Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Cải Tiến Chương Trình Giảng Dạy Môn Học Giáo Dục Thể Chất Ở Trường Đại Học Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.32 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----  ----

TRẦN TUẤN HẢI

Tên đề tài:
“CẢI TIẾN CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN HỌC
GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG”

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----  ----

TRẦN TUẤN HẢI

Tên đề tài:
“CẢI TIẾN CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN HỌC
GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG”


Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số : 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Hiệp


Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Trần Tuấn Hải


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn đến người
hướng dẫn khoa học PGS – TS Nguyễn Hiệp, người đã rất tận tình, chu đáo
và đầy trách nhiệm trong quá trình hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy cô, các phòng, khoa Trường Đại học
TDTT Thành Phố Hồ Chí Minh. Trân trọng cảm ơn Ban giám Hiệu, Thầy cô
giáo là giảng viên Giáo dục thể chất, các em sinh viên trường Đại học Cửu
Long – Vĩnh Long đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 9 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn


Trần Tuấn Hải


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Thuật ngữ tiếng Việt

ANQP

An ninh quốc phòng

CLB TDTT

Câu lạc bộ thể dục thể thao

ĐH

Đại học

ĐH TDTT TPHCM

Đại học Thể dục thể thao thành phố Hồ Chí Minh

GD & ĐT


Giáo duc và đào tạo

GDQP-TC

Giáo dục quốc phòng và thể chất

GDTC

Giáo dục thể chất

HSSV

Học sinh sinh viên

LVĐ

Lượng vận động

NXB

Nhà xuất bản

PTTH

Phổ thông trung học

RLTT

Rèn luyện thân thể


SV

Sinh viên

TDTT

Thể dục thể thao

VĐV

Vận động viên


DANH MỤC CÁC BẢNG

TT

TÊN BIỂU BẢNG

1

Bảng 3.1: Thực trạng đội ngũ giáo viên Trường Đại học Cửu
Long.

2

Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả phỏng vấn về thực trạng đội ngũ
giáo viên.


3

Bảng 3.3: Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác GDTC
của trường đại học Cửu Long.

4

Bảng 3.4.Bảng tổng hợp phiếu phỏng vấn về thực trạng cơ sở
vật chất

5

Bảng 3.5 Nội dung phân bổ chương trình học GDTC của
Trường Đại Học Cửu Long.

6

Bảng 3.6. Bảng tổng hợp phiếu phỏng vấn nội dung chương
trình giảng dạy GDTC.

Trang
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce

source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found


7


Bảng 3.7: Kết quả học GDTC của sinh viên năm nhất, năm hai
Trường Đại học Cửu Long:

8

Bảng 3.8: Kết quả kiểm tra thể lực sinh viên nam – nữ lứa tuổi
18 – 19 (năm I, II) Trường Đại học Cửu Long – Vĩnh Long.

9

Bảng 3.9: Tiêu chuẩn luyện thân thể theo Quyết đính số
53/2008/Đ-BGDĐT của nam và nữ lứa tuổi 17 – 20 tuổi

10 Bảng 3.10 kết quả phỏng vấn chương trình thực nghiệm.

11 Bảng 3. 11 Mẫu cấu trúc của giáo án củ và mới.

12

Bảng 3.12: Kết quả phỏng vấn các tiêu chí đánh giá hiệu quả
ứng dụng cải tiến.

Bảng 3.13. Kết quả phỏng vấn sự hứng thú, động cơ, thái độ
13 học tập của sinh viên Trường Đại học Cửu Long – Vĩnh Long
trước và sau thực nghiệm.
14 Bảng 3.14. Kết quả học tập môn GDTC của sinh viên Trường
Đại học Cửu Long – Vĩnh Long trước và sau thực nghiệm của

Error:

Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found
62
Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce
source
not
found

Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Refere
nce


source
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
not
found
Error:
Refere
Bảng 3.15. Kết quả kiểm tra thể lực sinh viên nam Trường Đại nce
15
source
học Cửu Long – Vĩnh Long ở 2 nhóm trước thực nghiệm
not
found
Error:
Refere
Bảng 3.16. Kết quả kiểm tra thể lực sinh viên nữ Trường Đại nce
16
source
học Cửu Long – Vĩnh Long ở 2 nhóm trước thực nghiệm
not

found
Bảng 3.17. Kết quả kiểm tra thể lực của sinh viên nữ Trường
Sau
17 Đại học Cửu Long – Vĩnh Long ở 2 nhóm sau thời gian cải tiến
79
chương trình
Bảng 3.18. Kết quả kiểm tra thể lực của sinh viên nam Trường
18 Đại học Cửu Long – Vĩnh Long ở 2 nhóm sau thời gian ứng
dụng chương trình cải tiên

Sau
79


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
TT

TÊN BIỂU ĐỒ

Error:
Refere
nce
source
not
found
Error:
Biểu đồ 3.2: Kết quả phỏng vấn sự hứng thú, động cơ, thái độ học
tập của sinh viên Trường Đại học Cửu Long – Vĩnh Long và sau thực Refere
nce
nghiệm

source
not
found
Error:
Biểu đồ 3.3: Kết quả học tập nội khóa trước và sau thực nghiệm của
Refere
2 nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
nce
source
not
found
Error:
Biểu đồ 3.4: Kết quả kiểm tra thể lực sinh viên nam Trường Đại học
Refere
Cửu Long ở 2 nhóm trước thực nghiệm
nce
source
not
found
Error:
Biểu đồ 3.5 : Kết quả kiểm tra thể lực sinh viên nữ Trường Đại học
Refere
Cửu Long – Vĩnh Long ở 2 nhóm trước thực nghiệm.
nce
source
not
found
Biểu đồ 3.1: Kết quả học tập của sinh viên năm I và năm II

1


2

3

4

5

Trang



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đã từ lâu Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của Giáo dục thể
chất và coi đó là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường
xã hội chủ nghĩa, góp phần đào tạo ra những con người mới phát triển toàn
diện có đầy đủ Trí tuệ - Thể lực - Đạo đức phục vụ cho công việc Công
nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước
Giáo dục thể chất cho học sinh - sinh viên là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhằm bồi dưỡng sức khỏe, tinh thần, trí thông minh . . . thành một
con người mới hoàn thiện trong tư thế vững vàng để bước vào cuộc sống.
Giáo dục thể chất là một tiền đề quan trọng trong mọi hoạt động học tập, sinh
hoạt của học sinh, thông qua đó rèn luyện cho học sinh về đạo đức, ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tập thể tác phong công nghiệp nhằm tạo những con
người mới trong tư thế sẵn sàng bước vào thế kỷ của khoa học hiện đại.
Ngày 17.04.1993 Liên Bộ Giáo dục - Đào tạo, Tổng cục Thể dục thể
thao đã ra Thông tư Liên Bộ 04/04/GDĐT - Thể dục thể thao về việc đẩy

mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong học sinh - sinh viên,
phát động phong trào luyện tập rộng khắp trong nhà trường các cấp với mục
tiêu: "Mỗi học sinh - sinh viên biết chơi một môn thể thao", đưa hình thức
hoạt động ngoại khoá thể dục thể thao vào trong trường học, nâng cao chất
lượng phong trào Hội Khoẻ Phù Đổng ở cơ sở và sức khoẻ của học sinh –
sinh viên.
Giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp cũng giữ vai trò quan trọng
trong chiến lược phát triển thể dục thể thao. Ngày 24/ 3/ 1994 Ban bí thư
Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 36 CT/ TW về công tác giáo dục thể dục thể
thao trong giai đoạn mới: “Xây dựng chiến lược phát triển con người là quốc
sách hàng đầu để đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển cả về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức”.


2

Ngày 03/05/2001 theo quyết định số 14/2001 QĐ-BGD&ĐT ban hành
quy chế về các hình thức họat động giáo dục thể chất trong trường học bao
gồm: Hoạt động thể dục thể thao (TDTT) nội khóa và hoạt động TDTT ngoại
khóa theo kế họach của nhà trường.
Trong chỉ thị số 133/TTg của Thủ tương Chính phủ về xây dụng quy
hoạch và phát triển ngành TDTT nêu rõ: “Bộ Giáo dục và Đạo tạo cần đặc
biệt coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà trường, cải tiến nội dung
giảng dạy TDTT nội, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho
học sinh ở các cấp. Có quy chế bắt buộc các trường nhất là các trường đại
học phải có sân bãi, phòng tập TDTT…mục tiêu cơ bản của công tác TDTT
trong trường học là bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho học sinh, sinh viên, góp
phần cải tạo đời sống, xây dựng nhân cách, nâng cao dân trí và phát triển thể
lực cho thế hệ trẻ, sẳn sàng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đật nước. Chỉ thị 133/TTg của Thủ tướng Chính phủ 21/04/1997, về kế hoạch

phát triển sự nghiệp TDTT ngành GD & ĐT thời kỳ 1996 – 2000 và định
hướng đến năm 2010.
Do chương trình đào tạo Giáo dục thể chất của trường chưa đủ so với
nhu cầu hiên nay, số tiết học nội khóa thể dục còn ít (75 tiết ở khối Cao Đẳng
và ở bật Đại học). Sinh viên được tham gia học tập môn thể chất ngắn gọn
vào những năm đầu, nên sức khỏe và thể lực của sinh viên phát triển không
đồng điều và thường bị giảm sút trong quá trình học, nhất là ở năm học cuối,
làm ảnh hưởng đến việc học tập các em. Đồng thời các em học sinh – sinh
viên không có cơ hội bộc lộ năng khiếu, khả năng của mình.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác giáo dục thể chất, cần phải cải
tiến chương trình giảng dạy . Nếu được như vậy thì ngoài nền tảng thể lực cơ
bản được trang bị trong giờ học thể dục chính khóa, các em còn có thể biết thêm
và chơi được một số môn thể thao, từ đó sức khỏe sẽ được tăng cường hơn,
ngoài ra còn có thể phát triển thêm môt số kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.


3

Trường Đại học Cửu Long được thành lập theo Quyết định số
04/2000/QĐ-TTg ngày 05 tháng 1 năm 2000 của Thủ tướng chính phủ.
Trường Đại học Cửu Long là trường đại học ngoài công lập đầu tiên của khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long, qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển
không ngừng lớn mạnh, thương hiệu của trường được xã hội đón nhận.
Trường Đại học Cửu Long là một trong số ít các trường đại học ngoài công
lập trên cả nước có cơ sở vật chất khang trang, hiện đại với diện tích hơn 22
hecta..., trường có chức năng đào tạo con người trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, đào tạo các tri thức trẻ, thế hệ những nhân tài để đóng góp vào sự thành
công chung của đất nước. Trong những năm gần đây, điều kiện cơ sở vật chất
của trường đã có những cải thiện đáng kể, đồng thời lực lượng giảng viên,
huấn luyện viên cũng được đào tạo chính quy, có khả năng đảm đương được

việc giảng dạy những môn thể thao phổ biến. Tìm hiểu và xác định nhu cầu
tập luyện của học sinh - sinh viên ở những môn thể thao cụ thể cũng là một
trong những cơ sở để các hoạt động ngoại khoá về thể dục thể thao thu được
kết quả tốt hơn.
Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :
“Cải tiến chương trình giảng dạy môn học giáo dục thể chất ở Trường
Đại học Cửu Long”
Mục đích nghiên cứu
Cải tiến chương trình môn học giáo dục thể chất ở Trường Đại học
Cửu Long
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất hiện tại
của Trường Đại Học Cửu Long.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu cải tiến chương trình giáo dục thể chất của
Trường Đại Học Cửu Long.
Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiểu quả việc cải tiến chương trình giáo dục thể
chất tại Trường Đại học Cửu Long.


4

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện.
Hồ Chí Minh được thế giới công nhận danh hiệu anh hùng giải phóng dân
tộc và danh nhân văn hóa. Lúc sinh thời, Bác luôn quan tâm đến việc rèn
luyện thể dục coi đó là phương pháp hữu hiệu để nâng cao được sức khỏe
nhằm hoàn thành tốt công việc và có sức khỏe để chiến đấu. Có thể nói, Bác
là hiện thân của sự đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, là người đặt nền móng
đầu tiên xây dựng ngành Thể Dục Thể Thao Việt Nam và phát triển phong

trào tập luyện Thể dục thể thao (TDTT) nước nhà. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ đầy khó khăn , gian khổ, Bác vẫn không quên
tập luyện TDTT hằng ngày, và kêu gọi, động viên mọi người tham gia rèn
luyện sức khỏe. Cuộc đời của Bác trải qua nhiều phong ba bão tố, được tiếp
xúc với nhiều người, đến được nhiều quốc gia, Bác đã đúc kết và nhìn nhận
được vai trò của TDTT đối với con người là rất quan trọng. Tháng 03 năm
1941 trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh, Bác đã nêu rõ: “
Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân, làm cho nòi giống thêm
khỏe mạnh”
Vào cuối tháng 3/1946 Người ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “Giữ
gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe
mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một
phần, mỗi một người khỏe mạnh, tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe. . .
Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ai cũng gắng tập thể dục. Tự
tôi ngày nào cũng tập” lời lẽ ngắn ngọn, xúc tích nhưngchứa đựng những
quan điểm, chủ trương, đường lối cũng như tình cảm của người với đất nước
và đặt cơ sở nền tảng cho công tác thể dục thể thao nước nhà. Với lời kêu gọi


5

của Bác, đã dấy lên phong trào “ Khỏe vì nước” tại nhiều nơi trong cả nước,
người người cùng nhau ra sức tập luyện thể dục thể thao.
Tháng 03/1960, Bác đã tự tay viết thư giử hội nghị cán bộ TDTT toàn
miền Bắc. Người nêu rằng: “ Muốn lao động sản xuất tốt thì cần có sức khỏe,
muốn có sức khỏe thì nên thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy,
chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời
Bác còn căn dặn: “ Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu
nghiệp vụ và hăng hái công tác” nhằm phục vụ sức khỏe cho nhân dân. Nhoài
ra ngưới còn nhận định vai trò của thể dục thể thao trong xã hội: “ là một

công tác trong những công tác cách mạng khác”.
Bác Hồ rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe của nhân dân, rèn luyện sức
khỏe đó là bổn phận, vừa là trách nhiệm của mỗi người dân yêu nước. Tháng
3 năm 1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục.
Người dạy “giữ gìn dân chủ, xây dựng nhà nước, gây đời sống mới, việc gì
cũng cần có sức khỏe mới thành công”.
Ngày 31 tháng 3 năm 1960 Bác Hồ tự tay viết thư gởi Hội nghị cán bộ
thể dục thể thao miền Bắc. Người dạy: “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác
và học tập tốt thì cần có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì nên thường xuyên
tập luyện thể dục thể thao”.
Trong các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Người rất coi trọng
đến công tác đối ngoại của TDTT đó là phương tiện quan trọng để giao lưu,
đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Những tư tương
của Bác luôn soi sáng cho xã hội Việt Nam nói chung và ngành thể dục thể
thao nói riêng tạo nên bước đi vững chắc trên đà phát triển bền vững, ổn định,
góp phần đưa nền thể thao nước nhà hòa nhập với thế giới.
Hồ Chủ Tịch là ngọn cờ đầu những quan điểm, đường lối về thể dục.
Lời lẽ rất ngắn gọn, dễ hiểu nhưng khái quát cả quan điểm, chủ trương, đường


6

lối, phương châm và đặt nền tảng cho lý luận và thực tiễn công tác thể dục thể
thao của nước nhà thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.
1.2. Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục
thể chất trong trường học:
Đảng và Nhà Nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề sức khỏe cho nhân
dân. Mọi người dân đều khỏe thì năng suất xã hội sẽ nâng lên, đời sống tinh
thần vật chất được cải thiện, tạo nên nguồn hạnh phúc to lớn cho mỗi người
và chung cho cả dân tộc. Sức khỏe không chỉ nằm trong quyền sở hữu cá

nhân mà ngày nay được coi như tài sản quốc gia. Nhất là đối với thế hệ trẻ,
bởi vì các em hôm nay là tương lai đất nước mai sau. Và sức khỏe được hình
thành trên cơ sở quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước về công tác giáo
dục thể chất. Chúng ta cùng khái quát lại tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn
kiện của Đảng, Nhà nước ta bàn về giáo dục thể chất.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, tùy vào nhiệm vụ và
tình hình cụ thể, Đảng ta luôn có những Chỉ thị, Nghị quyết lãnh đạo kịp thời,
nhằm đẩy mạnh, phát triển phong trào thể dục thể thao. Hàng loạt những chỉ
thị về công tác thể dục thể thao được ban hành như chỉ thị 106/ CT- TW
(02/10 /1958), chỉ thị 181/CT-TW (13/ 01/1960), chỉ thị số 5 / TTG (07/ 01/
1966 ), chỉ thị 180/CT-TW (26/08/1970), chỉ thị 227/CT-TW (18/11/1975)
đều nhấn mạnh vai trò thể dục thể thao như một nhiệm vụ cách mạng, trong
đó chủ yếu là chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất cho nhân dân, nhất là
thanh thiếu niên học sinh – sinh viên.
Nghị quyết TW4 khóa VII nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, trong đó Đức - Trí - Thể - Mỹ được coi
là những vấn đề quan trọng nhằm giáo dục hình thành nhân cách học sinh, sinh
viên - những người chủ nhân tương lai của đất nước, có phẩm chất cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.


7

Chỉ thị 36 CT/TW ngày 24/03/1994 của Ban bí thư Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam nêu rõ “ mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác thể dục thể
thao là hình thành nền thể dục thể thao phát triển và tiến bộ, góp phần nâng
cao sức khỏe, thể lực đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân và
phấn đấu đạt được vị trí xứng đáng trong hoạt động thể thao quốc tế, trước
hết là khu vực Đông Nam Á”.
Ngày 23/10/2002 Ban bí thư Trung ương Đảng đã đề ra chỉ thị 17CT/

TW về phát triển thể dục thể thao đến 2010 như sau: Sau 8 năm thực hiện Chỉ
thị 36CT/ TW của Ban bí thư Trung ương Đảng khóa VII và 4 năm thực hiện
thông tư 03 - TT/ TW của bộ chính trị khóa VII. Sự nghiệp thể dục thể thao
nước ta đã có bước phát triển đáng khích lệ, góp phần tích cực vào thành tựu
chung của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Thể dục thể thao
quần chúng được mở rộng trong các đối tượng và địa bàn với nhiều hình thức
phong phú đã có 13% dân số thường xuyên tập thể dục thể thao. Thể dục thể
thao trường học được chú trọng hơn. Thành tích các môn thể thao ngày càng
được nâng cao, nhiều môn đạt thứ hạng cao tại các giải khu vực và quốc tế.
Những năm đầu thế kỷ XXI, Ban Bí thư Trung Ương Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã ban hành chỉ thị 17/CT-TW về phát triển TDTT đến năm 2010,
trong đó nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học. Tiến tới bảo
đảm mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục
đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao giáo dục thể chất, xem đây là một
tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc gia”.
Xuất phát từ các quan điểm và cũng nhằm mục đích hành động của
ngành thể dục thể thao có thể kết luận rằng: Ngay từ lúc chưa có chính quyền
đến khi lãnh đạo toàn dân đánh giặc ngoại xâm giành được độc lập và thống
nhất đất nước . Hiện nay đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa. Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta trước sau như một rất quan


8

tâm đến việc chăm lo sức khỏe của nhân dân “sự cường tráng về thể chất là
nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tái sản xuất
trí tuệ và vật chất cho xã hội”. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm
của toàn xã hội nói chung, của ngành thể dục thể thao nói riêng. Đó cũng là mục
tiêu cơ bản, quan trọng nhất của giáo dục thể dục thể thao nước ta.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tăng cường thể chất và bảo vệ sức khỏe

là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng đối với Đảng và nhà nước ta trong việc
phát triển công tác thể dục thể thao trong thời kỳ đổi mới. Điều này thể hiện
qua các văn bản của Đảng và nhà nước.
Thể dục thể thao có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ, tăng cường sức
khỏe, phát triển và hoàn thiện thể chất cho con người, góp phần tích cực vào
quá trình bồi dưỡng và phát triển nguồn nhận lực, xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần phong phú, lối sống lành mạnh nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh”.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của vai trò sức khỏe con người
đối với vận mệnh đất nước, cũng như đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn
chú trọng đến việc tăng cường, mở rộng các hoạt động TDTT và đặc biệt là
công tác giáo dục thể chất cho thanh niên.
Đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành
ngay từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung,
hoàn chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và
luôn luôn là kim chỉ nam cho sự phát triển của ngành TDTT nước nhà.
Ngay từ những năm 1941, chương trình Việt Minh đã chỉ rõ: “Cần
khuyến khích nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày càng thêm
mạnh”.


9

Cách mạng tháng tám thành công, sau khi giành được chính quyền,
ngày 31 tháng giêng năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14,
thành lập Nha Thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành
TDTT ngày nay. [16]
Tháng 3 năm 1946, trong lúc chính quyền cách mạng còn non trẻ đang
gặp vô vàn khó khăn, trong bài báo “Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục”, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã viết : “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một người dân
yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một người dân khỏe
mạnh, tức là góp phần cho cả nước khỏe mạnh. Vậy nên tập luyện thể dục,
bồi bổ sức khỏe, tức là góp phần cho cả nước khỏe mạnh. Vậy nên luyện tập
thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người dân yêu nước. Việc
đó không tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng
làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì
khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy là sức khỏe. Dân cường thì
Nước thịnh. Tôi mong đồng bào ai cũng cố gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào
cũng tập.”[16]
Hưởng ứng lời khuyên của Bác, phong trào thể dục với khẩu hiệu
“Khỏe Vì Nước” đã nhanh chóng phát triển khắp thành thị, nông thôn. Kể từ
đó đến nay, lời khuyên tập thể dục của Bác Hồ vẫn giữ nguyên giá trị và trở
thành cương lĩnh hành động của TDTT nước ta.
Đảng ta luôn khẳng định rõ vị trí quan trọng của TDTT trong chính
sách kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người tạo ra
sức mạnh và động lực phát triển đất nước qua các chỉ thị nghị quyết từ trước
đến nay:
- Chỉ thị 112/CT 1989 của hội đồng Bộ trưởng về công tác TDTT:
“...đối với học sinh sinh viên, trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc


10

việc giảng dạy và học môn thể dục theo chương trình quy định, có biện pháp
tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập luyện và thể thao ngoại khóa ngoài giờ
học.” [4]
- Hiến pháp năm 1992 nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
điều 41 ghi rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy

định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong Trường học, khuyến khích và
giúp đỡ phát triển các thành tích TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo các điều
kiện để không ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng
hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao”. [9]
- Bộ giáo dục và đào tạo trong quyết định 931/QĐ-29/4/1993 ban hành
quy chế về công tác giáo dục thể chất trong nhà Trường các cấp (điều 1
chương I; điều 2, 5, 6 chương II; điều 8 chương III). [20]
- Chỉ thị 36/CT/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn mới nêu rõ:
“Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo
viên TDTT cho Trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở
vật chất để thực hiện chế độ giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các Trường
học...”.
- Ngày 7/3/1995 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 133/TTg về việc xây
dựng quy hoạch phát triển ngành TDTT và giáo dục đào tạo. Về giáo dục thể
chất Trường học đã ghi rõ: “...Bộ giáo dục và đào tạo cần đặc biệt coi trọng
việc giáo dục thể chất trong nhà Trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT
nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn về rèn luyện thân thể cho học sinh
các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với công tác giáo dục thể chất trong các
nhà Trường...”[5]
- Pháp lệnh thể dục thể thao được ủy ban thường vụ quốc hội khóa X
thông qua ngày 25 tháng 9 năm 2000, tại điều 14 chương III quy định “Thể
dục thể thao trường học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt động ngoại khóa


11

cho người học. Giáo dục thể chất trong trường học là chế độ giáo dục thể
chất bắt buộc, nhằm nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng nhu cầu giáo dục toàn diện cho
người học. Nhà nước khuyến khích thể dục thể thao ngoại khóa trong nhà

trường”.
- Liên Bộ Giáo dục và Ðào tạo cùng Ủy ban Thể dục Thể thao đã ra
thông tư liên tịch số 34/2005/TTLT- BGD&ĐT-UBTDTT ngày 29 tháng 12
năm 2005 về việc hướng dẫn phối hợp quản lý và chỉ đạo công tác thể dục thể
thao trường học giai đoạn 2006 - 2010 đã chỉ rõ:
Thể dục thể thao trường học là bộ phận đặc biệt quan trọng trong việc
nâng sức khỏe và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân
cách cho học sinh, sinh viên góp phần đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Thể dục thể thao trường học là môi trường thuận lợi và giàu tiềm
năng để phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước.
Phát triển giáo dục thể dục thể thao trường học phải theo hướng đổi
mới và nâng cao chất lượng giờ học thể dục nội khóa, đa dạng hóa các hình
thức hoạt động ngoại khóa, đồng thời tổ chức chặt chẽ việc kiểm tra tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể đối với người học.
Tăng cường sự phối hợp liên ngành Giáo dục và Thể dục Thể thao,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và chuyên nghiệp hóa, tranh thủ từ các nguồn
lực xã hội để xây dựng và phát triển Thể dục Thể thao trường học.
Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về Thể dục Thể thao trường học,
góp phần nâng cao vị thế của Thể thao Việt Nam trong khu vực và thế giới.
Để đảm bảo cho công tác TDTT phát triển đúng hướng, cần tạo sự
quản lý thống nhất của Nhà nước, xúc tiến quá trình xã hội hoá TDTT trong
các tổ chức và cơ sở hoạt động, nhất là trong mạng lưới rộng lớn các trường
học từ mẫu giáo đến đại học.


12

Dạy học thực chất là quá trình tổ chức nhận thức cho người học. Mọi
hoạt động dạy học chỉ có kết quả khi người học ý thức được mục đích học
tập một cách tự giác, tích cực học tập với sự nỗ lực tối đa về trí tuệ và thể

lực, tự điều chỉnh và điều khiển hoạt động của mình một cách tối ưu.
Do sự phát triển của xã hội về mọi mặt dẫn đến vừa tạo điều kiện cho
con người phát triển, vừa đòi hỏi con người muốn tồn tại và phát triển trong
xã hội ấy phải năng động, tự chủ, sáng tạo để có thể thực sự làm chủ bản
thân, làm chủ xã hội. Nhiệm vụ của giáo dục phải hướng đến quá trình bồi
dưỡng cho người học những phẩm chất và năng lực đó.
Muốn vậy giáo dục phải lấy học sinh làm hạt nhân, làm trung tâm trong
mọi hoạt động giáo dục. Nếu không, sản phẩm đào tạo sẽ không đáp ứng
được nhu cầu của xã hội và không thể thích nghi với điều kiện xã hội mới
(Chủ trương về việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong giai đoạn hiện nay
của Bộ Giáo dục và Đào tạo). [5]
- Luật giáo dục được quốc hội khóa IX nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005 quy định “ Nhà nước coi trọng Thể dục
Thể thao trường học, nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp
thanh thiếu niên, nhi đồng. Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc đối với
học sinh, sinh viên, được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ mầm
non đến đại học”.
Vì vậy công tác GDTC trong Trường hoc với mục tiêu đào tạo học sinh
trở thành người công dân tốt, có kiến thức toàn diện, có sức khỏe và đủ phẩm
chất, năng lực góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Muốn con người Việt Nam phát triển toàn diện thì ngày càng phải coi
trọng công tác giáo dục thể chất.


13

1.3.Cơ sở lý luận và thực tiễn của Giáo dục thể chất.
Theo Matveep L.P., Novicop A.D khái niệm rằng “Giáo dục thể
chất(GDTC) là một quá trình giải quyết những nhiệm vụ giáo dục – giáo
dưỡng nhất định mà đặc điểm của quá trình này là có tất cả các dấu hiệu

chung của quá trình sư phạm, hoặc là được thực hiện dưới quá trình hình thức
tự giáo dục”.
Nguyễn Toán đã mô tả GDTC và khái niệm: “GDTC là một bộ phận
của TDTT. GDTC còn là một trong những họat động cơ bản, có định hướng
rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình tổ chức để truyền thụ và tiếp thu
những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục mà nội dung chuyên biệt là
dạy học vận động (động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động
của con người”.
Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn nêu: “GDTC là một loại hình giáo
dục mà nội dung chuyên biệt là dạy vận động (động tác) và phát triển có chủ
định các tố chất vận động của con người”.
Đào Hùng, Nguyễn Mậu Loan khái niệm “GDTC là một quá trình giáo
dục mà đặc trưng của nó biểu hiện ở việc giảng dạy các động tác và giáo dục
các tố chất thể lực của con người”.
Vũ Đức Thu, Nguyễn Xuân Sinh, Lưu Quang Hiệp, số tác giả khác đã
đưa ra khái niệm: “GDTC là một quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo
thế hệ trẻ toàn diện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và
tuổi thọ của con người”
Về GDTC có nhiều khái niệm ở những cách nhìn khác nhau, song nói chung
đều nêu lên hai mặt của một quá trình GDTC “giáo dục và giáo dưỡng”.
- Thể chất: PGS.TS Nguyễn Toán cho rằng: “Thể chất là chỉ chất lượng
thân thể con người. Đó là đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức
năng của cơ thể, được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều


×