Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ung dung CNTT trong quan ly chi dao truong hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.19 KB, 11 trang )

Cải tiến kỹ thuật: Ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác dạy học, các hoạt động của trường học.
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
A. Lý do chọn sáng kiến cải tiến kỹ thuật:
I. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công
nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xử lý thông tin. Theo quan niệm
này thì CNTT là một hệ thống các phương pháp khoa học, công nghệ, phương
tiện, công cụ, chủ yếu là máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ
liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá... của con
người.
Ngày nay, khi công nghệ thông tin (CNTT) càng phát triển thì việc phải ứng
dụng CNTT vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục
đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, nhiều đơn vị
đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện
nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở một số trường học nước ta còn rất
hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng
dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực
CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu
quả cho công việc của mình, mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm
thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới
“xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy
sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ
giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT
như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các
môn”.
Trong Giáo dục đào tạo, CNTT đã góp phần hiện đại hoá phương tiện,
thiết bị dạy học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học.( Thiết bị dạy học,


không chỉ còn là thước kẻ, compa, bảng phụ... mà là máy tính, máy chiếu…)
1


Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và hiệu quả to lớn của nó.
Nhà nước, Chính phủ và ngành giáo dục đã có các văn bản chỉ thị đối với việc
ứng dụng CNTT vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và phát
triển ngành giáo dục nói riêng.
Từ năm học 2008 - 2009 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chọn việc
ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy là chủ đề năm học cho toàn ngành
giáo dục.
Như vậy việc hiểu biết và ứng dụng được CNTT đối với mỗi người nói
chung và đối với mỗi giáo viên nói riêng là rất cần thiết và cấp bách. Đối với
công tác quản lý việc ứng dụng CNTT là cần thiết hơn bao giờ hết.
Với mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường là sử dụng CNTT
như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất
lượng quản lí nhà trường; giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao chất lượng dạy
học; trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như
một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện học
sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kì hiện đại hoá.
Lãnh đạo nhà trường sử dụng CNTT để quản lí kế hoạch của các tổ chức
đoàn thể, các tổ chuyên môn, lịch dạy học của giáo viên, soạn thảo và quản lí
các văn bản chỉ đạo và báo cáo của nhà trường.
Trong cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương về đạo đức tự học
và sáng tạo” hiện nay, nhà quản lý giáo dục “nói cần đi đôi với làm”, nhà quản
lý phải là người tiên phong trong việc ứng dụng CNTT. Hiệu quả quản lý sẽ thấp
nếu người quản lý giáo dục chỉ hô hào, vận động giáo viên ứng dụng CNTT vào
đổi mới phương pháp dạy học, trong khi nhà quản lý giáo dục lại không biết ứng
dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý của mình.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong công tác quản lý

tại cơ sở giáo dục quả là một điều cần trăn trở. Với phạm vị sáng kiến cải tiến kỹ
thuật này, tôi sẽ đưa ra một số ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như
những việc làm cụ thể trong việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý tại
Trường PTDTBT Tiểu học Tả Sìn Thàng trong các năm học qua để cùng các bạn
đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt hơn nữa trong công tác quản
lý.
2


II.

Cơ sở thực tiễn
Hiện nay không chỉ ngành giáo dục mà ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn

hóa, khoa học kỹ thuật đều triển khai, áp dụng rộng rãi mô hình quản lý và triển
khai hiệu quả công việc bằng Email điện tử và đăng tải công khai thông tin trên
website.
Đối với đơn vị nhà trường rất cần thiết áp dụng việc ứng dụng CNTT vào
hoạt động dạy học, tổ chức đoàn thể, các bộ phận, các tổ trưởng chuyên môn của
nhà trường, và tới toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường.
Nhằm giúp đỡ cán bộ giáo viên nhà trường làm việc nhanh, hiệu quả
trong công tác thực hiện nhiệm vụ giáo dục, cũng như công tác giảng dạy. Tạo
điều kiện cho cán bộ giáo viên có cơ hội giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong
công tác, cũng như kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
Rèn luyện cho cán bộ giáo viên có kỹ năng trong công tác truy cập
Internet để tìm kiếm thông tin, cũng như tìm kiếm các tư liệu phục vụ nhiệm vụ
công tác giáo dục, công tác giảng dạy bộ môn. Rèn luyện cho bản thân không
ngừng học tập nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong công tác khai thác, ứng
dụng và sử dụng công nghệ thông tin.
Trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ hiểu rõ hơn về CNTT, từ

đó vận dụng vào giảng dạy hiệu quả hơn. Xác định ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Đề xuất một số giải pháp nhằm đáp
ứng tốt việc ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học đạt kết quả cao.
B. Giới hạn đề tài:
Tại trường PTDTBT Tiểu học Tả Sìn Thàng thuộc phòng Giáo dục và
Đào tạo Tủa Chùa.
Thời gian nghiên cứu áp dụng trong vòng 03 năm. Bắt đầu từ năm học
2015 - 2016 tại trường PTDTBT Tiểu học Tả Sìn Thàng.
Năm học 2015 - 2016 triển khai rộng rãi đến toàn thể cán bộ giáo viên hệ
thống trang thông tin điện tử của trường
PHẦN II: NỘI DUNG
I.
Thực trạng vấn đề:
1.
Thuận lợi
Trong nhiều năm qua nhà trường luôn đi đầu trong các phong trào thi đua của
ngành, các cuộc vận động nhà trường luôn đạt kết quả cao và nhiều năm đạt
danh hiệu tập thể lao động xuất sắc.
3


Bản thân tôi tiếp thu đầy đủ các chỉ thị, văn bản của các cấp, ngành về nhiệm
vụ trọng tâm của từng năm học theo chỉ thị số: 03/CT-TW ngày 14/05/2011. Từ
đó tôi xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế
của địa phương, của trường, lớp phụ trách.
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của SGD& ĐT Điện biên, PGD& ĐT
huyện Tủa Chùa, BGH Trường PTDTBT Tiểu học Tả Sìn Thàng đã quan tâm
giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT do Tỉnh mở tại trung tâm Tin học nên có
sẵn trong mình những hiểu biết về Powerpoint, Internet. Đồng thời tôi cũng là

một giáo viên trẻ năng động và có kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc
các bước lên lớp và kĩ năng sư phạm cần thiết để tổ chức các hoạt động giáo dục
có hiệu quả.
Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn các lớp
tin học về CNTT do phòng giáo dục tổ chức. Đồng thời tôi cũng không ngừng
học tập, tìm hiểu về những phần mềm đồ họa khác để lấy thêm kiến thức cũng
như sưu tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc thiết kế bài giảng sinh động hấp
dẫn.
Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên
nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục được gắn bó với đồng
nghiệp, thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và nhiệt
huyết để nâng cao chất lượng giảng dạy trong từng hoạt động nói chung và
những khám phá về tin học nói riêng.
2.
Khó khăn.
Trình độ về CNTT của giáo viên còn hạn chế, thời gian đứng lớp cả ngày nên
thời gian nghiên cứu còn hạn chế. Hơn nữa trình độ đào tạo không đáp ứng yêu
cầu, nắm bắt phương pháp giảng dạy mới còn rất nhiều hạn chế. Trình độ nhận
thức của một số giáo viên không đồng đều, khả năng ngoại ngữ của giáo viên
không có.
Một vài giáo viên năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. Cách soạn giảng
giáo án điện tử còn nhiều lúng túng chưa linh hoạt.
Việc sử dụng thiết bị dạy học còn mang nặng tính hình thức, chưa thường
xuyên, liên tục. Dấu dốt ngại hỏi, ngại phát biểu ý kiến.
4


Thiết bị dạy hiện đại tuy đã có nhưng đã cũ, do đó chất lượng chưa cao nên
đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT của GV.

Đảng uỷ, chính quyền địa phương và nhân dân đã quan tâm tới giáo dục
nhiều hơn, xong còn chưa cụ thể, hỗ trợ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ
giáo viên, nhân viên nhà trường chưa được nhiều. Phụ huynh học sinh bận buôn
bán nên nhiều học sinh ở với Ông Bà vì vậy việc phối hợp và truyên truyền với
phụ huynh chưa được thường xuyên.
Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa
được nghiên cứu kỹ dẫn đến việc ứng dụng CNTT không đúng chỗ, không đúng
lúc nhiều khi quá lạm dụng. Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức CNTT chuyên sâu
cho giáo viên chưa được nhiều, trường chưa có phòng máy tính riêng nên trẻ sử
dụng máy tính chưa được nhiều.
3.
Hạn chế
Thực tế khi không ứng dụng CNTT vào quản lý tôi thấy ở Trường
PTDTBT Tiểu học Tả Sìn Thàng có những hạn chế như sau:
Việc tra cứu văn bản, nhất là các văn bản, các kế hoạch ban hành cách đây
đã lâu thì việc tìm các văn bản này trong tập hồ sơ lưu trữ là một vấn đề không
đơn giản, phải mất khá nhiều thời gian nếu cần ngay các văn bản này để giải
quyết công việc thì không thể đáp ứng được.
Để phục vụ thống kê báo cáo phải huy động một lực lượng lớn CBGV,
CNV ở nhiều bộ phận khác nhau. Đơn cử như báo cáo chất lượng giảng dạy của
giáo viên thì phải huy động hết giáo viên trong trường, các tổ trưởng chuyên
môn, bộ phận văn phòng để tổng hợp, lãnh đạo phải kiểm tra lại thông tin báo
cáo. Nếu các báo cáo này cần phân loại theo giới tính, lớp, môn…thì còn đòi hỏi
nhân lực và thời gian nhiều hơn. Tuy số lượng tham gia đông, thời gian nhiều,
nhưng nhiều khi số liệu lại không khớp giữa các môn, các khối làm ảnh hưởng
đến tổng hợp báo cáo của toàn trường thiếu độ chính xác.
Công tác thống kê kế hoạch đầu năm học, thống kê chất lượng giữa kỳ,
cuối năm việc so sánh chất lượng học tập và giảng dạy giữa các lớp, giữa các
giáo viên , giữa các năm học không thể thực hiện được, việc đánh giá mang
nặng cảm tính, đánh giá chung chung nên khó có thể có các quyết định quản lý

để điều chỉnh mang tính kịp thời, thuyết phục.
5


Đội ngũ giáo viên: Đa số là giáo viên có tuổi đời cao nên trình độ Tin học,
kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ còn hạn chế, kết quả thống
kê tháng 9/2015: Tổng số CB, GV, NV: 32 đồng chí ( Không tính GVHĐ );
Trong đó số CB,GV, NV có chứng chỉ A và B: 12 đạt tỷ lệ 37,5% ( A = 2; B = 10
); Mặc dù đã có chứng chỉ nhưng kỹ năng sử dụng máy vẫn rất hạn chế do
không thường xuyên rèn luyện, không tranh thủ thời gian để học tập nâng cao
tay nghề, hoặc do điều kiện không có máy để rèn luyện. Một số người sử dụng
máy do thiếu kiến thức bảo quản máy nên chất lượng máy tính và các thiết bị
nhanh xuống cấp, hư hỏng ảnh hưởng đến quá trình sử dụng.
Tại thời điểm tháng 9 năm 2015 số lượng giáo viên soạn bài trên máy còn
hạn chế, việc sử dụng thiết bị dạy học có liên quan như máy chiếu đa năng, máy
chiếu hắt chỉ đầu tư vào một số tiết phục vụ thao giảng hoặc kiểm tra toàn diện ở
trường.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho
việc dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế: Năm học
2015 – 2016 toàn trường chỉ có 3 máy vi tính, trong đó Hiệu trưởng 1 máy; Kế
toán văn phòng 1 máy; Chuyên môn và các hoạt động khác 1 máy.
Với một thực trạng như thế việc đưa CNTT vào công tác quản lý nhà
trường không chỉ là một nhu cầu tất yếu mà còn bảo đảm sự tồn tại và phát triển
của nhà trường trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của giáo dục và đào tạo.
II. Những giải pháp thực hiện:
2.1 Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho mọi cán bộ, giáo viên và nhân viên
thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi
mới phương pháp giảng dạy thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của
Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi sinh hoạt

chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc
triển khai các cuộc thi kỹ năng sử dụng vi tính các tiết dạy có ứng dụng CNTT
do trường tổ chức.
Phát động sâu rộng phong trào sử dụng CNTT trong dạy học và đề ra chỉ
tiêu cụ thể về số tiết dạy học có ứng dụng CNTT đối với mỗi giáo viên để chính
họ có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả của việc ứng
6


dụng CNTT trong giảng dạy, đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn hiện nay.
2.2- Nâng cao trình độ Tin học cho đội ngũ
Nhà trường, Công đoàn làm tốt công tác động viên CB, GV và NV tham
gia các lớp học tập để có chứng chỉ Tin học do các Trung tâm dạy nghề mở, đây
vừa là yêu cầu nâng cao trình độ vừa đáp ứng việc đẩy mạnh CNTT trong nhà
trường.
Nhà trường bố trí giáo viên Tin học sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho giáo
viên kỹ năng sử dụng máy và một số thao tác soạn thảo văn bản tạo điều kiện
cho giáo viên học tập nâng cao trình độ Tin học, đồng thời bố trí sắp xếp để mọi
cán bộ giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT do
nhà trường tổ chức.
Bố trí sắp xếp và đầu tư trang thiết bị tin học, phòng máy tính, kết nối
mạng Internet để cán bộ giáo viên có điều kiện truy cập, khai thác sử dụng
Internet tìm kiếm thông tin, tư liệu giảng dạy thông qua website Sở, phòng, Bộ
GD&ĐT và các đơn vị bạn.
2.3- Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT
Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết
căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi
giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng
chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một,

ngược lại chỉ với chứng chỉ A –Tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học
hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn).
Nhận thức được điều đó, nhà trường cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng
CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như:
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và sử dụng các
phần mềm soạn giảng, hướng dẫn hàng ngày lấy thông tin từ các trang website,
các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi
các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, chụp ảnh,
cách thiết kế đề kiểm tra,...
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm
ứng dụng CNTT trong giảng dạy.

7


- Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng
dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho
giáo viên (bằng cách làm này nhà trường sẽ có nhiều tài liệu hay, dễ dàng cho
giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn
sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử,...)
- Động viên giáo viên tích cực tự học tập, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng
chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; lãnh đạo
nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi
chuyên môn tích cực.
- Tích cực tham gia các cuộc thi ứng dụng CNTT do các cấp tổ chức. Bởi
vì khi tham gia bất cứ cuộc thi nào yêu cầu sản phẩm cũng đòi hỏi người tham
gia cuộc thi phải có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian, công sức, chất xám và cả
việc phải học hỏi ở những người giỏi hơn. Như vậy, vô hình chung cả việc rèn
kỹ năng, tự học và học hỏi đồng nghiệp đều được đẩy mạnh.
Để làm được điều đó, BGH đặc biệt là các phó hiệu trưởng, các tổ trưởng

chuyên môn phải luôn quan tâm sâu sát, đi đầu gương mẫu, cùng học hỏi - cùng
làm với giáo viên thì mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu
nào, cần giúp đỡ gì? Nói đi đôi với làm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất
để thúc đẩy phong trào phát triển.
- Tham gia sử dụng “nguồn học liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham
khảo, tài nguyên dùng chung trên websile Sở, phòng và các đơn vị bạn.
- Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác
quản lý và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa
chỉ hoặc mở liên kết với trang web của trường.
- Tăng cường việc khai thác sử dụng hệ thống thư điện tử để tăng tiện ích,
hiệu quả trong trao đổi cập nhật thông tin. Yêu cầu mỗi cán bộ giáo viên lập và
đăng ký một địa chỉ mail cố định với nhà trường. Để việc tham gia có chất
lượng, nhà trường cần lên kế hoạch cụ thể từ khâu chọn cử giáo viên, tổ chức tập
huấn, trao đổi kinh nghiệm, động viên tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết
bị cho giáo viên.
2.4- Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT

8


Xây dựng hệ thống mạng nội bộ do nhà trường hợp đồng lắp đặt (Kết nối
mạng không dây) đặt tại phòng Hiệu trưởng nhà trường , ở bất kỳ vị trí nào trong
khu vực nhà trường CB, GV, NV cũng có thể truy cập Internet miễn phí. Tại lớp
học khi thực hiện các tiết dạy có hỗ trợ CNTT giáo viên có thể liên kết đến các
trang Website để phục vụ tốt cho bài giảng.
Khuyến khích CBGV mua máy vi tính, kết nối Internet. Kết quả đến
tháng 4/2017 toàn trường có 20/35 CB, GV, NV có máy vi tính, máy in; có 20
CB, GV, NV kết nối Internet.
2.5- Xây dựng kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng CNTT giai đoạn 2015 – 2020
và quy chế hoạt động của trang thông tin điện tử của trường (có kế hoạch và

quy chế cụ thể, trong phạm vi sáng kiến này bản thân tôi chỉ trao đổi một số nội
dung cần thiết ):
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch đẩy mạnh CNTT giai đoạn 2015 – 2020:
Tiếp tục đẩy mạnh CNTT vào quản lý nhà trường và phục vụ công tác dạy học
đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đào tạo. Trong 5 năm tới, CNTT của nhà
trường phải được phát triển cả về số lượng và chất lượng, phát triển mạnh các
ứng dụng nhằm đưa CNTT thực sự là công cụ chủ yếu giúp nhà trường cải cách
hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; hiện đại hóa các khâu, các công
việc quản lý, dạy học; góp phần đưa nhà trường hội nhập sâu rộng và vận dụng
được mọi tiến bộ của nền giáo dục hiện đại vào sự nghiệp của Ngành nói chung,
nhà trường nói riêng, giúp toàn ngành vượt lên, tiếp cận, đuổi kịp và vượt chất
lượng của nền giáo dục và đạo tạo các đơn vi các tỉnh có nền giáo dục phát triển
trong khu vực miền Trung và cả nước.
Để phát huy hiệu quả Website trong chỉ đạo mọi hoạt động của trường
góp phần đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quản lý chỉ đạo, nhà trường đã quy
định cụ thể cho các tổ chức đoàn thể, cá nhân trong khai thác sử dụng trang
thông tin điện tử như việc gửi đăng kế hoạch tuần, tháng, kỳ; Việc tuy cập thông
tin thực hiện tối thiểu 2 lần/ngày.v.v.v.
III. Kết quả đạt được:
Về phía đội ngũ: Nâng cao nhận thức về tin học và ứng dụng CNTT trong
nhà trường cho cán bộ, giáo viên và nhân viên. Đến nay 62,5% CB, GV, NV đã
có trình độ Tin học từ chứng chỉ A trở lên, đặc biệt 50% giáo viên đều soạn bài
9


bằng máy tính. 100% CB, GV và NV đều sử dụng thành thạo hộp thư nội bộ để
chia sẽ và trao đổi kinh nghiệm cho nhau.
Về phía nhà trường: Điều kiện CSVC không ngừng được đầu tư và tăng
trưởng, Đến nay việc thực hiện kế hoạch đẩy mạnh CNTT giai đoạn 2015 –
2020 cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 và đang thực hiện giai đoạn 2.

Hoạt động trang thông tin điện tử của trường: Công tác thông tin chỉ đạo
của nhà trường đều thông qua gmail của trường đã trở thành nền nếp, do vậy
thời gian dành cho hội họp giảm nhiều tiết kiệm được quỹ thời gian cho việc làm
chuyên môn và tổ chức các hoạt động khác.
Về tính thân thiện mà CNTT đã mang lại cho nhà trường:
CNTT tạo môi trường làm việc khoa học, vui vẻ, phấn khởi trong nhà
trường (xử lý công việc nhanh, chính xác)
CNTT giúp cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên (CBGV) Trường PTDTBT
Tiểu học Tả Sìn Thàng giảm được sức ép về công việc, chia sẽ thông tin (Hỗ trợ
giờ dạy, Thống kê phổ cập, xử lý các loại báo cáo, quản lý chất lượng, hỗ trợ tự
học, học ngoại ngữ vv…)
Đối với cán bộ quản lý: (Ngoài các nội dung thân thiện trên còn có
thêm)
CNTT giúp CBQL có cái nhìn tổng quát, có tầm nhìn, học hỏi được nhiều,
làm việc khoa học.
CNTT giúp người quản lý thấy được nhiều sự việc thông qua việc phân
tích, xử lý số liệu kết hợp cùng quan sát thực tiễn, nhờ vậy đánh giá chính xác,
công bằng các việc làm của giáo viên và học sinh từ đó thúc đẩy nhà trường phát
triển trong thế ổn định.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Hiệu quả mang lại:
Để ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý các hoạt động giáo
dục, bản thân người quản lý phải có một số vốn kỹ năng về vi tính giúp cho việc
soạn thảo, lấy tư liệu, hoặc thiết kế được dễ dàng.
Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và giảng dạy ban đầu là một
bài toán khó với các nhà quản lý, nhưng qua một thời gian không dài, kết quả đã
cho thấy hiệu quả tích cực khi CNTT mang lại cho cả đội ngũ thầy và trò không
gian mới nhiều hứng thú trong lớp học. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số
phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, giáo viên có thể tổ chức tiết học
10



một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại
gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc
với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn kinh ngiệm hiểu biết của mình.
Tuy nhiên, nhà trường cũng xác định rõ: Việc ứng dụng CNTT không
đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận
lợi cho triển khai tích cực hiệu quả công việc chứ không phải là điều kiện đủ của
đổi mới phương pháp làm việc. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không
tác động tích cực đến quá trình công tác giáo dục. Để đội ngũ đạt chuẩn về trình
độ, kỹ năng sử dụng tin học, mạng Internet thì điều kiện tiên quyết là việc khai
thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu phục vụ thiết thực, sát đáng trong công
việc, không lạm dụng quá vào công việc khác như vui chơi, giải trí, lang thang
trên mạng.
2.
Đề xuất – Kiến nghị
Việc ứng dụng CNTT vào công tác giáo dục đòi hỏi rất nhiều điều kiện về
cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh
việc ứng dụng và phát triển CNTT trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục có hiệu
quả, cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ
của ngành, của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm
của bản thân mỗi cán bộ giáo viên trong công tác này.
Trên đây là những kinh nghiện của bản thân tôi đúc rút được trong quá
trình chỉ đạo ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nhà trường. Những kinh
nghiệm này còn mang tính cá nhân, chủ quan của bản thân. Tôi rất mong được
sự góp ý của lãnh đạo cấp trên, sự trao đổi của đồng nghiệp để các kinh nghiệm
này được hoàn chỉnh hơn, áp dụng được rộng rải hơn. /.
Tả Sìn Thàng, ngày 03 tháng 4 năm 2018
NGƯỜI VIẾT ĐƠN
(Ký, ghi rõ họ tên)


11



×