Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG, GIẢI PHÁP tạo VIỆC làm CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH hội NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.05 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, là một xu hướng
không thể lẫn tránh đối với mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay. Hội nhập kinh
tế đang đưa lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức và khó
khăn, quá trình hội nhập không những tác động đến quá trình phát triển nguồn
nhân lực nước ta cho phù hợp mà nó cũng tác động đến việc làm và sự di chuyển
lao động quốc tế.
Từ thực tế nước ta là nước nông nghiệp với gần 70% dân số đang làm
việc trong nông nghiệp, song diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp do ảnh hưởng của qua trình đô thị hoá cũng như việc dân số tăng nhanh.
Ở đồng bằng Bắc bộ bình quân chỉ 360m2/ người, với diện tích đó, một nông dân
chỉ làm hết 1/3 số ngày công trong năm dẫn đến lao động trong nước dư thừa
khá nhiều. Chúng ta có thể rút 10 triệu lao động trong nông nghiệp mà không
ảnh hưởng gì tới sản xuất của khu vực này. Số lao động thất nghiệp ở thành thị
là trên 7%/năm. Hàng năm nước ta có hơn 1 triệu lao động đến tuổi lao động.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động. Chúng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm
tạo việc làm như: phát triển nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, dich vụ, xuất
khẩu lao động… Xuất khẩu lao động hiện nay là một vấn đề quan trọng của
nước ta. Xuất khẩu lao động là một nhiệm vụ chính trị, kinh tế có ý nghĩa chiến
lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, là xu thế tất yếu trong quá trình
toàn cầu hoá, cũng là vấn đề bức xúc trước mắt về lao động việc làm. Xuất khẩu
lao động góp phần làm giàu cho đất nước, cho người lao động. Trong những
năm qua chúng ta đã đạt được nhiều kết quả đỏng khích lệ. Tuy nhiên bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết như : Giải quyết việc làm cho
người lao động khi về nước, tình trạng vi phạm hợp đồng xuất khẩu, tình trạng
người lao động bỏ trốn ra ngoài làm…
Thế kỉ XXI là thế kỉ phát triển nh vũ bão của nền kinh tế tri thức, của
quá trình hội nhập, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, quá trình toàn cầu hoá cạnh
tranh gay gắt. Vấn đề xuất khẩu lao động ở Việt nam đang đứng trước nhiều cơ
hội và thách thức trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Xuất phát


từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Xuất khẩu lao động-giải pháp tạo việc
làm cho người lao động trong quá trình hội nhập” làm chủ đề viết thu hoạch
môn học Kinh tế nguồn nhân lực.

1


NỘI DUNG
I. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

1. Khái quát về xuất khẩu lao động.
Các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển lẫn các nước kém phát
triển đều tham gia hoạt động xuất khẩu lao động. Các nước phát triển xuất khẩu
lao động co trình độ, tay nghề cao. Các nước kém phát triển xuất khẩu lao động
dư thừa, trình độ tay nghề thấp nhằm giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện
sống cho gia đình người lao động. Xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Xuất khẩu lao động là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và
là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, mà hàng hoá đem xuất khẩu là sức lao
động của con người, còn khách mua là chủ thể người nước ngoài. Nói cách
khác, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng
lao động cho nước ngoài, mà đối tượng là con người.
Hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta chủ yếu diễn ra theo hai hình
thức sau:
a) Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bao gồm: Đi theo
Hiệp định chính phủ kí kết giữa hai nhà nước. Hợp tác lao động và chuyên gia;
thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên
doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; thông qua
các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động; người lao động trực
tiếp kí kết hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức ở nước ngoài.

b) Xuất khẩu lao động tại chỗ: Là hình thức các tổ chức kinh tế của Việt
Nam cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam bao
gồm: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao; tổ chức, cơ quan ngoại giao, văn phòng đại diện của
nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến các hoạt động dịch vụ liên
quan đến việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
2. Những đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động.
2.1 Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động đã là một trong những giải
pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu
ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích
khác. Những lợi ích này buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao
nhất thị trường lao động ở nước ngoài, vmà việc chiếm lĩnh được hay không lại
dựa vào quan hệ cung cầu sức lao động - nó chịu sự điều tiết, sự tác động của
2


các quy luật của kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của
mình làm sao để bù đắp được chi phí và có phần lãi, vì vậy cần phải có cơ chế
thích hợp để tăng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng
hiệu quả của việc nhập khẩu lao động.
2.2 Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách rời khỏi
người lao động. Do vậy mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động phải kết hợp với chính sách xã hội: phải đảm bảo làm sao để người lao động
ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm
bảo các hoạt động công đoàn… Hơn nữa, người lao động xuất khẩu cũng chỉ co
thời hạn, do vậy, cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động
sau khi hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài và trở về nước.

2.3 Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của
nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao
động đưa người lao đông đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hiệp định, thoả thuận nguyên tắc
của các chính phủ và trên cơ sở hợp đồng cung ứng lao động.
Nếu như trước đây (giai đoạn 1980-1990), Việt Nam tham gia thị trường
lao động quốc tế, đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định song
phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện ăn ở đi lại, lương, bảo vệ
người lao động ở nước ngoài. Nghĩa là, về cơ bản Nhà nước vừa quản lý Nhà
nước về hợp tác lao động, vừa quản lý sự nghiệp hợp tác lao động với nước
ngoài, Nhà nước làm thay các tổ chức kinh tế cụ thể. Ngày nay, trong cơ chế
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu
lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng
đã ký. Đồng thời các tổ chức xuất khẩu lao động cũng chịu hoàn toàn trách
nhiệm toàn bộ khâu tổ chức đưa đi và quản lý người lao động tự chịu trách hiệm
về hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu của mình. Và như vậy, các hiệp
định, các thoả thuận song phương chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và
trách nhiệm của nhà nước ở tầm vĩ mô.
2.4 Xuất khẩu lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt.
Tính gay gắt trong cạnh tranh của xuất khẩu lao động xuất phát từ hai
nguyên nhân chủ yếu:
a) Xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước đang
có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, đã buộc các nước xuất khẩu lao
động phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Nghĩa là, họ phải
3


đầu tư nhiều cho chương trình marketing, cho chương trình đào tạo, tập huấn
nhằm tăng giá trị sử dụng của sức lao động.

b) Xuất khẩu lao động đang diễn ra trong môi trường suy giảm kinh tế
trong khu vực. Nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… cũng đang phải đối đầu với tỉ lệ thất nghiệp
ngày càng gia tăng. Điều này hạn chế rất lớn tới việc tiếp nhận lao động nước
ngoài trong thời gian 5-10 năm đầu thế kỉ XXI.
2.5 Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động.
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của nhà nước là khoản
ngoại tệ giữa người lao động gửi về, các khoản thuế. Lợi ích của các tổ chức
xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu là các loại phí giải quyết việc
làm ngoài nước. Còn lợi ích người lao động là khoản thu nhập thường cao hơn
nhiều so với lao động ở trong nước. Chính vì vậy chạy theo lợi ích mà các tổ
chức xuất khẩu lao động đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi phạm quy định của
Nhà nước, nhất là việc thu các loại phí dịch vụ từ chỗ các quyền lợi của người
lao động bị vi phạm sẽ khiến cho việc làm ở nước ngoài không thật hấp dẫn
người lao động.
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất dễ vi
phạm hợp đồng đã ký, như hiện tượng “chân ngoài dài hơn chân trong”, hoặc là
bỏ hợp đồng ra làm bên ngoài… Do vậy, các chính sách, chế độ phải tính toán
sao cho đảm bảo được sụ hài hoà lợi ích của các bên, trong đó phải thật chú ý
đến lợi ích trực tiếp của người lao động.
2.6. Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến động.
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu
nhập khẩu lao động, do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước
ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dựng chính sách đào tạo và chương trình
đào tạo giáo dục, định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào
chuẩn bị được đội ngũ công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận
lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần ở nước ngoài. Và cũng chỉ có nước nào
nhìn xa, trông rộng, phân tích đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị
động trước sự biến đổi của tình hình, đưa ra chính sách đón đầu trong hoạt động
xuất khẩu lao động.

3. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu lao động.
Khi bàn về thị trường lao động quốc tế, đại diện 11 nước ChâuÁ tham dự
Hội thảo tổ chức tại Nhật Bản đầu năm 2004 cho rằng: thị trường lao động Quốc
tế đang tiếp tục mở rộng. Tuy nhiên xu thế phát triển đang có chiều hướng thay
đổi. Một số nước vẫn là nước xuất khẩu lao động như Philippin, Inđônêxia,Việt
4


Nam… Một số nước vừa xuất khẩu vùa nhập khẩu lao động như Malaysia,
Trung Quốc, Thái Lan… và một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc… vẫn cần
nhập khẩu lao động.
Hiện nay, Trung Quốc đã đưa được hơn 300 nghìn lao động phổ thông đi
làm việc ở nước ngoài và có hơn 220 nghìn chuyên gia quốc tế tới làm việc tại
nước này. Đài Loan tiếp nhận 400 nghìn lao động nước ngoài tới làm việc trong
đó có 300 nghìn lao động phổ thông. Malaysia tiếp nhận 900 nghìn lao động
nước ngoài, Hàn Quốc tiếp nhận 220 nghìn lao động; Có hơn 400 nghìn lao
động Inđônêxia đi làm lao động ở nước ngoài, chủ yếu là lao động phổ thông và
có tới hơn 23 nghìn chuyên gia nước ngoài tới Inđônêxia làm việc; Philippin có
700 nghìn lao động làm việc ở nước ngoài; còn ở Việt Nam, chỉ tính từ năm
2001 đến tháng 12 năm 2003 ta cũng đã đưa đi được 157 nghìn lao động ra làm
việc ở nước ngoài, cụ thể: năm 2001: 36000 người; năm 2002: 46000 người;
năm 2003: 75000 người.
Hầu hết các nước đều thiếu lao động có trình độ và đang tìm cách cải
thiện chính sách nhằm thu hút lao động có tay nghề cao. Việc tiếp nhận lao động
phổ thông tiếp tục có nhu cầu lớn. Tuy nhiên, việc sử dụng lao động phổ thông
trên thị trường quốc tế có nhiều hạn chế và kém hiệu quả: do thu nhập thấp, khả
năng tiếp nhận công nghệ mới còn rất hạn chế, điều kiện làm việc kém, bị đối xử
thiếu bình đẳng, khả năng cạnh tranh thấp... Rõ ràng, xuất khẩu lao động là một
hoạt động kinh tế đối ngoại, có nét đặc thù và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau, bị tác động bởi các nền kinh tế và các chính sách phát triển của các

nước, đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với nền kinh tế và xã hội của cả
nước nhập và xuất khẩu lao động. Qua nghiên cứu và tổng kết ta thấy quá trình
xuất khẩu lao động của mỗi quốc gia trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu
ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản sau đây:
3.1. Yếu tố cạnh tranh
Xuất khẩu lao động được thực hiện trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia xuất khẩu lao động. Ngày càng có nhiều nước tham gia vào lĩnh vực
xuất khẩu lao động, trong hiện thời và trước mắt các nước nhập khẩu lao động
chỉ muốn tiếp nhận lao động có kỹ năng cao, thích ứng với công nghệ mới, đặc
biệt là công nghệ thông tin, siết chặt chính sách nhập cư và có xu hướng quản lý
lao động nhập cư thông qua các hợp đồng lao động tạm thời và các chính sách
quản lý lao động nhập cư. Đồng thời, các nước cũng thông qua tổ chức lao động
quốc tế (ILO) và tổ chức di dân quốc tế (IOM) để giải quyết vấn đề di dân và
nhập cư lao động một cách toàn diện, phục vụ lợi ích của các quốc gia, người
lao động và toàn xã hội.
5


3.2. Quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường thế giới
Các nước kinh tế phát triển có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng tốc độ tăng
dân số thấp, dẫn đến thiếu hụt nguồn nhân lực, có nhu cầu về nhập khẩu lao
động, trong khi các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển cần đầu tư mở
rộng sản xuất, tạo việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, bổ sung nguồn thu ngân
sách và nguồn thu nhập cho người lao động, rất cần đưa lao động ra nước ngoài
làm việc. Cung cầu lao động trên thị trường lao động phụ thuộc rất nhiều vào sự
phát triển và các chính sách kinh tế của các nước như: thu nhập, đầu tư, thuế, lãi
suất… của nền kinh tế khu vực và thế giới. Khi cung cầu lao động mất cân đối
nghiêm trọng do nhu cầu tìm việc làm trong nước quá lớn nhưng khả năng xâm
nhập, khai thác thị trường lao động quốc tế còn hạn chế, cạnh tranh gay gắt sẽ
đẩy chi phí khai thác thị trường lên quá cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi

người lao động.
3.3. Yếu tố pháp luật
Xuất khẩu lao động chịu tác động mạnh mẽ của môi trường chính trị và
pháp luật các nước xuất và nhập khẩu lao động cũng như luật pháp quốc tế.
Đối tượng tham gia xuất khẩu lao động là người lao động và tổ chức kinh
doanh hoạt động này. Xuất khẩu lao động không còn là việc làm của một cá
nhân, mà liên quan đến nhiều người, nhiều tổ chức cung ứng lao động, đến các
nước xuất lao động, nhập lao động, IOM và ILO… Vì vậy, quản lý xuất khẩu lao
động ngoài việc tuân thủ các quy định, những chính sách, những hình thức, quy
luật của quản lý kinh tế, còn phải tuân thủ những quy định về quản lý nhân sự
của cả nước xuất cư và nhập cư. Hệ thống pháp luật và chính sách hỗ trợ cho
xuất khẩu lao động đòi hỏi bổ sung và hoàn thiện.
3.4. Chất lượng nguồn lao động
Các nước nhập khẩu lao động truyền thống đang đổi mới đầu tư và hiện
đại hoá công nghệ sản xuất, chuyển dịch đầu tư tư bản sang các nước có giá trị
nhân công, dịch vụ thấp, có nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài cú trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao, tăng dần tỷ trọng lao động chất xám cao trong tổng số
lao động nhập cư.
Theo thống kê của ILO, tính đến năm 2001, có khoảng 60 nước di cư và
đi lao động nước ngoài, với tống số gần 120 triệu người, trong đó các nước
Châu Á chiếm 50%. Hầu hết các nước trên thế giới đều có lao động nước ngoài
làm việc, ILO ước tính, khoảng 200 nước trên thế giới tiếp nhận lao động nước
ngoài, nhưng chủ yếu tập trung ở các nước phát triển, khoảng 1/3 ở Châu Âu,
20% ở Bắc Mỹ, 15% ở Châu Phi, 12% ở các nước A rập, tất cả các khu vực
Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung và Nam Mỹ chiếm chưa đến 10%.
6


Với tính chất phức tạp, nhạy cảm và tính chất quốc tế cao của xuất khẩu
lao động, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động với tư cách hỗ trợ, quản lý,

giám sát và định hướng cho công tác xuất khẩu lao động là cần thiết. Ứng với
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế của mỗi nước, phải có một phương thức tổ chức
và quản lý xuất khẩu lao động riêng, trong đó quản lý tài chính xuất khẩu lao
động là một khâu quan trọng để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội.
4. Những thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam
4.1.Thị trường Trung Đông
Thị trường lao động ở Trung Đông có một số nét đáng chú ý:
Nhu cầu lao động ở Trung Đông sẽ ổn định ở mức cao trong nhưng năm
tới, mặc dù tình hình chính trị còn tiềm ẩn dấu hiệu chưa ổn định. Nhu cầu ở đây
rất đa dạng, gồm nhiều ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dịch vụ… và đòi
hỏi phải có trình độ lành nghề nhất định.
Trung Đông là thị trường nhận lao động của nhiều nước Đông Nam Á và
Nam Á. Sự cạnh tranh về giá nhân công sẽ trở nên gay gắt hơn, khi mà các nước
xuất khẩu lao động trong khu vực Châu Á đều tập trung hướng về Trung Đông.
Mức lương của lao động nước ngoài ở Trung Đông không cao như khu
vực Đông Á, song nó vẫn là thị trường tiềm năng chấp nhận lượng lao động lớn
của các nước xuất khẩu lao động đang hướng tới.
Từ năm 1980, nước ta đã đưa lao động và chuyên gia sang Irắc, năm
1990, đưa lao động sang Libia theo thảo thuận song phương của Chính phủ. Từ
năm 1992 trở lại đây, theo cơ chế mới các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã
đưa lao động sang các nước: Cô oét, Li băng và các tiểu vương quốc A rập thống
nhất theo các hình thức: cung ứng trực tiếp cho các công ty địa phương, cung
ứng lao động cho các đối tác nước thứ ba, trúng thầu, nhận thầu công trình xây
dựng. Hiện có khoảng 4 nghìn lao động đang làm việc tại các nước.
4.2. Thị trường Đài Loan
Đài Loan đã thực hiện nhập khẩu lao động từ năm 1989, hiện tại, lao động
nước ngoài có mặt tại Đài Loan như Thái Lan khoảng 14 vạn, Philippin khoảng
11,3 vạn người, Inđônêxia khoảng 4,5 vạn người. Trong tổng số lao động nước
ngoài, có khoảng 80% làm việc trong các ngành xây dựng và trong nhà máy, số
còn lại làm trong các ngành phục vụ cá nhân, phục vụ xã hội.

Từ năm 1994, Việt Nam đã quan tâm đến xuất khẩu lao động sang Đài
Loan. Qua một thời gian dài bàn bạc, khơi thông ngày 6/5/1999, một thoả thuận
về nhận và tiếp nhận lao động Việt Nam sang Đài Loan làm việc đã được ký kết
giữa văn phòng kinh tế - văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc và văn phòng kinh tế văn hoá Đài Bắc tại Hà Nội. Với Việt Nam là thị trường tiếp nhận nhiều lao
7


động trong đó một số lớn là lao động giúp việc gia đình và khán hộ công (chăm
sóc người già, bệnh nhân…) bước đầu đã giới thiệu 15 doanh nghiệp cung ứng
lao động sang Đài Loan làm việc. Đến tháng 6/2000 ta đã đưa được trên 2600
lao động sang làm việc tại thị trường này, trong đó, có 1115 lao động nữ lao
động giúp việc gia đình và khán hộ công.
Từ khi mở thị trường xuất khẩu lao động sang Đài loan, vào cuối năm
1999 đến nay, Việt Nam đã đưa hàng chục ngàn lao động sang nước này làm
việc, năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ĐàiLloan là thị
trường có những đặc thù riêng, đặc biệt là tình trạng lao động các nước bỏ trốn
đã đến mức báo động. Theo Uỷ ban lao động Đài Loan, trong số trên 12 nghìn
lao động nước ngoài bỏ trốn chưa bị bắt, Việt Nam đứng đầu trong năm nước có
số lao động bỏ trốn trên 5000 người, chỉ tính riêng tháng 3/2004, có tới 651 lao
động Việt Nam trong tổng số 1067 lao động nước ngoài bỏ trốn, lĩnh vực có tỷ
lệ lao động bỏ trốn cao là thuyền viên đánh cá, tiếp theo là giúp việc nhà và
khán hộ công. Với tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn như vậy nên một số
chuyên gia xuất khẩu lao động đã dự báo về nguy cơ mất thị trường Đài Loan.
4.3. Thị trường Malaixia
Đây là thị trường mới đưa vào khai thác năm 2002 nhưng đầy tiềm năng.
Mỗi năm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt nam đưa hàng chục ngàn
lao động Việt Nam sang Malaixia làm việc. Hiệu quả kinh tế thể hiện rõ bằng số
tiền lao động gửi về nước hàng năm.
Đầu năm 2003, Bộ lao động thương binh xã hội vừa cấp phép cho 25
doanh nghiệp xuất khẩu lao động sang Malaixia, nâng tổng số công ty được

phép đưa lao động sang thị trường này lên 71. Cho đến nay sau 2 năm đưa lao
động Việt Nam sang làm việc tại Malaixia đã có hơn 70000 người lao động sang
thị trường này làm việc. Thị trường Malaixia là thị trường khá dễ tính và chi phí
đi làm việc thấp, khoảng 1200 USD/người, nhưng lương bình quân tại thị trường
này chỉ khoảng 200 USD/tháng. Đầu tháng tư năm 2004, Việt Nam có khoảng
72000 lao động làm việc tại Malaixia. Ngành xây dựng là ngành thu hút nhiều
lao động xuất khẩu ở Việt Nam sang Malaixia với thu nhập 500 USD/tháng.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, việc lao động Việt Nam bỏ trốn quá
nhiều ở thị trường này đã gây ra rất nhiều vấn đề và Malaixia đã phải tạm ngừng
việc tuyển lao động nước ngoài một thời gian, nhưng đến ngày 28/2/2004 lại
tiếp tục mở của với một số ngành nghề. Thị trường Malaixia được các cấp lãnh
đạo đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng và mới được khai thác.

8


4.4. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển và có mức thu nhập bình quân
đầu người rất cao trên thế giới. Vì vậy, Nhật Bản là một thị trường lao động
nhiều tiềm năng nhưng đòi hỏi lao động phải cú trình độ cao. Chính vì vậy Việt
Nam thường đưa vào Nhật Bản dưới hình thức tu nghiệp sinh. Việt Nam và Nhật
Bản đ ã có chương trình hợp tác tu nghiệp sinh từ năm 1992, cho đến nay, đã có
gần 20000 tu nghiệp sinh Việt Nam sang tu nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ
của Nhật Bản, theo nhiều ngành nghề khác nhau như: dệt, may, điện tử, cơ khí,
chế biến. Số lượng tu nghiệp sinh Việt Nam được phái cử sang tu nghiệp tại
Nhật Bản từ năm 2000 đến 2004 là 9353 người, trong đó năm 2004 là trên 2000
người. Tổng số tu nghiệp sinh đang có mặt làm việc tại Nhật B ản là trên 8000
người. Ngoài tu nghiệp sinh Việt Nam cũng đã đưa trên 500 lao động có tay
nghề cao sang làm việc tại Nhật Bản. Thu nhập của tu nghiệp sinh Việt Nam tại
Nhật Bản tương đối cao so với các thị trường khác, bình quân 10000 yên/tháng

(tương đương 680 USD) trong năm thứ nhất và khoảng 18000 yên/tháng (tương
đương 980 USD) năm thứ hai, thứ ba. Hàng năm tu nghiệp sinh gửi về nước
khoảng 84 triệu USD. Đây là một khoản tiền không nhỏ tăng thu ngoại tệ cho
đất nước và góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm trong nước.
4.5. Thị trường Hàn Quốc
Hơn ba thập kỷ qua, nền kinh tế Hàn Quốc đã có những bước phát triển
vượt bậc, trở thành quốc gia phát triển có thu nhập bình quân đầu người khá cao,
bình quân 11000 USD/năm. Nhiều ngành công nghiệp của Hàn Quốc như sản
xuất ô tô, thép, điện tử, đóng tàu, công nghệ thông tin đã chiếm lĩnh hàng đầu
trong khu vực và trên thế giới. Cũng như các quốc gia phát triển khác, ngoài lực
lượng lao động khác, thị trường Hàn Quốc có nhu cầu lớn với lao động nước
ngoài làm việc trong một số lĩnh vực khác nhau, từ lao động phổ thông làm việc
trong các ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, thuỷ sản đến lao
động có tay nghề cao như chuyên gia làm việc trong các ngành công nghệ thông
tin, sinh học, vật liệu mới công nghệ cao, điện tử kỹ thuật số. Hàn Quốc có ba
hình thức cấp phép cho lao động nước ngoài, bao gồm:
- Chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp
- Chương trình cấp phép lao động với người lao động phổ thông nước ngoài
- Chương trình tiếp nhận lao động lành nghề và chuyên gia nước ngoài
(“chương trình thẻ vàng”)
Chương trình thẻ vàng là chương trình thu hút hỗ trợ nguồn nhân lực kỹ
thuật cao cho các lĩnh vực thuộc các ngành kinh tế đang phát triển mạnh của
Hàn Quốc. Trước khi có hệ thống thẻ vàng, Việt Nam và Hàn Quốc đã có sự hợp
9


tác một cách chặt chẽ trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Từ năm 1993 đến nay,
có khoảng 32000 lao động Việt Nam sang làm việc và tu nghiệp sinh cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc.
4.6. Thị trường Anh

Trong tình xuất khẩu lao động gặp nhiều khó khăn nhất là ở hai thị trường
Đài Loan và Malaixia, các doanh nghiệp đã chuyển hướng mở thị trường Anh.
Đây là một thị trường tiềm năng và hấp dẫn, mở thêm nhiều cơ hội cho lao động
đi nước ngoài làm việc. Nước ta có ba doanh nghiệp ký hợp đồng với khách sạn
Omni, đó là trung tâm đào tạo lao động ngoài nước và dịch vụ (TCL) thuộc tổng
công ty ô tô Việt Nam. Tháng 10/2003 ở Hà Nội, trung tâm dịch vụ du lịch và
xuất khẩu lao động thuộc công ty du lịch dịch vụ dầu khí Việt Nam (OSCVN)
tháng 10/2003 ở thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm hợp tác lao động với nước
ngoài thuộc tổng công ty thép Việt Nam (VSC) 26/2/2004 ở Hà nội.
Cả ba doanh nghiệp đều ký hợp đồng trong lĩnh vực khách sạn và đến nay
đã có hàng trăm lao động sang Anh làm việc với thu nhập khoảng từ 1300 USD
đến 1800 USD/tháng.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng phấn đấu để lao động Việt Nam
đáp ứng được yêu cầu của thị trường Anh, nhằm mục đích tăng số lượng lao
động của Việt Nam sang Anh.
Ngoài ra còn một số thị trường khác như Châu Phi, Bắc Âu, Bắc Mỹ…
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM

1.Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam
1.1. Các giai đoạn xuất khẩu
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh
tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động cũng đã có nhiều thay đổi phù
hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế trong từng thời kỳ.
Xuất khẩu lao động góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Hoạt đông xuất khẩu lao động của Việt Nam được chia làm hai giai đoạn sau:
a) Giai đoạn từ 1980-1990
Trong giai đoạn này, hoạt động xuất khẩu lao động dựa trên cơ sở quan hệ
hợp tác sử dụng lao động ở Việt Nam với các nước thông qua các Hiệp định

chính phủ, thoả thuận ngành với các ngành.
Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài trong giai
đoạn này là gần 300000 người, trong đó: Đi lao động ở 4 nước xã hội chủ nghĩa
cũ (Liên xô cũ, CHDC Đức, Tiệp Khắc cũ, Bungari) là 244186 người; đi làm
chuyên gia ở Châu Phi là 7200 người; đi làm xây dựng ở Trung Đông khoảng
10


18000 người; ngoài ra còn 23713 người thực tập sinh và học sinh hoc nghề tại
các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm 80.
b) Giai đoạn từ 1991 đến 2001
Tình hình và nhu cầu thực tiễn cùng với việc cơ chế quản lý kinh tế Việt
Nam đang trong thời kỳ đổi mới dẫn đến những thay đổi về cơ chế hoạt động
xuất khẩu lao động từ phía chính quyền. Ngày ngày 9 tháng 11 năm 1991, Nghị
định về đưa người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài ra đời. Cụ thể, các tổ
chức doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông
qua hợp đồng ký với nước ngoài. Cơ chế này đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
lao động Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu. Số lao động đưa đi nước
ngoài tăng đều mỗi năm. Tổng lao động xuất khẩu trong giai đoạn này gần
160.000 người.
Có sự thay đổi về thị trường trong giai đoạn này. Ban đầu, Việt Nam xuất
khẩu công nhân xây dựng sang một số nước Trung Đông (chủ yếu là Iraq), Các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Kuwait. Năm 1992, Việt Nam kí các hợp
đồng xuất khẩu thuyền viên với Đài Loan, Hàn Quốc.
c) Giai đoạn 2001 đến nay
Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi năm có hơn 83.000 lao động xuất
khẩu sang nước ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc
làm trong cả nước. Đến năm 2009 đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm
việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau.
Vào thời điểm năm 2011, xét về lượng tiếp nhận thì lao động Việt Nam nhiều

nhất tại Đài Loan, sau đó là Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập Saudi, Lào,
Campuchia,... Trong số đó lao động nữ chiếm gần 50%, chủ yếu làm trong
ngành phục vụ cá nhân và xã hội và công nghiệp.
Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả
Rập Thống nhất cũng đang được mở rộng. Các quốc gia phát triển có thu nhập
cao như Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và Ý cũng là mục tiêu xuất khẩu lao động
Việt Nam hướng đến.
Năm 2008, Hàn Quốc nhận thêm 12.000 lao động Việt Nam mới và tái
tuyển dụng 6.000 lao động, tăng số lao động Việt Nam tại quốc gia này lên gần
50.000 lao động. Đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 60.000 lao động tại Hàn
Quốc và 85.650 tại Đài Loan - giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại
Đài Loan.
Không giống với Đài Loan và Malaysia được xem là thị trường truyền
thống ít đòi hỏi, Nhật Bản được đánh giá là thị trường có nhiều đòi hỏi cao. Tuy
nhiên, theo những chính sách và chương trình hợp tác tạo nhiều thuận lợi, lượng
11


tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật làm việc ngày càng tăng. Với con số 35.000
tu nghiệp sinh theo thống kê năm 2011, Việt Nam đứng thứ 2 trong tổng số 14
nước có tu nghiệp sinh làm việc tại Nhật Bản (sau Trung Quốc). Chất lượng lao
động cũng được tín nhiệm.
Năm 2011, tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài theo số
liệu từ Cục Quản lý Lao động Ngoài nước là 81.475 người. Theo thống kê của
Hiệp hội Xuất khẩu Lao động Việt Nam, con số này là 88.298 người. Riêng số
lao động Việt Nam đang có mặt tại bốn thị trường lớn nhất là Đài Loan,
Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản là hơn 200.000 người (40% tổng số lao động
Việt Nam tại nước ngoài).
Năm 2013 con số người Việt Nam lao động ở ngoại quốc tăng lên hơn
88.000, vượt con số chỉ tiêu của nhà nước. Đài Loan tiếp tục là nơi mướn nhiều

người Việt nhất, chiếm hơn 46.000 người. Nhật Bản và Malaysia là hai quốc gia
kế bảng hạng hai và hạng ba.
1.2. Các đối tượng xuất khẩu lao động
a) Xuất khẩu lao động chuyên gia:
Đây là hoạt động xuất khẩu mà người tham gia là những người tham gia
là những người có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học; họ làm các chuyên
gia tư vấn, điều hành và quản lý. Loại lao động này thường có mức thu nhập cao
nhưng chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao dộng xuất khẩu. Hiện nay xảy
ra hiện tượng chảy máu chất xám: chủ yếu do họ được mời sang hoặc những
nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp ở lại làm việc tại đó. Đây là vấn đề mà nhiều
nước than phiền do công sức đào tạo của họ không được sử dụng ở nước mình.
b) Xuất khẩu lao động kỹ thuật:
Đối tượng này bao gồm những người đã qua đào tạo ở các trường trung
học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật. Họ là những thợ lành nghề hoặc có trình
độ chuyên môn kỹ thuật nhất định, có thể làm việc ở những nhà máy có trình độ
cơ khí hoá cao, máy móc hiện đại, thu nhập tương đối cao và ổn định.
c) Xuất khẩu lao động phổ thông
Là những lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Họ chủ yếu làm trong các nhà máy, xí nghiệp đòi hỏi yêu cầu chuyên môn
không cao, hoặc làm giúp việc gia đình. Loại lao động này đang chiếm tỷ lệ lớn
trong số lao động xuất khẩu.
2. Những kết quả đạt được
2.1 Thị trường XKLĐ của nước ta được mở rộng
Những năm 1980-1990 nước ta chủ yếu xuất khẩu lao động sang các
nước Đông Âu, với số lượng khá khiêm tốn. Năm 1991 chỉ có 12 nước và vùng
12


lãnh thổ, đến năm 2004 đó có gần 40 nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động
Việt Nam vào làm việc. Với những biến động về chính trị, kinh tế và khu vực

trên thế giới, các thị trường của Việt Nam vẫn được tăng cường từ Trung Bắc Á
đến khu vực Trung Đông và Nam Thái Bình Dương. Đồng thời, vẫn tập trung
khai thác các thị trường truyền thống như: Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật
Bản. Đây là những thị trường trọng điểm của Việt Nam trong những năm gần
đây và trong những năm kế tiếp. Chúng ta có nhiều thoả thuận, ký kết hợp tác
lao động với một số nước như: Liên bang Nga, Cộng Hoà Séc, Ucraina… tiếp
tục ổn định các thị trường đã có và phát triển thị trường mới sang các nước Anh,
Pháp, Canada.
2.2 Số lượng lao động đi XKLĐ ngày càng tăng
Hiện nay chúng ta có hàng trăm nghìn lao động làm việc ở nước ngoài, với
hình thức và ngành nghề tương đối đa dạng gồm: XKLĐ theo hợp đồng cung ứng
lao động, trực tiếp cung ứng lao động cho chủ doanh nghiệp nước sở tại nhận
thầu, liên doanh sản xuất, hợp tác song phương, hợp đồng lao động cá nhân.
Từ năm 1980, năm bắt đầu đến hết năm 2004 chóng ta đã đưa được 642
nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài chỉ trong 4 năm 2001 - 2004 con số này
là 225 nghìn người gần gấp đôi so với tổng số lao động đưa đi trong cả thời kỳ
1991 - 2000.
Đến năm 2009 đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở 40
quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau.
2.3 Tăng hiệu quả kinh tế
a) Thu nhập của người lao động
Thu nhập là mục tiêu hàng đầu của người lao động. Tuỳ theo pháp luật,
thu nhập bình quân của nước sử dụng lao động mà người lao động được tuyển
làm việc, được hưởng một khoản thu nhập ghi trong hợp đồng lao động. Thu
nhập của lao động có xu hướng tăng lương hằng năm trên cơ sở tăng năng suất
lao động.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu hập cao hơn từ 6 đến 10
lần thu nhập so với thu nhập từ việc làm trong nước. Bên cạnh đó, sau thời gian
làm việc ở nước ngoài, tay nghề của người lao động được nâng cao, tiếp thu
được công nghệ sản xuất mới và phương thức quản lý tiên tiến, được rèn luyện

kỹ năng và tác phong lao động công nghiệp. Một số lao động sau khi về nước đã
sử dụng khoản tiền tích luỹ được để đầu tư phát triển sản xuất, tạo việc làm cho
người thân trong gia đình và nhiều lao động khác.
b) Lợi ích của Nhà nước

13


Xuất khẩu lao động được coi là hướng giải quyết việc làm cho người lao
động và thu ngoại tệ về cho đất nước. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài
giúp Nhà nước giảm được khoản chi phí hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho đào tạo
nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động.
Nếu đầu tư để có một chỗ làm việc mới với người có tay nghề cao trong
ngành công nghiệp nặng trong nước phải tốn khoảng 100 triệu đồng, với người
có tay nghề trung bình phải đầu tư 30 đến 35 triệu đồng. Đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài không phải đầu tư lớn cho khâu tạo chỗ làm việc mới và các
dịch vụ khác. Nhờ đó Nhà nước có thể tiết kiệm ngân sách hàng ngàn tỷ đồng.
Số lao động đi làm việc theo các hiệp định chính phủ trước đây đã đóng
góp vào ngân sách 800 tỷ đồng, và hơn 300 triệu USD vào ngân sách. Trong
những năm gần đây, ước tính lượng ngoại tệ do người lao động chuyển về nước
bình quân 1,2 đến 1,5 tỷ USD/năm, trong đó năm 2004 gần 1,6 tỷ USD.
c) Lợi ích của doanh nghiệp XKLĐ
Theo sự phân công lao động xã hội, các tổ chức XKLĐ là chủ thể quan
trọng nhất quyết định sự thành công (hoặc thất bại) chiến lược XKLĐ trong giai
đoạn hiện nay. Nói cách khác doanh nghiệp XKLĐ là nơi tạo ra lợi ích cho
người lao động và hiệu quả kinh tế quốc dân cho Nhà nước. Thông thường, khi
hoàn thành dịch vụ của mình, tổ chức XKLĐ nhận được khoản phí dịch vụ
không quá 12% tiền lương cơ bản của lao động và 18% của thuyền viên, khoản
thu này là doanh thu từ XKLĐ, đủ để các tổ chức trang trải chi phí hoạt động,
quản lý, khai thác và tìm kiếm thị trường, tuyển chọn lao động và thực hiện

nghĩa vụ với ngân sách theo luật định.
2.4 Đã hình thành đội ngũ doanh nghiệp XKLĐ
Từng bước thích nghi và phát triển trong cơ chế mới, đến nay cả nước có
hàng trăm doanh nghiệp và các Bộ, ngành địa phương, đoàn thể được xuất khẩu
lao động (trong số này có một số công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần hoạt động theo luật doanh nghiệp) trong đó có 16 doanh nghiệp chuyên
doanh, 133 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành nghề được bổ sung chức
năng xuất khẩu lao động. Nhiều doanh nghiệp đã phát huy được tính năng động
tự chủ và sáng tạo trong kinh doanh đạt được kết quả cao về số lao động cung
ứng cho nước ngoài. Đồng thời bổ sung chương trình đào tạo cho phù hợp với
từng yêu cầu của thị trường, đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa
phương với các cơ sở đào tạo tuyển chọn. Áp dụng các công nghệ tiên tiến để
tìm kiếm thông tin mở rộng quan hệ nhằm mở ra các thị trường lao động mới,
nhiều doanh nghiệp tạo sức cạnh tranh mạnh trên thị trường lao động quốc tế
bằng số lượng và chất lượng người lao động.
14


Đội ngũ cán bộ làm công tác XKLĐ ở nhiều doanh nghiệp đó tích luỹ
được kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực này, đem lại hiệu quả cho hoạt
động của doanh nghiệp.
3. Một số vấn đề còn tồn tại
3.1 Một số hạn chế
a) Số lượng lao động đi xuất khẩu còn hạn chế
So với mục tiêu và yêu cầu bức thiết phải giải quyết việc làm cho người
lao động, thì số lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài còn thấp chưa tương
xứng với tiềm năng lao động ở nước ta.
Mặt khác, các chính sách tuyên truyền thông tin về xuất khẩu lao động
còn ít, chưa đủ mạnh và chưa đến với người lao động một cách đày đủ và tin
cậy, người lao động chưa thực sự tin tưởng và mạnh dạn khi tham gia XKLĐ.

Cơ chế cho vay của các ngân hàng chưa tạo thuận lợi cho người lao động tham
gia XKLĐ. Điều này làm hạn chế lao động tham gia vào thị trường XKLĐ.
b) Địa bàn XKLĐ tuy được mở rộng nhưng chưa ổn định.
Lao động của ta tập trung chủ yếu vào khu vực Đông Á, tiếp cận với quy
mô còn nhỏ các thị trường lao động ở các nước vùng Vịnh, Bắc Mỹ và Bắc Phi.
Khả năng tiếp cận với với nước ngoài của các doanh nghiệp còn yếu, thụ động,
thiếu thông tin, kinh nghiệm. Vì vậy không thu hút được nhiều thị trường nhập
khẩu lao động. Mặc dù trong thời gian gần đây, nhà nước ta và các doanh nghiệp
đã tìm kiếm được một số thị trường mới như: Anh, Pháp, Hy Lạp… nhưng số
lượng đưa đi còn dè dặt và không ổn định.
c) Việc quản lý lao động đang làm việc ở nước ngoài chưa đúng mức
Hệ thống tuỳ viên lao động chưa đựơc hình thành tại những địa bàn có
nhiều lao động làm việc. Tại hầu hết các nước có lao động Việt Nam làm việc
vẫn chưa có biện pháp quản lý Nhà nước trong cơ quan đại diện của Việt Nam
và cán bộ quản lý của doanh nghiệp cũng chưa có mặt nên hạn chế bảo vệ quyền
lợi cho người lao động và không giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động.
Dẫn đến tình trạng có nhiều lao động nước ta khi ra nước ngoài lao động bị chủ
chửi mắng và đối xử rất thậm tệ, tàn nhẫn, bị cắt lương hoặc không trả lương
đúng với thoả thuận trong hợp đồng… Dẫn đến khiến họ phải sống cơ cực, tủi
nhục mà không có ai đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ.
d) Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta mặc dù bước đầu
đã được cải thiện nhưng nhìn chung còn hạn chế.
Từ năm 1991 trở lại đây lao động Việt Nam đi làm việc theo quan hệ
cung cầu nên tỷ lệ lao động có chuyên môn đôi khi bị giảm sút.

15


Lao động của ta có tay nghề thấp, phần lớn lại xuất thân từ nông thôn nên
tuổi đời, trình độ học vấn rất khác nhau, hầu hết chưa được đào tạo nghề nhất là

ngoại ngữ, vì vậy không đáp ứng được nhu cầu của một số nước có nhu cầu về
các nghề kỹ thuật như: Điện tử, thợ hàn công nghiệp, thuyền viên… Ý thức lao
động, sự tuân thủ các nguyên tắc cộng đồng của một bộ phận người lao động
Việt Nam rất yếu. Một bộ phận không nhỏ đơn phương phá vỡ hợp đồng để ra
ngoài làm, một số vi phạm luật pháp nước sở tại… Điều này làm mất uy tín của
lao động Việt Nam, ảnh hưởng đến việc giữ vững và phát triển thị trường.
3.2 Nguyên nhân
a) Nguyên nhân khách quan
Các thị trường mới chưa biết nhiều về lao động nước ta nên tiếp nhận với
quy mô còn nhỏ, dè dặt. Có một số thị trường lại bị tác động bởi yếu tố chính trị.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Việc cụ thể hoá chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện chưa thật
sự phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. Chính
sách, cơ chế xuất khẩu lao động hiện nay còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sự
phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan.
- Chúng ta vẫn còn thiếu chính sách, cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp và
người lao động, chưa khuyến khích, đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn và
hỗ trợ vốn cho người lao động tham gia xuất khẩu. Chưa phổ biến các cơ chế,
chính sách để thu hót người lao động tham gia đi làm việc ở nước ngoài như: chính
sách về tuyên truyền các thông tin về xuất khẩu lao động cơ chế cho vay của các
ngân hàng chưa tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tham gia xuất khẩu, chưa
có chính sách cụ thể giải quyết việc làm cho người lao động khi về nước…
- Thủ tục hành chính còn rườm rà nhất là thủ tục nhân sự, xuất nhập cảnh.
Chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động
nước ngoài, nhiều khi gây khó khăn rất lớn cho người lao động, làm phát sinh
nhiều hiện tượng tiêu cực.
- Công tác quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp giấy ồ ạt cho quá
nhiều doanh nghiệp mà không kiểm tra xem doanh nghiệp đó có đạt yêu cầu tối
thiểu về trang thiết bị kỹ thuật, về vốn và các điều kiện khác phục vụ nhu cầu
XKLĐ ở các doanh nghiệp hay không.

- Công tác đào tạo nghề cho lao động xuất khẩu còn yếu, chất lượng lao
động không cao, ý thức kỷ luật kém.

16


III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

1. Thuận lợi và khó khăn trong giai đoạn tới
- Xu thế toàn cầu hoá trong những năm gần đây và trong thời kỳ tới sẽ
càng thúc đẩy sự phân công lao động trên thế giới, tạo điều kiện cho lao động và
chuyên gia Việt Nam hội nhập thị trường lao động quốc tế. Mặc dù nhu cầu lao
động nước ngoài đang giảm xuống do các nước nhận nhiều lao động nước ngoài
áp dụng khoa học kỹ thuật, tập trung đổi mới, hiện đại hoá công nghệ sản xuất
hoặc chuyển dịch đầu tư sang các nước nghèo, nhưng thị trường lao động quốc
tế vẫn còn nhu cầu lớn về sử dụng lao động nước ngoài, tập trung vào một số
lĩnh vực: lao động giản đơn, nặng nhọc, môi trường làm việc kém, lao động dịch
vụ và giúp việc gia đình, lao động kỹ thuật cao và chuyến gia trong các ngành
công nghệ cao… Trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn tăng cường xuất
khẩu lao động và chuyên gia, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất
khẩu lao động.
- Thuận lợi: xuất khẩu lao động và chuyên gia được Đảng và Nhà nước
quan tâm, đã đổi mới hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế theo cơ chế thị
trường. Đó tớch luỹ được những kinh nghiệm, có lực lượng doanh nghiệp đông
đảo về xuất khẩu lao động. Có nguồn lao động dồi dào, được đánh giá là có trình
độ văn hoá cao, chăm chỉ, sáng tạo, tiếp cận nhanh công nghệ, kỹ thuật sản xuất.
Quan hệ quốc tế của ta đã được mở rộng và nâng cao uy tín.
- Khó khăn: nguồn lao động qua đào tạo nghề nghiệp còn thấp, thiếu lao
động trong những ngành mà thị trường quốc tế có nhu cầu, tác phong làm việc

công nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật của một bộ phận người lao
động của nước ta chưa cao. Phần lớn lao động Việt Nam chưa có trình độ ngoại
ngữ cần thiết để giao tiếp với chủ sử dụng lao động trong làm việc. Lợi thế của
Việt Nam về giá nhân công thấp đang mất dần. Chịu sự canh tranh gay gắt với
lao động của các nước đã đi trước và có chỗ đứng, có uy tín trên thị trường.
2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển thị
trường xuất khẩu lao động trong điều kiện hội nhập quốc tế
2.1 Phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu lao động
Căn cứ vào thị trường lao động quốc tế, khả năng cung ứng lao động xuất
khẩu của Việt Nam, trong những năm tới, để đẩy mạnh phát triển thị trường xuất
khẩu lao động phải tập trung vào các hướng sau đây:
- Đa phương hoá thị trường xuất khẩu lao động. Muốn xuất khẩu được lao
động thì phải tìm ra được thị trường nhập khẩu lao động, đồng thời chấp nhận sự
cạnh tranh quốc tế giữa các quốc gia xuất khẩu lao động. Trong điều kiện toàn
cầu hóa, các nước xuất khẩu lao động cạnh tranh quyết liệt để giành giật thị
17


trường và phần thắng luôn thuộc về các nước có chiến lược đúng đắn, tiềm lực
mạnh trong hoạt động xuất khẩu lao động. Vì vậy, đa phương hoá thị trường
xuất khẩu lao động là hướng quan trong để tạo lập, giữ vững và mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động. Từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo, nước
ta cần mở rộng địa bàn xuất khẩu lao động sang tất cả các nước trên thế giới có
nhu cầu nhập khẩu lao động Việt Nam, không phân biệt chế độ xã hội, chính trị,
phong tục tập quán, tôn giáo. Cụ thể là:
+ Tăng cường xuất khẩu lao động sang các nước trong khu vực: Malaixia,
Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước Trung Đông.
+ Tạo bước đột phá sang thị trường lao động Châu Mỹ, Châu Phi và Tây
Âu.
Đa phương hoá thị trường xuất khẩu lao động, cho phép chủ động hoạt

động xuất khẩu lao động giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
và tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
- Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu lao động: cần đẩy mạnh xuất khẩu
lao động theo hình thức “xen ghộp” đưa lao động Việt Nam sang làm việc cùng
với công nhân nước sở tại, trong dây chuyền sản xuất theo hiệp định của Chính
phủ. Đồng thời phải phát triển thêm nhiều hình thức xuất khẩu lao động mới,
phù hợp với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, như: xuất khẩu
theo hợp đồng giữa các tổ chức có chức năng xuất khẩu lao động của nước ta
với nước nhập khẩu lao động, xuất khẩu lao động theo hợp đồng giữa cá nhân
người lao động Việt Nam với các tổ chức cá nhân nước ngoài, xuất khẩu lao
động theo các hợp đồng nhận thầu xây dựng công trình ở nước ngoài…
- Đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề phục vụ hoạt động xuất khẩu lao động.
Trên cơ sở tiếp thị, tìm hiểu ngành nghề thị trường lao động quốc tế đang cần
phải phát huy những ngành nghề Việt Nam hiện có đồng thời phải phát triển
thêm nghề mới như: thuyền viên tau cá và tàu vận tải, giúp việc gia đình, chuyên
gia nông học…
- Chuẩn bị nguồn lao động phục vụ hoạt động xuất khẩu lao động hay
nguồn cung lao động xuất khẩu là công việc phải đặt lên hàng đầu, tạo điều kiện
cho phát triển thị trường xuất khẩu lao động. Chất lượng nguồn lao động tốt là
điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường xuất khẩu lao động bền vững. Tuy
nhiên, muốn có nguồn lao động tốt, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu phải có chiến lược
tạo lập và phát triển nguồn, đảm bảo đầy đủ các thông số: số lượng, chất lượng,
cơ cấu ngành nghề… Đáp ứng thị trường lao động quốc tế. Bởi vậy phát triển
nguồn lao động là công việc không phải của riêng từng chủ thể khi tham gia thị
trường xuất khẩu lao động, mà đó là nhiệm vụ chung của Nhà nước, các cấp, các
18


ngành, các doanh nghiệp và bản thân người lao động. Trong đó, có sự phân
công, phân cấp rõ ràng từ việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho đến kế hoạch

đưa và quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh
tế, chính trị, xã hội. Xuất khẩu lao động là xuất khẩu một loại hàng hoá đặc biệc,
hàng hoá sức lao động. Hoạt động xuất khẩu lao động có tác động đa chiều cả về
kinh tế, chính trị, xã hội, do đó, khi tính toán hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu
lao động nói chung, phát triển thị trường xuất khẩu lao động phải đảm bảo mục
tiêu kép: hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả chính trị, xã hội. Hiệu quả kinh
tế của hoạt động xuất khẩu lao động là kết quả cao nhất có thể thu được từ hoạt
động xuất khẩu lao động sau khi đã trừ đi chi phí, biểu hiện cụ thể là số ngoại tệ
ròng thu về hàng năm cho đất nước, doanh nghiệp và cho người lao động. Hiệu
quả chính trị của hoạt động xuất khẩu lao động chính là việc tạo lập được môi
trường chính trị ổn định, tăng cường và phát triển các mối bang giao quốc tế,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình chính trị, xã hội ở trong
nứơc, khu vực và thế giới. Hiệu quả xã hội của hoạt động xuất khẩu lao động là
đảm bảo việc làm, tăng thu nhập ở mức cao nhất có thể cho quốc gia doanh
nghiệp và người lao động, thực hiện công bằng dân chủ ngay trong hoạt động
xuất khẩu lao động.
Phát triển thị trường xuất khẩu lao động phải hướng tới mục tiêu đảm bảo
hiệu quả kép. Nếu quá nhấn mạnh một trong ba phương diện trên sẽ ảnh hưởng
tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu lao động và rộng hơn là sự phát triển bền vững
của đất nước.
- Tuân thủ nguyên tắc thị trường trong hoạt động xuất khẩu lao động. Căn
cứ vào cầu về lao động trên thị trường lao động quốc tế để xây dựng chiến lược
tạo nguồn thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động.
Chấp nhận sự tham gia của các thành phần kinh tế và cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế đó trong hoạt động xuất khẩu lao động trên cơ sở pháp định.
Chấp nhận sự cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, nhất là các
nước xuất khẩu lao động trong khu vực.
2.2 Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu
lao động

a) Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế
Nghiên cứu thị trường lao động quốc tế là công việc rất quan trọng trong
việc mở rộng hay thu hẹp thị trường xuất khẩu lao động. Nghiên cứu thị trường
lao động quốc tế nhằm hiểu rõ nhu cầu về lao động đối với từng ngành nghề và
xu hướng biến động của cơ cấu ngành nghề đó trên thị trường lao động quốc tế,
19


hiểu chính sách, pháp luật, tôn giáo, tín ngưỡng của nước nhập khẩu lao động…
Trên cơ sở đó, xây dựng và điều chỉnh các mục tiêu chiến lược cả ngắn hạn
trung hạn và dài hạn để phát triển thị trường lao động. Nhà nước, các cơ quan
chức năng, doanh nghiệp và cá nhân người lao động phải phối hợp chặt chẽ, xác
định rõ vai trò, trách nhiệm cụ thể để thâm nhập thị trường mới đang còn bỏ ngỏ
và giữ vững thị trường truyền thống.
Nhà nước tiếp tục củng cố, mở rộng và phát triển các quan hệ ngoại giao
với các nước trên thế giới, tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định khung về
xuất khẩu lao động với các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc, mở đường cho phát triển thị trường xuất khẩu lao động.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tích cực chủ động khai thác, tìm kiếm và
phát triển thị trường, nhất là những thị trường trọng điểm nh: Malaixia, Đài
Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Phát triển mạnh các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế
nhằm cung cấp thông tin nhanh, kịp thời, chính xác cho các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động. Dự báo nhu cầu lao động xuất khẩu của từng thị trường để các
doanh nghiệp chủ động xây dựng các đề án cụ thể, chuẩn bị nguồn lao động xuất
khẩu cho tốt. Các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế cần phải
phối hợp với các doanh nghiệp, với các cơ quan ngoại giao của Việt Nam, tích
cực quảng cáo, chào hàng về khả năng cung cấp lao động, các loại ngành
nghề… của Việt Nam trờn các trang web, quy định rõ vai trò trách nhiệm của cơ

quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài trong việc phát triển thị trường xuất khẩu
lao động, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình sử dụng lao động
của chủ sử dụng lao động nước ngoài, giữa Nhà nước ta với nước nhập khẩu lao
động và các công ty môi giới nhập khẩu lao động Việt Nam.
b) Nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vụ xuất khẩu lao động
Để nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vô xuất khẩu lao động, cần
thực hiện tốt những công việc sau:
Về tuyển chọn lao động phải triển khai sâu, rộng mô hình liên thông giữa
các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động, chính
quyền các cấp ở địa phương, nhất là khu vực nông thôn nhằm tuyển chọn những
lao động đủ tiêu chuẩn: lý lịch rõ ràng, sức khoẻ tốt, đảm bảo yêu cầu về trình độ
văn hoá, chuyên môn và tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài. Đối tượng tuyển
chọn đi xuất khẩu lao động nên hướng vào lực lượng học sinh tốt nghiệp phổ
thông trung học. Đây là lực lượng dồi dào bổ sung cho nguồn lao động xuất khẩu.

20


Về đào tạo-bồi dưỡng, trên cơ sở nghiên cứu cầu về lao động ở từng loại
thị trường, xây dựng chiến lược đào tạo bồi dưỡng lực lượng lao động xuất khẩu
cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Nên
chăng phân chia thành các loại ngành nghề phù hợp với cầu lao động trên thị
trường lao động quốc tế để đào tạo: đào tạo nghề ngắn hạn ( đối với lao động
giản đơn) và đào tạo nghề dài hạn (đối với lao động kỹ thuật). Tiến hành đào tạo
toàn diện cho người lao động cả về chuyên môn, ngoại ngữ, giáo dục pháp luật,
phong cách người lao động công nghiệp, phong tục tập quán… của các nước
nhập khẩu lao động. Triển khai rộng rãi mô hình đào tạo nghề gắn với doanh
nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động nhằm xã
hội hoá đào tạo nghề, tăng cường gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp
trong nước.

Về cử tuyển lao động tham gia xuất khẩu sau đào tạo bồi dưỡng: tuyển chọn
lao động đưa đi đào tạo bồi dưỡng chỉ là điều kiện cần để lao động đó tham gia
xuất khẩu lao động. Điều kiện đủ phải xem xét lao động sau đào tạo bồi dưỡng có
đáp ứng được chất lượng đi làm việc ở nước ngoài hay không. Việc tuyển lao động
đưa đi xuất khẩu không qua sát hạch sau đào tạo sẽ không tạo động lực để người
lao động rèn luyện, tu dưỡng nâng cao năng lực của họ cao nhất trước khi xuất
khẩu. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm sức cạnh tranh
của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. Vì vậy, sát hạch đầu ra
đối với lao động xuất khẩu sau đào tạo là công việc cần thiết và phải kiên quyết
thực hiện mới đảm bảo chất lượng của nguồn lao động xuất khẩu.
c) Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại và phát triển hệ thống doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu lao động
Đối với những doanh nghiệp yếu kém về tổ chức bộ máy, về tìm kiếm thị
trường, về cơ sở vật chất và năng lực đưa lao đông đi xuất khẩu, vi phạm pháp
luật…phải chấn chỉnh, đổi mới. Kiên quyết thu hồi giấp phép hoạt động, thậm
chí giải thể với các doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng trong công tác tuyển
chọn lao động đi xuất khẩu, lừa đảo người lao động. Tập trung đầu tư phát triển
hệ thống doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào
tạo bồi dưỡng người lao động, về vốn đầu tư, về khả năng nghiên cứu thị trường,
năng lực tuyển chọn đội ngũ lao động…để các doanh nghiệp này đủ sức cạnh
tranh trên thị trường xuất khẩu lao động, đặc biệt là đủ sức tham gia đấu thầu
quốc tế các dự án sử dụng nhiều lao động.
d) Tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài
chính thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu lao động

21


Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng (chính thức được Quốc hội Việt Nam khóa XI

thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007).
Kết hợp việc thực hiện một cách nghiêm ngặt việc ký quỹ và bảo lãnh
trong xuất khẩu lao động với các biện pháp khác, dựa trên các quy định của
pháp luật dân sự nhằm tăng cường trách nhiệm của người lao động trong việc
thực hiện hợp động lao động với nước nhập khẩu lao động, ngăn chặn tình trạng
vi phạm hợp đồng của người lao động, đảm bảo phát triển thị trường lao động
vững chắc.
Nghiên cứu và quy định lại hợp lý hơn các khoản chi phí dịch vụ tìm việc
làm phù hợp với từng thị trường theo hướng đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của
người lao động và lợi ích quốc gia. Mạnh dạn xét thưởng xứng đáng cho các
doanh nghiệp làm tốt công tác mở rộng thị trường xuất khẩu lao động.
Xây dựng chính sách cho vay tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, nhất là ở
các vùng nông thôn tham gia xuất khẩu lao động, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp
cận và có việc làm ở ngoài nước, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo.
e) Tạo lập môi trường luật pháp thuận lợi, đẩy mạnh thị trường xuất
khẩu lao động
Tiến hành tạo lập môi trường luật pháp trong nước gắn với môi trường
luật pháp ngoài nước về xuất khẩu lao động.
Môi trường luật pháp trong nước phải đồng bộ, thống nhất từ Hiến pháp,
Bộ luật lao động, các Nghị định, Thông tư… tránh chồng chéo và tác động
ngược chiều nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập
trong phát triển thị trường lao động.
Môi trường luật pháp ngoài nước về xuất khẩu lao động là các Hiệp định
pháp lý giữa Việt Nam với các nước nhập khẩu lao động như: Hiệp định nhận trả lao động, Hiệp định tương trợ pháp lý, các quy định về quản lý lao động Việt
Nam… Đây là cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm cũng như giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện
xuất khẩu lao động.
f) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong hoạt động xuất
khẩu lao động
Để kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm của doanh nghiệp

hay cá nhân người lao động tránh gây tổn hại đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã
hội của các quốc gia, cộng đồng và của người lao động, công tác thanh tra, kiểm
tra hoạt động xuất khẩu lao động cần:

22


Tiến hành thường xuyên các cuộc thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu
lao động theo định kỳ và bất ngờ.
Phối kết hợp tốt giữa các cơ quan thanh tra với các cơ quan chức năng
phục vụ công tác xuất khẩu lao động, nhằm phát hiện và xử lý những vi phạm
trong xuất khẩu lao động, chống những hành vi lừa đảo người lao động.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước về xuất khẩu lao động, những quy định về xuất
khẩu lao động nhằm định hướng đúng đắn trong nhận thức của xã hội về xuất
khẩu lao động, thúc đẩy thị trường xuất khẩu lao động phát triển.

23


KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm hoạt động và phát triển,lỉnh vực xuất khẩu lao động đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể.Từ năm 1991 đến nay, bình quân mỗi năm
nước ta đưa được 50-60 nghìn lao động ra nước ngoài làm việc, hàng năm đưa
về nước hàng tỷ USD, hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động ngày càng được
hoàn thiện hơn… Song trong lĩnh vực này còn rất nhiều khó khăn, hạn chế còn
tồn tại như: chất lượng lao động nứơc ta còn hạn chế, lao động bỏ trốn nhiều,
nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, công tác quản lý lao động xuất
khẩu còn lỏng lẻo.. Tất cả những vấn đề này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của hoạt đông xuất khẩu lao động.

Theo chỉ thị 41 CT/TW ngày 22/09/1998 của Bộ Chính Trị về hoạt động
xuất khẩu lao động và chuyên gia: Cùng với giải quyết việc làm trong nước là
chính thì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài
góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp
phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. Xuất khẩu lao
động phải được mở rộng và đa dạng hoá hình thức thị trường xuất khẩu lao
động, phù hợp với cơ chế quản lý có sự quản lý của nhà nước, đáp ứng nhu cầu
của nước ngoài về số lượng, trình độ ngành nghề. Xuất khẩu lao động và chuyên
gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực
lượng lao động kỹ thuật, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao
trong tổng số lao động xuất khẩu và nâng cao trình độ quản lý của các đơn vị
xuất khẩu lao động, mặt khác phải chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ta và nước mà
người lao động sống và làm việc.
Xuất khẩu lao động không chi mang lại lợi ích kinh tế mà nó còn mang lại
lợi ích xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm hơn đến lĩnh vực này,
khắc phục những tồn tại, phát huy những thế mạnh của lao động Việt Nam trên
thị trường lao động quốc tế,việc xuất khẩu lao động sẽ góp phần không nhỏ vào
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

24



×