Phó Cục trưởng Cục kinh tế hợp tác và Phát
triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với bài viết: “Thực
hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Điều chỉnh lại cơ cấu lao
động, cách dạy nghề”, đăng trên báo Nông nghiệp Việt Nam. Tác giả đã đưa
ra những mặt làm được, thành công của Đề án khi một năm đưa vào triển khai
thực hiện, tuy nhiên việc thực hiện Đề án ở khắp các tỉnh, thành phố vẫn còn
nhiều khó khăn, bất cập cần được khắc phục, chấn chỉnh và đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện Đề án trong giai đoạn tiếp theo.
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục dạy
nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, với bài viết: “Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trong thời kỳ hội nhập quốc tế” đăng trên website của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội. Tác giả đã nêu ra một số kết quả bước
đầu trong công tác đào tạo nghề cho lao động ở nước ta và đề cập đến một số
hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông
thôn. Những giải pháp mà tác giả đưa ra còn mang tính khái quát và chung
chung. Bài viết có tính chất tham khảo hữu hiệu cho những nghiên cứu về đào
tạo nghề cho lao động nông thôn ở từng địa phương cụ thể.
Tác giả Nguyễn Văn Đại (2012),Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Luận án tiến sĩ Đại học KTQD. Tác giả đã đánh giá một cách khách quan thực
trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời chỉ ra những giải pháp để
giải quyết khó khăn, và đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong
khu vực này.
Trong thời gian tổ chức thực hiện đề án 1956, từ năm 2010 – 2012, đã có
nhiều các cuộc hội thảo, đưa ra các báo cáo đánh giá tổng kết tình hình thực
hiện đề án trong 3 năm vừa qua. Tại các cuộc hội nghị, hội thảo này, các cơ
quan quản lý Nhà nước đã tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm rất nhiều vấn đề
4
còn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Các địa phương thuộc diện được
cấp chỉ tiêu đào tạo cũng có những báo cáo thường niên với cơ quan cấp trên
về quá trình thực hiện đề án. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào
đánh giá và có những giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn theo đề án 1956 trên địa bàn TP Hà Nội. Do vậy, tác giả đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn theo đề án 1956 ở TP Hà Nội” nhằm đánh giá đúng thực
trạng và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn của TP trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu một số cơ sở khoa học về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, đề tài phân tích và đánh giá một số những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn.
- Đánh giá thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo
đề án 1956 trên địa bàn TP Hà Nội.
Từ những phân tích và đánh giá trên đề xuất các giải pháp đồng bộ nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn TP Hà Nội.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các đối tượng sau:
- Các vấn đề lý luận về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
- Các văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạo việc thực hiện đề án 1956 về
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
- Chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn
TP Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn
theo đề án 1956 trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2012.
5
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê phân tích: phân tích các số liệu thống kê từ sở
Lao động thương binh và xã hội là cơ quan quản lý công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn của TP Hà Nội, và các tư liệu thứ cấp được thu thập từ tài
liệu sách, báo, mạng Internet, tạp chí chuyên ngành. Luận văn cũng khai thác,
sử dụng các tài liệu, số liệu đã được công bố, đồng thời cũng sử dụng các kết
quả nghiên cứu trong các đề tài khoa học trước đó
- Phương pháp chuyên gia : phỏng vấn ý kiến các chuyên gia, cán bộ
chuyên trách quản lý nguồn nhân lực, quản lý hành chính nhà nước ở các cấp
khác nhau về lĩnh vực nghiên cứu.
7. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Về lý luận : Hoàn thiện hệ thống lý luận về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn. Xây dựng quy trình thực hiện, đưa ra một số mục tiêu mới phù
hợp với sự biến đổi của tình hình kinh tế chính trị xã hội thời gian qua.
- Về thực tiễn : làm rõ thực trạng chất lượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn TP Hà Nội, so sánh với yêu cầu về chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn mà đề án hướng đến.
Chỉ ra các tồn tại và nguyên nhân gây ra chúng.
Đề xuất giải pháp giải quyết các vấn đề còn tồn tại.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn ngoài các phần: mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn TP
Hà Nội theo đề án 1956.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn TP Hà Nội theo đề án 1956.
6
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm nghề
Nghề là một khái niệm trừu tượng, khó có một cách hiểu cụ thể và rõ
ràng. Nhiều định nghĩa nghề được đưa ra xong chưa được thống nhất, chẳng
hạn: Nghề là một tập hợp lao động do sự phân công lao động xã hội quy định
mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát
triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do nhu cầu xã hội. Mặc dù
khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng ta có thể
thấy một số nét đặc trưng nhất định:
Một là: Nghề là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi
lặp lại.
Hai là: Nghề là sự phân công là động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
Ba là: Nghề là phương tiện để sinh sống.
Bốn là: Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi
trong xã hội, đòi hỏi phải có quá trình đào tạo nhất định.[8]
Nghề biến đổi một cách mạnh mẽ và gắn chặt với xu hướng phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả sử dụng khái niệm nghề theo giáo
trình Kinh tế Lao động của trường Đại học Kinh tế quốc dân: Nghề là một
dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là
toàn bộ kiến thức và kỹ năng mà một người lao động cần có để thực hiện các
hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định.[9]
7
1.1.2 Khái niệm đào tạo nghề
1.1.2.1 Khái niệm:
Từ khái niệm về nghề ở trên, ta thấy đào tạo nghề hay dạy nghề là hoạt
động dạy và học nhằm giáo dục kỹ thuật sản xuất, trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để họ nắm vững một
nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay
học để làm nghề chuyên môn khác, để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hoàn thành khoá học. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO): "Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có
cho sự thực hiện có năng suất và hiệu quả trong phạm vi một nghề hoặc nhóm
nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và
đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên sâu".[8]
Như vậy, Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được
việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học.[11]
Năng lực là sự tổng hòa của các yếu tố kiến thức, kỹ năng và thái độ góp
phần tạo ra tính hiệu quả trong công việc của mỗi người.
Kiến thức là những điều hiểu biết có được hoặc do từng trải, hoặc nhờ
học tập. Nó gồm 3 yếu tố: kiến thức tổng hợp (những hiểu biết chung về thế
giới), kiến thức chuyên ngành (về một vài lĩnh vực đặc trưng như kế toán, tài
chính,...) và kiến thức đặc thù (những kiến thức đặc trưng mà người lao động
trực tiếp tham gia hoặc được đào tạo).
Kỹ năng của người lao động là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác,
động tác, nghiệp vụ trong quá trình hoàn thành một công việc cụ thể nào đó.
Những kỹ năng sẽ giúp cho người lao động hoàn thành tốt công việc quy định
tính hiệu quả của công việc.
8
Thái độ của người lao động cho thấy cách nhìn nhận của người đó về vai
trò, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình, đam mê đối với công việc, điều này sẽ
được thể hiện qua các hành vi của họ. Một người có kỹ năng tốt nhưng thái độ
không đúng thì hiệu quả đóng góp sẽ không cao.
Như vậy, nói đến năng lực của người lao động là nói đến cả ba yếu tố:
kiến thức, kỹ năng và thái độ. Ở đây, thái độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự
thành công của người lao động với công việc. Một người có thể có kiến thức
sâu rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, vô
trách nhiệm với xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc.
1.1.2.2 Chất lượng đào tạo nghề:
Chất lượng đào tạo nghề là khái niệm đa chiều, không thể trực tiếp đo
đếm và cảm nhận được và luôn luôn biến đổi theo thời gian và theo không
gian.
Chất lượng đào tạo nghề phản ánh trạng thái đào tạo nghề nhất định và
trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể
biết được chất lượng đào tạo nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ
thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng. Chất lượng của công tác đào tạo
nghề sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của người lao động sau
khi học nghề, chính là sản phẩm của công tác đào tạo nghề.
Khái niệm chất lượng đào tạo nghề là để chỉ chất lượng của công tác đào
tạo nghề cho người lao động trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp, theo mục
tiêu và kế hoạch đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau,
biểu hiện một cách tổng hợp nhất ở mức độ hoàn thành của kế hoạch và chấp
nhận của thị trường lao động, của xã hội đối với kết quả đào tạo. Đồng thời
chất lượng đào tạo nghề còn phản ánh cả kết quả đào tạo của các cơ sở đào
tạo nghề và hệ thống đào tạo nghề.
9
1.1.3 Khái niệm lao động nông thôn
1.1.3.1 Nguồn lao động:
Trước hết, chúng ta biết lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện
thực, là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản
phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội. Theo đó, có nhiều cách
hiểu khác nhau về nguồn lao động.
Nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động.
Theo pháp luật lao động Việt Nam hiện hành, độ tuổi lao động của người
Việt Nam được quy định như sau:
Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi.
Nữ từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi.[12]
Như vậy, chúng ta cần phân biệt nguồn lao động với dân số trong độ tuổi
lao động. Cả hai thuật ngữ đều giới hạn độ tuổi lao động theo quy định, nhưng
nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động trong khi dân
số trong độ tuổi lao động còn bao gồm bộ phân dân số trong độ tuổi lao động
nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sức lao động bẩm sinh
hoặc do các nguyên nhân như chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao
động… Do vậy, nguồn lao động là một bộ phận của dân số trong độ tuổi lao
động.
Lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm và những người chưa có việc
làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Từ năm 1996, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam ra quyết định tiến
hành điều tra Lao động - Việc làm hàng năm ở khu vực thành thị và nông thôn
trên phạm vi cả nước. Trong các cuộc điều tra này, khái niệm lực lượng lao
động được sử dụng như sau:
10
“Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) bao gồm
toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc đang tìm
kiếm việc làm. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động) bao gồm những người trong độ
tuổi lao động (nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi; nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55
tuổi) đang có việc làm hoặc không có việc làm (thất nghiệp) nhưng có nhu
cầu làm việc và sẵn sàng làm việc”.[8]
1.1.3.2 Lao động nông thôn:
Trên cơ sở những phân tích trên, khái niệm lao động nông thôn được
hiểu như sau:
Lao động nông thôn gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thuộc khu vực
nông thôn đang làm việc trong các ngành: nông, lâm, ngư nghiệp, công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ và những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động nhưng vì lí do khác nhau hiện tại chưa tham gia hoạt động kinh
tế. Những người trong độ tuổi lao động nông thôn có khả năng lao động
nhưng hiện tại chưa tham gia lao động do các nguyên nhân như đang thất
nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ gia đình, không có nhu cầu làm việc, và
những người thuộc tình trạng khác.[20]
Như vậy, nguồn lao động nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao
động quốc gia, thuộc khu vực nông thôn và là nguồn lực quan trọng trong
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
1.1.3.3 Các đặc điểm của nguồn lao động nông thôn
Do lao động nông thôn sống chủ yếu tham gia sản xuất trong các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp và do tính chất riêng của ngành nông nghiệp nên tác
giả đưa ra một số đặc điểm của người lao động nông thôn như sau:
11
Một là: LĐNT có tính thời vụ, có thời kỳ căng thẳng, có thời kỳ nhàn rỗi.
Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu trong từng thời kỳ; đời sống sản xuất và thu
nhập của lao động nông nghiệp.
Hai là: do tính chất công việc trong sản xuất nông nghiệp mà hình thành
nên tâm lý hay thói quen làm việc một cách không liên tục, thiếu sáng tạo của
LĐNT.
Ba là: LĐNT nước ta vẫn còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông,
sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và thiếu năng động.
Bốn là: LĐNT có kết cấu phức tạp không đồng nhất và có trình độ rất
khác nhau. Hoạt động sản xuất nông nghiệp được tham gia bởi nhiều người ở
nhiều độ tuổi khác nhau trong đó có cả những người ở ngoài độ tuổi lao động.
Năm là: thu nhập của người LĐNT còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, đặc biệt
là tại vùng ven biển, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số.
Sáu là: trình độ của LĐNT thấp khả năng tổ chức sản xuất kém, ngay
thực tế cả những người trong độ tuổi lao động thì trình độ vẫn thấp hơn so với
lao động trong các ngành kinh tế khác.
1.1.4 Khái niệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Kết hợp từ khái niệm về đào tạo nghề và khái niệm LĐNT như đã trình
bày ở trên tác giả xin đưa ra khái niệm về đào tạo nghề cho LĐNT như sau:
Đào tạo nghề cho LĐNT là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền
đạt những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết đối với một nghề nào đó cho
người lao động ở khu vực nông thôn, từ đó tạo ra năng lực cho người lao
động đó có thể thực hiện thành công nghề đã được đào tạo.
1.2 Mục tiêu của đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,
dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo
đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức
12
khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng
tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.[11]
Với định hướng nhằm đáp ứng đòi hỏi sự phát triển kinh tế - xã hội; cùng
với các hệ thống giáo dục, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
hướng đến các mục tiêu chủ yếu, quan trọng trong vấn đề đào tạo nhân lực
cho khu vực kinh tế nông thôn. Theo đánh giá của tác giả, có một số mục tiêu
chính cụ thể hơn như sau:
Một là, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nông thôn về kiến thức và kỹ năng, đáp ứng được nhu cầu thị
trường lao động trong nước, khu vực và trên thế giới.
Hai là, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải tạo sự chuyển biến
trong chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển
kinh tế đất nước.
Ba là, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải trang bị cho người lao
động những kiến thức kỹ năng cần thiết để người lao động có thể tự giải quyết
việc làm, qua đó thúc đẩy phát triển ngành nghề mới ở nông thôn. Giải quyết
việc làm cho người lao động là một trong những chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện
hiện nay, vấn đề giải quyết việc làm còn gặp nhiều khó khăn, đa số lực lượng
lao động hiện nay có kiến thức và chuyên môn thấp, khó có thể tìm kiếm
được việc làm. Để tháo gỡ vấn đề này, phát triển công tác đào tạo nghề sẽ là
một biện pháp hữu hiệu nhằm đào tạo đội ngũ lao động nông thôn, giúp họ có
thể tham gia thị trường lao động. Đối với bộ phận lao động nông thôn, thông
qua các lớp đào tạo nghề sẽ có thể bằng những nghề mình học mà tạo lập
nghề nghiệp ngay trên quê hương mình. Đây không chỉ là vấn đề giải quyết
13
lao động dư thừa tại chỗ mà còn là điều kiện để phát triển ngành nghề mới ở
nông thôn.
Bốn là, tạo nguồn lao động đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động. Ngoài
việc nâng cao chất lượng tay nghề, chuyên môn cho người lao động, đào tạo
nghề còn góp phần nâng cao ý thức, tăng tính tổ chức kỷ luật. Đây là một điều
kiện thuận lợi cho bộ phận nhân lực đã qua đào tạo khi ra nước ngoài lao
động. Vì vậy, phát triển dạy nghề gắn với nhu cầu thị trường lao động, hòa
nhập thị trường lao động quốc tế là góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu lao động khu vực nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, từng
bước đưa kinh tế nước nhà lên một tầm cao mới.
Năm là, nâng cao chất lượng nguồn lao động để thúc đẩy tăng năng suất
lao động, tăng sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế nông thôn, thúc đẩy phát
triển kinh tế nông thôn. Đối với những lao động nông thôn được đào tạo, chắc
chắn họ sẽ thay đổi nhận thức, tư duy về vấn đề nghề nghiệp, lao động. Từ đó
có những bước cải tiến công việc cũng như quá trình sản xuất kinh doanh hiện
tại. Nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn do các lao động có kiến thức và kỹ
năng làm chủ đương nhiên sẽ có nhiều khả năng cạnh tranh hơn, thúc đẩy
phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Sáu là, làm tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội.
Trình độ dân trí thấp, cùng với việc sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ sẽ
dẫn đến một bộ phận lao động nông thôn dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội : ma
túy, cờ bạc, rượu chè... ảnh hưởng đến xã hội nói chung và gia đình, bản thân
họ nói riêng. Vì vậy, nếu lao động nông thôn được qua đào tạo nghề một cách
bài bản và khoa học sẽ giúp họ nâng cao tầm nhận thức của mình và mở ra
cho họ cơ hội tìm kiếm việc làm mới nhằm nâng cao thu nhập, từ đó giúp cho
đời sống kinh tế của họ được ổn định, các chế độ phúc lợi và an sinh sẽ được
đảm bảo và phát triển hơn.
14
1.3 Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn
1.3.1 Xác định nhu cầu đào tạo
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên trong đào tạo nghề cho lao động
nông thôn. Để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của thị trường cũng như đảm
bảo hiệu quả sau đào tạo nghề trong việc giải quyết việc làm và tự tạo việc
làm đối với lao động nông thôn, cần thiết phải xác định nhu cầu đào tạo.
Trước hết, phải hiểu, xác định nhu cầu đào tạo là quá trình thu thập thông
tin và phân tích thông tin, để làm rõ hơn khoảng cách giữa những kiến thức và
kỹ năng lao động hiện có so với mục tiêu cần đạt đến.
Để có thể xác định được nhu cầu đào tạo, một biện pháp phổ biến thường
được sử dụng đó là điều tra khảo sát trên các đối tượng có liên quan. Mà cụ
thể trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, ta cần khảo sát nhu
cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn, nhu
cầu học nghề của người lao động tại địa phương.
Đồng thời, cũng cần quan tâm tới các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng
đến nhu cầu đào tạo, đó là yếu tố:
- Định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
- Các xu thế phát triển của thị trường lao động địa phương, các
ngành nghề đang có tiềm năng phát triển trong tương lai.
- Thế mạnh của địa phương so với các địa phương khác về một
ngành nghề, hay một sản phẩm đặc trưng.
- Các ngành nghề truyền thống hiện có tại địa phương.
Như vậy, xác định nhu cầu đào tạo là một công tác cần thiết để địa
phương, cũng như cơ sở đào tạo nghề định hướng nghề nghiệp cho người lao
động. Đồng thời có những thông tin cần thiết về nhu cầu học nghề của lao
động địa phương về ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo, thời gian đào tạo…
để lập kế hoạch đào tạo phù hợp.
1.3.2 Xây dựng kế hoạch đào tạo
15
Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo
trước và quyết định phương thức để thực hiện mục tiêu đó. Nói cách khác lập
kế hoạch là xác định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi nào làm và
ai làm. Căn cứ thực trạng ban đầu và căn cứ vào mục tiêu cần phải hướng tới
để cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ của tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn. Từ đó tìm ra con đường, biện pháp đạt được mục tiêu.
Vậy có thể hiểu, xây dựng kế hoạch đào tạo là xác định các mục tiêu,
thời gian, biện pháp, cách thức thực hiện và nhân sự thực hiện công tác đào
tạo nghề để đạt được mục tiêu đã đề ra. Dựa trên nhu cầu đào tạo nghề, cần
xác định mục tiêu đào tạo nghề và các yếu tố cần thiết để đảm bảo người lao
động sau khi được đào tạo sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Những yếu tố đảm bảo được vấn đề trên chính là số lượng đào tạo, ngành
nghề đào tạo, đối tượng đào tạo, thời gian đào tạo và trình độ đào tạo của
người lao động.
Xây dựng kế hoạch đào tạo có nhiều loại, nhưng ta có thể chia ra làm 2
loại chính:
- Kế hoạch vĩ mô, là loại kế hoạch mang tính định hướng, tổng quát,
loại kế hoạch này thường do cơ quan quản lý nhà nước tiến hành xây
dựng.
- Kế hoạch vi mô, là loại kế hoạch mang tính cụ thể, chi tiết, loại kế
hoạch này thường do các cơ sở lên kế hoạch để thực hiện.
Các cơ quan quản lý của Nhà nước xây dựng kế hoạch đào tạo dựa vào
các yếu tố về mặt mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch, khả năng đầu tư của ngân sách
trong từng kì thực hiện. Từ đó sẽ có thể đưa ra những chỉ đạo phù hợp cho các
cơ sở đào tạo lập kế hoạch đào tạo cụ thể.
Các cơ sở đào tạo dựa trên các yếu tố về nhu cầu đào tạo đã khảo sát
được, cùng với các điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, chương trình đào tạo,
đội ngũ giảng viên giáo viên sẽ lập kế hoạch chi tiết về tính khả thi của từng
16
lớp học. Bước này cần có sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, cũng
như sự chuẩn bị kĩ lưỡng cả cơ sở đào tạo nghề.
1.3.3 Tổ chức đào tạo
Sau khi đã xây dựng được kế hoạch đào tạo, tổ chức chương trình đào
tạo là nội dung quan trọng thứ ba trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Trong giai đoạn này, bộ phận phụ trách đào tạo thực hiện các nhiệm vụ: tổ
chức các lớp đào tạo bằng các hình thức, phương pháp đào tạo khác nhau.
Phương thức đào tạo rất đa dạng, căn cứ vào nhu cầu, mục tiêu cũng như đặc
điểm của ngành nghề, đối tượng học nghề để lựa chọn và xác định phương
thức đào tạo phù hợp. Đa số các hình thức đào tạo đều sử dụng chung phương
pháp đào tạo trực tiếp, đó là Nghe/đặt câu hỏi kết hợp với Xem xét/thực hành
để áp dụng. Sự khác nhau giữa các lớp học và giữa các cơ sở dạy nghề chính
là ở hình thức đào tạo, một số hình thức đào tạo phổ biến:
- Đào tạo tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề.
- Kèm cặp trong sản xuất, tại địa điểm tập trung trong địa phương:
- Đào tạo tại doanh nghiệp.
Có thể có nhiều mô hình tổ chức dạy nghề khác, trong quá trình thực
hiện cần có sự đánh giá kết quả để điều chỉnh mô hình và nhân rộng những
mô hình có hiệu quả.
Ngoài phương thức đào tạo ra, một số vấn đề quan trọng khác trong khâu
tổ chức đào tạo cũng cần được chú ý, đó là các thiết bị phục vụ cho đào tạo,
kinh phí cho đào tạo, đội ngũ giảng viên, giáo viên, các hình thức theo dõi nội
dung và tiến độ đào tạo, định kỳ gặp gỡ người dạy và người học để nắm bắt
tình hình và các phát sinh, nắm bắt kết quả từng bước trong quá trình đào tạo
để có thể phối hợp và điều chỉnh kịp thời…đảm bảo điều kiện và sự phục vụ
tốt nhất cho quá trình đào tạo.
1.3.4 Quản lý hoạt động đào tạo
Quản lý hoạt động đào tạo chính là quá trình theo dõi, kiểm tra, đánh giá
kết quả hoạt động đào tạo. Kết quả đào tạo phản ánh kiến thức, kỹ năng, thái
độ học viên lĩnh hội được sau đào tạo. Điều này có đáp ứng được mục tiêu
17
đào tạo và các yêu cầu thực tiễn sản xuất và nhu cầu của thị trường hay
không? Và thường được đánh giá một cách toàn diện như sau: sự phản ứng
của người học đối với chương trình đào tạo, các kết quả thu nhận được của
người học, công tác tổ chức của chương trình đào tạo và tỷ lệ học viên sử
dụng nghề đào tạo sau đào tạo, khả năng tạo việc làm sau đào tạo của người
học có giúp họ cải thiện thu nhập, ổn định đời sống hay không?…
Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo có ý nghĩa quan trọng trong
đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Thông qua đó sẽ rút ra được những ưu
điểm và hạn chế của chương trình cũng như hình thức đào tạo để có kinh
nghiệm đào tạo hiệu quả hơn nữa cho các chương trình đào tạo lần sau.
1.4 Các yêu cầu đối với chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn.
1.4.1 Các yêu cầu đối với chất lượng đào tạo nghề.
TP Hà Nội đang trong quá trình đô thị hóa một cách nhanh chóng. Hơn
bao giờ hết, thủ đô cần phải khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế cả
nước; do đó, TP Hà Nội cần phải có những chiến lược cùng với những hướng
đi phù hợp với điều kiện kinh tế của mình. Một trong những vấn đề cần được
quan tâm và giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn chính là
phát triển nguồn nhân lực, tức là chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề nâng
cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động hiện nay. Không thể phủ nhận những
kết quả có được ngày hôm nay nhờ vào nguồn nhân lực dồi dào. Tuy nhiên, với
tình hình phát triển hiện nay của TP Hà Nội cũng như trên cả nước thì chất lượng
nguồn nhân lực cần được quan tâm hơn nữa.
Quá trình phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi chất lượng lao động phải cao
không những để đáp ứng nhu cầu lao động trong nước mà còn để đáp ứng
nhu cầu xuất khẩu lao động, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Xuất khẩu lao
động là chiến lược lâu dài, thường xuyên của các quốc gia phát triển. Đối với
18
nước ta, xuất khẩu lao động không những vừa giải quyết việc làm cho lao
động, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho bản thân gia
đình người lao động, mà còn tiếp thu học tập chuyên môn kỹ thuật hiện đại
của các nước có nền công nghiệp phát triển.
Vấn đề cấp bách hiện nay là phải khẩn trương bồi dưỡng về mọi mặt cho
số công nhân, số lao động chưa qua đào tạo đầy đủ, tăng nhanh về qui mô với
chất lượng cao. Và chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
phải đạt được một số yêu cầu chính như sau:
Một là, công tác chỉ đạo và lập kế hoạch phải sát với thực tế, phù hợp với
các đặc điểm của đối tượng là lao động nông thôn, cụ thể là kết quả công tác
xác định nghề đào tạo và nhu cầu đào tạo.
Hai là, quá trình đào tạo phải chú trọng tính hiệu quả, dạy thật học thật.
Người lao động phải thực sự tiếp thu được kiến thức và kỹ năng sau quá trình
đào tạo, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động.
Ba là, kết quả đào tạo phải hướng tới các mục tiêu của đào tạo nghề cho
lao động nông thôn và sát với các kế hoạch đặt ra. Đào tạo phải gắn liền với
bố trí việc làm một cách bền vững.
1.4.2 Các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn TP Hà Nội.
Để có thể đánh giá công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề
án 1956 có đạt được những yêu cầu trên không, ta có thể dựa vào một số tiêu
chí định lượng như sau:
- Tiêu chí thứ nhất là số lượng học viên đã đào tạo được so với số lượng
trên kế hoạch của TP.
- Tiêu chí thứ hai là số lượng người lao động có việc làm sau quá trình
đào tạo.
19
- Tiêu chí thứ ba là tiêu chí về năng lực của học viên sau khi được đào
tạo.
Để có thể đánh giá được hai tiêu chí trên thì Sở có thể kiểm tra được,
nhưng với tiêu chí thứ ba cần có sự đánh giá của giáo viên tham gia giảng
dạy, của chính bản thân người học nghề, và của những đơn vị nhận lao động
sau đào tạo vào làm việc. Một vài tiêu chí kể trên sẽ đánh giá tương đối chính
xác chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo kỹ năng nghề của người học nghề
đã tốt chưa, có đáp ứng được các yêu cầu của thực tế hay không. Cùng với
việc mở rộng qui mô đào tạo, nâng cao chất lượng dạy nghề là một đòi hỏi
khách quan, cấp bách để thực hiện được mục tiêu của công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn.
20
1.5 Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn
1.5.1 Kinh nghiệm đào tạo nghề tại một số nước trên thế giới
* Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa khá
thành công. Với dân số đông nhất thế giới, lên tới hàng tỉ người, hàng năm có
Trung Quốc có hàng chục triệu người bước vào độ tuổi lao động, một nửa
trong số đó là lao động khu vực nông thôn. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng, tại nhiều vùng nông thôn diện tích
canh tác ngày càng thu hẹp, dẫn tới hàng trăm triệu lao động nông thôn không
có việc làm. Trước tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng công tác
đào tạo nghề cho nông thôn để tạo việc làm cho lao động nông thôn ngay tại
địa phương, các kinh nghiệm chính của Trung Quốc trong đào tạo nghề cho
lao động nông thôn là:
- Đào tạo nhân lực phục vụ cho phát triển công nghiệp hương trấn, thực
hiện phương châm “ly nông bất ly hương”. Đẩy mạnh các doanh nghiệp
hương trấn, sử dụng lao động địa phương. Đặc điểm sử dụng lao động của
doanh nghiệp hương trấn là lấy hiệu quả làm đầu, tự chủ sản xuất kinh doanh,
hoạt động theo cơ chế thị trường, rất coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân
lực. Chính phủ có chính sách hỗ trợ, phát triển hệ thống các lớp, cơ sở dạy
nghề, ở các vùng nông thôn, nhằm đáp ứng cho phát triển doanh nghiệp
hương trấn. Biện pháp đào tạo mà doanh nghiệp hương trấn sử dụng là dùng
các lao động nông thôn có chuyên môn kỹ thuật, dám nghĩ, dám làm, trưởng
thành từ thực tiễn, để đào tạo tay nghề cho những người vừa tốt nghiệp các
cấp trung học phổ thông. Tuy nhiên, khó khăn của doanh nghiệp hương trấn là
thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật cao để có thể nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh
21
nghiệp. Hệ thống đào tạo ở nông thôn chưa cung ứng được đầy đủ lao động
chuyên môn kỹ thuật cao cho doanh nghiệp hương trấn.
- Chính phủ có các chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo, dạy nghề,
tích cực đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho các khu vực đô thị hóa
nhanh để tạo điều kiện cho lao động nông thôn chuyển sang làm việc tại các
doanh nghiệp FDI, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các cụm kinh tế
mở…đây là điều kiện để thu hút nguồn lao động nông thôn đến với các vùng
đô thị hóa nhanh chóng và các ngành công nghiệp dịch vụ đang trên đà phát
triển.
- So với các nước khác, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
Trung Quốc đã thực hiện chính sách kiểm soát được ở mức độ nhất định dòng
di chuyển lao động đến các thành phố lớn, tuy nhiên hạn chế của chính sách
này là làm giảm khả năng cạnh tranh lao động trên phạm vi lớn của thị trường
lao động bao gồm cả thành thị và nông thôn. Do đó, ở mức độ nhất định đã
làm giảm tính kích thích lao động nông thôn tham gia đào tạo học nghề. Để
khắc phục tình trạng này, Chính phủ Trung Quốc có chính sách phát triển các
đô thị loại vừa và nhỏ ở nông thôn để phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch
vụ, thúc đẩy đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị
hóa. Ngoài ra, Chính phủ còn có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
nông thôn hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước để đào tạo lao động chuyên
môn kỹ thuật cao đáp ứng nhu cầu đổi mới lao động trong các trường hợp tiếp
nhận công nghệ sản xuất mới.
* Kinh nghiệm Hàn Quốc
Hàn Quốc là con rồng Châu Á đã đạt được những thành tựu huyền diệu
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Trong các năm 1960-1970,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc thuộc loại cao nhất thế giới, GNP
bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng trung bình 6,7%/năm. Quá trình
22
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đã đặt ra nhiệm vụ lớn cho
Chính phủ Hàn Quốc là phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực nông thôn để
đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Có thể nói, Hàn Quốc
là nước thành công trong việc kết hợp được hài hòa giữa chính sách chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn với chính sách phát triển nguồn nhân lực nông
thôn. Thành tựu trong vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Hàn
Quốc phải kể tới vai trò của việc tập trung đầu tư cho giáo dục, đảm bảo cho
mọi người dân, trong đó có dân cư khu vực nông thôn được giáo dục đào tạo
với quy mô lớn, ở tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế.
Trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị
hóa, Chính phủ Hàn Quốc phát triển hệ thống đào tạo, thu hút lao động nông
thôn vào đào tạo các ngành nghề hàm lượng lao động cao như dệt, may, giày
da, đồ chơi, công nghiệp chế biến, nhà hàng, … Các thời kì sau, công nghiệp
phát triển mạnh mẽ , lao động nông thôn được đào tạo với quy mô lớn trong
các lĩnh vực sắt thép, hóa chất, đóng tàu, xây dựng công nghiệp, … Sự phát
triển mạnh của các ngành công nghiệp xuất khẩu đã giải quyết được việc làm
cho lao động nông thôn mất việc làm trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động.
Chính phủ Hàn Quốc có chính sách khuyến khích các công ty tham gia
đào tạo nghề, hướng dẫn thực tập nghề nghiệp cho người lao động, đặc biệt là
lao động nông thôn tham gia học nghề ban đầu, để đảm bảo nguồn cung ứng
cho nhu cầu của các ngành công nghiệp có tốc độ phát triển nhanh. Chính phủ
cũng khuyến khích phát triển hình thức tín dụng, giảm thuế và trợ cấp, nhằm
tạo điều kiện cho lao động nghèo, lao động nông thôn có thể tham gia các
khóa đào tạ học nghề, học đại học. Trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp hướng vào phát triển các ngành kinh tế có hàm lượng tri thức và công
nghệ cao hơn, Hàn Quốc đã có chính sách tăng cường quy mô giáo dục phổ
23
thông kể cả ở nông thôn, để đảm bảo cơ sở cho đào tạo nhân lực trình độ cao,
đáp ứng giai đoạn phát triển của các ngành kinh tế. Trong đó đặc biệt là nhân
lực ngành công nghệ thông tin, dược phẩm, chế tạo ôtô, điện tử cao cấp, viễn
thông, chế tạo máy móc chính xác, tự động hóa, công nghệ sinh học….[20]
1.5.2 Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở một số địa
phương
Những năm qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được
quan tâm chú trọng ở khắp các địa phương trên cả nước. Theo đó, nhiều địa
phương đã có những mô hình đào tạo nghề hiệu quả và đáng được học hỏi,
nhân rộng.
Thứ nhất, mô hình liên kết “3 nhà” trong đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở tỉnh Nam Định
Mô hình liên kết “3 nhà” (nhà nông - người lao động, nhà trường - cơ sở
đào tạo, nhà sử dụng lao động - doanh nghiệp) được xem là hướng đi hiệu quả
để Nam Định thực hiện được mục tiêu dạy nghề gắn với việc làm theo "Đề án
đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020".
Được đánh giá là một trong những đơn vị triển khai thành công đề án dạy
nghề của tỉnh Nam Định, ngay khi bắt đầu thực hiện, huyện Hải Hậu đã khảo
sát nhu cầu học nghề của bà con. Kết quả cho thấy người lao động ở các xã
ven biển muốn học nghề dệt lưới; dân ở các xã vùng nội đồng muốn học dệt
cói xuất khẩu, móc sợi, trồng nấm, nghề mộc... Riêng nghề may, tất cả các xã,
thị trấn trong huyện đều có lao động có nhu cầu học. do đặc thù lao động ở
khu vực nông thôn đa dạng về đối tượng, độ tuổi, khả năng tiếp thu, điều kiện
học tập khác nhau nên việc tổ chức dạy nghề theo hình thức tập trung sẽ
không phát huy hiệu quả. Hơn nữa muốn kéo nông dân đi học, không chỉ
tuyên truyền kêu gọi mà điều quan trọng là phải có mô hình điểm hiệu quả
cho người dân nhìn, có thế họ mới hăng hái tham gia học nghề. Nếu dạy nghề
24
mà không tạo thu nhập cho nông dân thì không đầy một tuần bà con sẽ nghỉ
hết.
Để khắc phục những "cái khó" trên, Trung tâm Dạy nghề huyện Hải Hậu
đã xây dựng chương trình đào tạo gồm 12 nghề, trong đó: hàn điện, máy công
nghiệp, đan, thêu, móc là các nghề thị trường lao động có nhu cầu cao; tổ
chức dạy nghề ngay tại địa bàn khu dân cư, dạy nghề gắn với sản xuất, vừa
học vừa làm, đồng thời xây dựng đội ngũ cộng tác viên ở địa phương là
những người có tay nghề, nghiệp vụ sư phạm làm công tác tuyên truyền nghề,
dạy nghề. Nhờ đó, hầu hết học viên sau khi tốt nghiệp đều được các doanh
nghiệp, tổ hợp sản xuất trên địa bàn tiếp nhận vào làm việc. Một số học viên
sau khi được học nghề còn mạnh dạn vay vốn đầu tư mở cơ sở sản xuất, tạo
việc làm cho nhiều lao động khác.
Với phương châm đào tạo nghề theo hướng "cầm tay chỉ việc", "học đi
đôi với hành", các doanh nghiệp trên địa bàn đã tạo cho học viên tay nghề
vững, tiếp cận dễ dàng với công việc. Cùng với việc dạy nghề, những năm
qua các doanh nghiệp đã huy động thêm vốn của Ngân hàng Chính sách xã
hội và nhiều "kênh" khác đầu tư mở rộng nhà xưởng, tổ chức sản xuất thêm
các sản phẩm may mặc bên cạnh sản phẩm mây tre đan truyền thống. Việc
làm này đã góp phần tạo thêm việc làm cho lao động nông nhàn tại 18 xã
trong huyện. Hoạt động thu mua bẹ chuối, bèo tây của doanh nghiệp cũng
gián tiếp tạo việc làm cho nhiều lao động nông thôn khác trên địa bàn.[6]
Có thể thấy, sự phối hợp nhịp nhàng “3 nhà” trong đào tạo nghề cho lao
động nông thôn như trên thực sự đem lại hiệu quả đào tạo rất cao. Đây là một
mô hình kinh nghiệm cho các địa phương khác áp dụng rất hữu ích và khả
quan. Và các cách tỉnh Nam Định thực hiện trong công tác đào tạo nghề rất
đáng học hỏi để phát triển hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại
TP Hà Nội.
25
Thứ hai, mô hình dạy nghề gắn với thực hành tại chỗ ở tỉnh Bắc Kạn
Ở tỉnh Bắc Kạn các lớp nghề đào tạo chủ yếu là kỹ thuật trồng nấm,
trồng rau, sản xuất phân vi sinh, các loại cây ăn quả, sửa chữa máy nông
nghiệp. Tại đây học viên được tham gia học lý thuyết và thực hành tại chỗ.
Chẳng hạn, tại thôn Pá Danh, xã Huyền Tụng (thị xã Bắc Kạn) đang triển
khai lớp sản xuất phân vi sinh với 30 học viên tham dự. Học xong lý thuyết,
mỗi học viên đóng góp nguyên, vật liệu thực hành tại chỗ. Phương pháp ủ
phân vi sinh rất đơn giản, chủ yếu dùng các đồ phế thải bỏ đi, không những
tiết kiệm chi phí mua phân bón hoá học mà còn giúp cải tạo đất, đảm bảo sức
khoẻ cho người sử dụng, hạn chế tác động xấu đến môi trường.[10]
Đây là một mô hình gần gũi và rất phù hợp để áp dụng thực hiện trong
đào tạo nghề cho lao động nông thôn TP Hà Nội.
Thứ ba, mô hình đào tạo nghề theo địa chỉ ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa
Bình
Huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình hiện có hơn 21 nghìn người trong độ tuổi
lao động. Trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chiếm hơn 30%. Hiện
nay, huyện có 2 Khu Công nghiệp mới thành lập và trên 60 doanh nghiệp đã
và đang hoạt động với nhiều ngành nghề khác nhau.
Xuất phát từ thực tế đó, đào tạo nghề, cung ứng lao động cho các doanh
nghiệp ngay trên địa bàn nhằm giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động
đang là mục tiêu mà huyện hướng đến. Để thực hiện được mục tiêu đó, từ
nhiều năm nay huyện đã xác định gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm,
trong đó, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề theo địa chỉ.
Ngay từ đầu năm, huyện đã triển khai điều tra, khảo sát tại 85 thôn, xóm
để nắm được số liệu cụ thể về người lao động, đồng thời, tiến hành điều tra, rà
soát nhu cầu sử dụng lao động tại 42 doanh nghiệp đang hoạt động trên địa
bàn. Qua đó, nắm được chính xác nhu cầu lao động của các DN để có kế
hoạch đào tạo cụ thể. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả dạy nghề, đặc biệt, để