Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề bản thể luận trong phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.29 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC......................................................................................................................................................1
1. Quan điểm của Đạo Phật về vấn đề bản thể luận..................................................................................1
1.1. Quan niệm về bản thể luận..............................................................................................................1
1.2. Bản thể luận trong Đạo Phật............................................................................................................2
1.2.1. Nguồn gốc ra đời của Đạo Phật................................................................................................2
1.2.2. Quan điểm của Đạo Phật về bản thể luận................................................................................3
2. Những đóng góp và hạn chế của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.........................5
2.1. Những đóng góp của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.....................................5
2.1.1. Đóng góp của Đạo Phật đến đời sống kinh tế ở Việt Nam......................................................5
2.1.2. Đóng góp của Đạo Phật trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam..................................6
2.1.3. Đóng góp của Đạo Phật trong giáo dục ở Việt Nam................................................................7
2.1.4. Đóng góp của Đạo Phật trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần giữ gìn an
ninh trật tự và bảo vệ chủ quyền quốc gia.........................................................................................8
2.2. Những hạn chế của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.......................................9
* Kết luận...................................................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................11


1. Quan điểm của Đạo Phật về vấn đề bản thể luận
1.1. Quan niệm về bản thể luận
Dù được nhắc đến nhiều hay ít, bản thể luận vẫn một vấn đề rất được quan
tâm trong triết học cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Ở triết học phương Tây, tên gọi “bản thể luận” chỉ mới xuất hiện vào thế
kỷ XVII trong tác phẩm “Lexicon philosophicum” (Bách khoa thư triết học) của
triết gia R.Conelius được xuất bản ở Đức năm 1613, nhưng tư tưởng về bản thể
luận đã có từ thời cổ đại. Nói một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là
học thuyết về tồn tại và “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học
phương Tây. Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết
hợp giữa hai từ “on” – nghĩa là cái thực tồn, cái đang tồn tại và “logos” nghĩa là


lời lẽ, học thuyết, tạo thành học thuyết về tồn tại. Theo nghĩa đó, bản thể luận
cùng nghĩa với siêu hình học – một hệ thống những định nghĩa phổ biến có tính
chất tự biện về tồn tại.
Trong thời trung đại hậu kỳ, các triết gia Thiên Chúa giáo mưu toan lợi
dụng tư tưởng của Arixtốt về siêu hình học để xây dựng học thuyết Chúa là tồn
tại duy nhất vĩnh hằng nhằm chứng minh về mặt triết học cho các chân lý của
tôn giáo. Trong thời cận đại (khoảng thế kỷ thứ XVI), người ta bắt đầu hiểu bản
thể luận là một bộ phận đặc biệt của siêu hình học, là học thuyết về cơ cấu của
siêu cảm giác, phi vật chất của tất cả những gì đang tồn tại.
Trong triết học tư sản thế kỷ XX, do có sự phản ứng đối với việc phổ biến
những trào lưu duy tâm chủ quan nên đã có những phong trào mưu toan xây
dựng một “bản thể luận mới” trên cơ sở duy tâm khách quan. Trong những học
thuyết về bản thể luận mới, người ta hiểu bản thể luận là một hệ thống những
khái niệm phổ biến về tồn tại nhưng chỉ có thể hiểu được nhờ cảm giác siêu cảm
tính và siêu lý tính.
Còn trong triết học Mác, bản thể luận là một khái niệm cơ bản của triết học,
là thuật ngữ chỉ rõ quan điểm của con người nhìn nhận thế giới: Vật chất là
khách quan? Vật chất có trước hay ý thức có trước? Cái nào quyết định cái nào?
Nội hàm của nó được gọi là vấn đề cơ bản của triết học
1


Còn trong triết học phương Đông, do đặc điểm chung là triết học về con
người và hướng vào con người nên bản thể luận có phần mờ nhạt hơn so với
triết học Phương Tây, được thể hiện qua một số thuật ngữ như “thiên” – trong
Nho Giáo, “Thái Cực” “Đạo” – trong Đạo giáo, hay “Âm dương – ngũ hành”
trong trường phái Âm Dương – Ngũ hành… Tương tự như vậy, bản thể luận của
Đạo Phật được khái quát qua những thuật ngữ như: “ vô thường – vô ngã”,
“danh – sắc”, “nhân duyên”…
1.2. Bản thể luận trong Đạo Phật

1.2.1. Nguồn gốc ra đời của Đạo Phật
Đạo Phật (hay Đạo Phật) là một học thuyết triết học – tôn giáo vô thần,
cùng với Nho giáo và Đạo giáo được coi là Tam giáo thống trị rất nhiều thế kỷ
trong tư tưởng Châu Á, ra đời ở Ấn Độ cổ đại.
Ấn Độ cổ đại là một bán đảo bao gồm một vùng đất rộng lớn: toàn bộ lãnh
thổ của Ấn Độ, nước Nêpan và một phần đất của Pakixtan ngày nay. Điều kiện
địa lý tự nhiên ở đây hết sức phong phú và đa dạng với địa hình rừng núi, đồng
bằng, sa mạc, ba mặt giáp biển, và khí hậu giữa các vùng miền rất khác nhau.
Điều đó tạo nên tính đa dạng về văn hóa của Ấn Độ. Có khá nhiều phát minh
quan trọng trong các lĩnh vực toán học, y học, thiên văn, lịch pháp…
Về kinh tế - xã hội: khoảng thế kỉ thứ IV đến thế kỉ thứ III TCN, xã hội Ấn
Độ đã vượt qua trình độ nguyên thủy, tiến vào giai đoạn văn minh. Nền kinh tế
nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã phát triển tới một trình độ
nhất định. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội ở Ấn Độ cổ, trung đại sau
này được C.Mác gọi là “phương thức sản xuất Châu Á” trong đó có sự tồn tại từ
rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “công xã nông
thôn” và chế độ phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã. Trong xã hội tồn tại bốn đẳng
cấp lớn: đẳng cấp Brahamma (tang lữ - những người làm nghề cầu cúng),
Ksatriya (vương công, quý tộc), Vaisya (lớp người bình dân, thợ thủ công, thành
viên công xã nông thôn) và Ksuda (tiện nô – nô lệ). Ngoài ra kết cấu xã hội còn
phức tạp thêm bởi sự phân biệt về tôn giáo, nghề nghiệp, chủng tộc, dòng dõi…

2


Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh kinh tế xã hội đó, là sự kế thừa, tiếp nối
các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một
trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.
Người sáng lập Đạo Phật là Buddha (Trung Quốc dịch là Phật) – có nghĩa
là giác ngộ. Theo một số tài liệu cổ, Buddha vốn là một thái tử, tên là Sidharta

(Tất Đạt Đa) con trai của vua Suddhadana (Tịch Phạn), vua của một nước nhỏ
phía Bắc Ấn Độ. Vì muốn tìm cách giải thoát nhân loại khỏi sự khổ đau trong
vòng luân hồi nên đã bỏ nhà đi tu. Sau khi giác ngộ được tôn vinh là Sakyamuni
(Thích Ca Mâu Ni) – tức là nhà hiền triết xứ Sakya. Sau khi ông chết, các học
trò của ông tiếp tục phát triển tư tưởng của ông, xây dựng thành một hệ thống
tôn giáo – triết học lớn, có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ, sau đó lan ra nhiều vùng thế
giới.
Kinh điển Đạo Phật hiện nay rất đồ sộ, gồm ba bộ phận: Kinh tạng, Luật
tạng và Luận tạng
1.2.2. Quan điểm của Đạo Phật về bản thể luận
Theo quan niệm của Đạo Phật, bản thể là căn bản tự thể của các pháp, mà
pháp là từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng, dù là to nhỏ, hữu hình, vô
hình, chân thực, hư vọng. Từ bản thể hay chân không, do vô minh (sự không
sáng suốt), vọng động mà xuất hiện chúng sinh, các chúng sinh sau khi giải
thoát lại trở về hoà nhập với bản thể tuyệt đối này. Bản thể trong Đạo Phật được
hiểu là Tâm. Đây chính là bản chất tồn tại của thế giới. Cái Tâm ban đầu vốn
tròn đầy, yên tĩnh, chưa xao động. Bản thể của Tâm được ví như mặt nước lặng
trong, do gió thổi (vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt, bong
bóng… Gió ngừng thổi thì sóng hết, bọt tan chúng lại trở về với mặt nước yên
lặng. Đó chính là bản thể của nó. Vậy Tâm là cái bất biến, có sẵn, không thay
đổi. Những biểu hiện biến đổi của tâm là do có tác động từ bên ngoài, có sự tiếp
xúc của “lục căn” (cơ quan cảm giác chủ quan) với “lục trần” (thế giới khách
quan) làm xuất hiện tâm với tính cách là ý thức chủ quan làm tâm xao động,
chạy theo cái ảo, giả mà sinh ra “tham”, “sân”, “si”...
Bên cạnh đó, Đạo Phật cho rằng mọi vật lại được cấu tạo bởi các yếu tố vật
chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Danh và sắc gồm năm yếu tố (ngũ uẩn) là sắc,
thụ, tưởng, hành, thức; trong đó sắc là yếu tố vật chất gồm: địa, thủy, hỏa,
3



phong; còn thụ, tưởng, hành, thức là cảm giác, ấn tượng, tư duy nói chung và ý
thức là những yếu tố tinh thần (danh).
Thế giới sự vật luôn ở trong một chu trình biến hóa không ngừng là sinh –
trụ – dị – diệt (hoặc thành – trụ – hoại – không) được ví như bốn mùa xuân, hạ,
thu đông, ở con người là sinh – lão – bệnh – tử. Trong bốn thời kỳ đó, thời kỳ trụ
lại là hết sức ngắn ngủi, chỉ bằng một satna (từng giây, từng phút, thậm chí chỉ
trong thời gian một cái nháy mắt) nên vạn vật là “vô thường”; tức là, danh và
sắc chỉ tụ hội lại với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái
khác. Bản chất của thế giới là một dòng chuyển biến liên tục không ngừng trong
từng satna, không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, cũng không có kết quả cuối
cùng (vô thủy, vô chung), không có gì là tồn tại vĩnh hằng, bất biến, mọi vật đều
biến đổi liên tục (vạn pháp vô thường), không có gì là thường định. Con người
cũng không tồn tại thực – “vô ngã”, do đó Đạo Phật cho rằng không có những
con người cụ thể - Atman (tiểu ngã), cũng phủ định sự tồn tại của Brahman
(đấng sáng tạo).
Để lý giải cho quá trình chuyển biến không ngừng của đó của thế giới vạn
vật, Đạo Phật đưa ra quy luật nhân quả: một sự vật ra đời là do một nguyên
nhân trước nó, đồng thời nó lại trở thành nguyên nhân của cái sau nó. Cái nhân
nhờ có duyên mới sinh ra quả, quả lại do duyên khác mà tạo thành nhân khác,
nhân khác lại nhờ duyên mà tạo thành quả mới… cứ như vậy, sự tương tác nhân
– quả nối tiếp nhau vô cùng, vô tận tạo nên quá trình biến hóa mãi mãi. Duyên
chính là điều kiện cần thiết trong mối quan hệ tương tác đó. Lý thuyết nhân quả
của Đạo Phật đã giải thích thực chất mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
trong sự vận động, biến hóa của thế giới.
Tuy bản thể luận trong triết học Đạo Phật có tính chất nhị nguyên nhưng
trong đó chưa đựng những yếu tố biện chứng khá sâu sắc, là nền tảng quan trọng
xây dựng nên nhân sinh quan Đạo Phật – triết lý về sự giải thoát con người với
tư tưởng luân hồi nghiệp báo và Tứ Diệu Đế, chỉ ra nỗi khổ đau con người (sinh,
lão, bệnh, tử, ái thụ biệt ly, oán tang hội, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn); nguyên
nhân nỗi khổ đau là tham, sân, si và thập nhị nhân duyên (vô minh, hành, thức,

danh, sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử); phương hướng để thoát
khổ là hướng đến cõi Niết Bàn; và bát chính đạo – con đường thoát khổ (chính
4


kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính
niệm, chính định).
2. Những đóng góp và hạn chế của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay
Đạo Phật ra đời từ thế kỉ thứ VI TCN, tuy nhiên nhờ tính biện chứng và
nhân văn trong bản thể luận và triết lý nhân sinh nên đến nay, Đạo Phật vẫn có
ảnh hưởng không nhỏ đến mọi mặt đời sống của con người Việt Nam.
2.1. Những đóng góp của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay
2.1.1. Đóng góp của Đạo Phật đến đời sống kinh tế ở Việt Nam
Giáo lý nhà Phật hướng đến một xã hội văn minh và tự do, muốn như vậy,
Phật Tổ cũng chỉ ra sự quan trọng của kinh tế đối với cuộc sống, không phải trực
tiếp tham gia phát triển kinh tế mà là sự định hướng ảnh hưởng tinh thần.
Trước hết là ảnh hưởng của giáo lý và triết lý Đạo Phật với nhận thức
chung của người dân – Phật tử; một trong những mặt ảnh hưởng trực tiếp nhất là
việc xây dựng và chăm lo cho đời sống kinh tế gia đình. Cụ thể là việc áp dụng
lời Phật dạy trong việc chi tiêu cá nhân, xây dựng đời sống kinh tế gia đình như:
Khi có tiền thì mỗi gia đình, cá nhân phải biết cách chi tiêu đời sống hàng ngày,
một phần tiết kiệm đề phòng bất trắc hoặc tình huống khẩn cấp xảy ra (tích cốc
phòng cơ) và hai phần để kinh doanh và đầu tư sinh lời.
Đạo Phật tuy không tác động trực tiếp vào việc hoạch định đường hướng
phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương. Song khi có sự tác động của nó thì
vai trò của Đạo Phật sẽ có những ảnh hưởng tích cực tới đời sống kinh tế xã hội
tại những vùng đó: Tác động làm thay đổi nhận thức về tư duy xây dựng kinh tế;
vì mục đích của Đạo Phật là xây dựng đời sống an lạc và giải thoát, nhưng muốn

an lạc thì đời sống kinh tế phải vững mạnh, phát triển kinh tế bền vững và hài
hòa….từ bỏ các tập tục gây dựng kinh tế mà làm phương hại đến môi trường,
sinh thái như tục du canh, du cư, phá rừng phát nương rẫy… Tác động đến tiết
kiệm chi phí, giảm bớt các kinh phí đầu tư cho các tục lệ, hủ tục rườm rà, tốn
kém; qua đó gây dựng nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất, góp phần xóa đói,
giảm nghèo, tập trung phát triển kinh tế. Một trong những sự thay đổi dễ nhận
biết nhất; đó là trước đây thì các hủ tục như ma chay dài ngày, cưới hỏi nhiều
5


thủ tục, nghi lễ và các hủ tục tốn kém đã dần được thay thế bởi các nghi lễ Đạo
Phật trang trọng, đơn giản.
Khi cùng nhau tham gia sinh hoạt hội – đoàn Đạo Phật, bà con đoàn kết
giúp đỡ nhau, tương trợ nhau và cùng nhau học hỏi mô hình sản xuất mới, phù
hợp với đời sống kinh tế và nhịp sống thời đại; ở nhiều nơi bà con có các
chương trình như tương trợ vốn, hùn vốn giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, và buôn bán nông sản….
Ngoài ra, khi hiểu đạo Phật, bà con cũng hiểu được truyền thống của đạo
Phật và lịch sử dân tộc đó là “Đạo Phật đồng hành cùng dân tộc” nên bà con có
tinh thần xây dựng, cùng với chính quyền các cấp thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội địa phương.
2.1.2. Đóng góp của Đạo Phật trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt
Nam
Trong lịch sử truyền đạo, Đạo Phật là tôn giáo của hòa bình, luôn luôn uyển
chuyển theo hoàn cảnh và căn cơ của cư dân từng quốc gia, vùng miền để thích
ứng và phát triển. Do vậy Đạo Phật một mặt thích nghi với văn hóa và truyền
thống văn hóa, đời sống tinh thần và tâm linh của bà con từng khu vực, từng tộc
người; mặt khác Đạo Phật còn có vai trò làm chuyển hóa đời sống văn hóa tinh
thần, tâm linh của người dân Việt Nam.
Đạo Phật có khả năng định hướng tâm linh và tôn giáo cho con người Việt

Nam. Hiện nay, ở Việt Nam có mặt nhiều tôn giáo chính thức được Nhà nước
công nhận, ngoài ra còn có những tà đạo lợi dụng sự cả tin của đồng bào để
truyền đạo trái phép, nhiều người lại tin theo một số hủ tục mê tín, dị đoan…nên
khi Đạo Phật xuất hiện đã đóng vai trò định hướng tâm linh rất quan trọng trong
đời sống tôn giáo – tâm linh của người Việt nói chung và của từng cá nhân nói
riêng.
Khẳng định vai trò và vị thế của Đạo Phật, của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam với bà con các dân tộc trên địa bàn. Vai trò tiên phong gương mẫu của tôn
giáo vì hòa bình, truyền thống đồng hành cùng dân tộc…
Đạo Phật còn có vai trò tác động vào nhận thức, giúp con người tránh các
hủ tục, mê tín dị đoan…Và đặc biệt vai trò của Đạo Phật đã tác động vào tư
tưởng, nhận thức của chúng ta qua các nghi lễ tôn giáo, như ăn chay, phóng sinh,
6


bố thí, tục cúng Rằm, đi lễ chùa, qua các nghi thức như ma chay, cưới hỏi…sẽ
có tác động và xoay chuyển các tập tục truyền thống như tục đốt vàng mã, xin
xăm – bói quẻ, tục cúng bái đa thần linh giáo, cúng ma, cúng giàng...
2.1.3. Đóng góp của Đạo Phật trong giáo dục ở Việt Nam
Là một hệ thống triết học, tôn giáo hướng đến con người, Đạo Phật mang
đậm tính giáo dục với mục tiêu hoàn thiện con người. Hiện nay, định hướng phát
triển giáo dục trong thời đại mới, Ủy ban khoa học, giáo dục và văn hóa Liên
hợp quốc (UNESCO) đã đề xướng mục đích học tập là: "Học để biết, học để
làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình". Hiểu một cách ngắn gọn
là: Học để phát triển toàn diện, hài hòa về trí tuệ, kỹ năng, lẫn đạo đức, lối sống.
Vai trò và những đóng góp của Đạo Phật trong giáo dục là hết sức quan trọng.
Giáo dục tư tưởng từ bi, hỷ xả của Đạo Phật hướng con người đến việc xây
dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện thực sự. Tính
hướng thiện của Đạo Phật là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân
đạo; lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá

lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt
cái tôi vị kỷ…
Trong mối quan hệ giữa con người với con người, tư tưởng Đạo Phật luôn
giáo dục xây dựng các mối quan hệ bình đẳng, ôn hòa, tôn trọng lẫn nhau như:
bình đẳng giới, tôn trọng và khẳng định các quyền cơ bản của con người, không
tách rời lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội mà nhấn mạnh đồng thời, lợi ích cá
nhân và xã hội phải đi cùng để tạo ra một sự hạnh phúc cho nhân loại, giảm bớt
tác hại của sự phân hóa giàu nghèo…
Đạo Phật góp phần giáo dục con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi
trường bền vững. Trong lời răn của Đạo Phật là không được hủy diệt sự sống thì
quyền sống của thú vật và cây cỏ cũng được tôn trọng như con người. Thiên
nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ
thuộc vào thiên nhiên. Nếu muốn có được cuộc sống an lành thì phải sống hòa
hợp với tự nhiên, tôn trọng các quy luật của tự nhiên.
Đạo Đạo Phật dục con người thường không qua trường lớp và bắt đầu bởi
những lý thuyết, giáo lý khô khan nên ai cũng có thể học, dễ để con người tiếp
thu, thấm nhuần. Đó là lý do mà sự giáo dục của Đạo Phật được thực hiện nhanh
7


chóng và rộng rãi, có vai trò hết sức quan trọng về giáo dục hoàn thiện con
người trước nguy cơ trong hội nhập văn hóa với các trào lưu không lành mạnh
đến từ phương Tây.
2.1.4. Đóng góp của Đạo Phật trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,
góp phần giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ chủ quyền quốc gia
Hiện nay Việt Nam có 54 anh em dân tộc cùng sinh sống trong và ngoài
lãnh thổ Việt Nam. Các dân tộc sống đan xen với nhau, có truyền thống văn hóa
đa dạng, đặc sắc; nơi đây là một trong những địa bàn chiến lược, xung yếu trấn
giữ, bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Chính vì vậy, các thế lực chống phá Việt Nam thường lợi dụng vấn đề tôn

giáo và dân tộc kích động sự chống phá, gây rối loạn vùng biên cương, phên dậu
của Tổ quốc. Điển hình nhất là phong trào đòi ly khai, tự trị, tập hợp lực lượng
nhằm lập “Vương quốc Mông”; hoạt động tôn giáo trái pháp luật; tình hình di cư
tự do, tranh chấp, khiếu kiện, mâu thuẫn trong vùng dân tộc thiểu số, tội phạm
hình sự có lúc, có nơi diễn biến rất phức tạp, đặc biệt là trong vài năm trở lại
đây.
Đạo Phật đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự và an
toàn xã hội; giữ gìn vùng biên cương và phên dậu của Tổ quốc được bình yên,
giữ gìn sự gắn bó đoàn kết, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong ngôi nhà
chung là Tổ quốc Việt Nam vì:
Thứ nhất, công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội là trách nhiệm
của các cơ quan hữu quan Nhà nước, mở rộng ra là trách nhiệm của mọi công
dân không phân biệt sắc tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, Đạo Phật là tôn giáo có truyền
thống đồng hành cùng dân tộc, nên như một lẽ tự nhiên, Đạo Phật có thể giúp
người dân thêm thấm nhuần, phát huy tinh thần yêu nước mạnh mẽ, vì đạo Phật
là tôn giáo đề cao tinh thần công dân, tinh thần phụng sự quốc gia dân tộc.
Thứ hai, hiện nay ở một số địa bàn giáp ranh, vùng biên đã có một số cơ
sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam – đó là các ngôi chùa; thật đúng tinh thần:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
(Huyền Không)

8


Ngôi chùa hiện diện, tâm linh và truyền thống văn hóa dân tộc cắm rễ, giúp
cho đời sống tâm linh, văn hóa của bà con được yên bình, mọi người yên tâm
sản xuất, lao động xây dựng đời sống kinh tế. Đó cũng là vai trò quan trọng của
Đạo Phật trong việc giữ gìn vùng biên cương của tổ quốc.
Thứ ba, Đạo Phật là tôn giáo của hòa bình, nên khi người Việt thấm nhuần

giáo lý Đạo Phật, thấm nhuần tính hòa hiếu của triết lý Đạo Phật thì ở đó có sự
đoàn kết trong cộng đồng, tạo thành khối đại đoàn kết dân tộc là bức tường
thành vững chắc trong việc giữ gìn vùng biên cương. Truyền thống Đạo Phật
dân tộc đề cao sự dấn thân, nhập thế và đồng hành cùng dân tộc, khi Tổ quốc
cần, từ chức sắc tu hành đến đồng bào phật tử đều có những cách đóng góp vào
quá trình bảo vệ giang sơn, biên cương của Tổ quốc không để cho bất kỳ thế lực
ngoại bang nào xâm lấn bờ cõi.
Thứ tư, khác với các tôn giáo khác, Đạo Phật dễ thích nghi với mọi nền
văn hóa, không gây ra các xung đột, không cổ vũ các hành động cực đoan, chia
rẽ hoặc mang màu sắc sắc tộc, nên khi Đạo Phật hiện diện ở vùng biên giới, Đạo
Phật vừa đóng vai trò tôn giáo dân tộc làm kim chỉ nam trong đời sống tôn giáo
và tín ngưỡng tâm linh nói chung, mang tính định hướng cho bà con các dân tộc;
vừa đóng vai trò xây dựng thế giới quan gắn bó với lợi ích quốc gia – dân tộc
phù hợp với các chủ trương chính sách của Nhà nước nên được bà con tin yêu,
gắn bó.
2.2. Những hạn chế của Đạo Phật trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay
Tuy có rất nhiều đóng góp tích cực song Đạo Phật không thể tránh khỏi
những hạn chế. Bản thể luận của Đạo Phật mang tính nhị nguyên, đồng thời do
hạn chế của hoàn cảnh lịch sử nên giáo lý Đạo Phật mang một màu sắc bi ai,
yếm thế, chỉ thấy được nỗi khổ đau xuất phát ngay trong chính bản thân con
người, nhưng không thấy những nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bi ai đó. Đạo
Phật thúc đẩy con người tự rèn luyện bản thân, vươn lên trong cuộc sống, nhưng
phần nào thủ tiêu sự đấu tranh, chống lại áp bức bất công. Trong triết học Mác,
hay trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh thì nơi nào có áp bức, nơi đó phải

9


có đấu tranh, cách mạng xã hội là biện pháp duy nhất để tiến đến giải phóng con

người.
Bên cạnh đó, sự sai lầm trong truyền bá và phát triển một số giáo lý nhà
Phật, làm người dân hiểu sai sẽ dẫn đến việc rơi vào duy tâm thần bí, khi không
được như ý thì đến nhờ cậy cầu Phật Tổ, thần linh phù hộ, nạn nhét tiền vào tay
Phật gây mất mĩ quan, nạn cầu siêu giải hạn gây tốn kém về tiền bạc …
* Kết luận
Đạo Phật là một hệ thống triết học – tôn giáo, tuy bản thể luận của nó mang
tính nhị nguyên nhưng chứa đựng nhiều mầm mống biện chứng và đầy tính nhân
đạo. Sau hơn hai mươi thế kỉ, Đạo Phật đã ăn sâu vào tâm hồn, tư tưởng của
người dân Việt Nam. Tuy còn một số hạn chế nhất định song không thể vì thế
mà phủ nhận những đóng góp của Đạo Phật vào mọi mặt đời sống xã hội. Chính
những giá trị nhân văn, nhân bản, những ảnh hưởng tích cực của Đạo Phật đã
đưa nó lên vị trí là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, (2001), Triết học dành cho nghiên cứu sinh và học
viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học, T1, T2, T3, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
2. Trần Đăng Sinh – Đào Đức Doãn, (2008), Giáo trình tôn giáo học, Nxb Đại
học Sư Phạm, Hà Nội
3. Trần Đăng Sinh (Chủ biên), (2012), Lịch sử triết học, Nxb Đại học Sư Phạm,
Hà Nội
4. Trần Đăng Sinh – Hoàng Thúc Lân (Đồng chủ biên), (2014), Giáo trình Triết
học Mác – Lênin nâng cao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
5. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên), (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội


11



×