Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Pháp luật về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.24 KB, 67 trang )

Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ BẢO
ĐẢM TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
I. Các khái niệm cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội
1. Khái niệm an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia
An ninh là yên ổn, không có rối loạn. Nói đến An ninh quốc gia (ANQG) là
nói đến sự yên ổn của một quốc gia, ở bên trong thì không có rối loạn, không bị
chia cắt ở bên ngoài thì không bị các quốc gia khác quấy nhiễu, xâm phạm, không
bị lệ thuộc vào quốc gia khác và các tổ chức quốc tế.
ANQG là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
ANQG bao gồm an ninh trên các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn
hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại... trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên
suốt.
Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại
các hoạt động xâm phạm ANQG. Trong đó, hoạt động xâm phạm ANQG là những
hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục tiêu quan trọng về ANQG là những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ
sở về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, văn hoá, xã hội
thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ ANQG là sự
nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ
ANQG theo quy định của pháp luật.
1


2. Khái niệm trật tự, an toàn xã hội và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau. An toàn là yên


ổn trọn vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn. Nói đến trật tự, an toàn xã hội là nói đến
tình trạng (trạng thái) ổn định, có kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được
xác lập trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
(đó chính là pháp luật) và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức truyền thống
được mọi người trong xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ.
Như vậy, trật tự, an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi
người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn
mực đạo đức, pháp lí xác định.
Trật tự an toàn xã hội là kết quả của một trạng thái xã hội ổn định, bền vững
được điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật, đạo đức và chính trị. Đó là trạng
thái mong muốn tất yếu của một xã hội có nhà nước. An ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội là hai bộ phận chủ yếu của an ninh quốc gia, có liên hệ mật thiết với
nhau, từ vấn đề trật tự an toàn xã hội có thể chuyển hóa thành vấn đề an ninh chính
trị và các thế lực thù địch, phản động luôn luôn tìm cách lợi dụng các vấn đề của
trật tự an toàn xã hội để thổi phồng, kích động chuyển hóa thành các vấn đề an ninh
chính trị.
Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bao gồm: Chống tội phạm ; giữ gìn trật tự nơi
cộng cộng ; bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ; phòng ngừa tai nạn ; bài trừ tệ nạn
xã hội, bảo vệ môi trường... Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng
tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự
công cộng, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ
tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
2


II. Nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội

1. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
a. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
Nhiệm vụ bảo vệ ANQG bao gồm :
+ Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
+ Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích
khác của quốc gia.
+ Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về ANQG.
+ Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ các
hoạt động xâm phạm ANQG, nguy cơ đe doạ ANQG.
b. Nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
- Đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội
phạm có tính chất đặc biệt nguy hiểm. Nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm, trong đó Lực lượng Cảnh sát nhân dân là lực lượng nòng cốt.
- Tiếp tục duy trì và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước trong công tác quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trong các lĩnh vực
an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ, quản lý hành chính về trật tự an toàn xã
hội, quản lý vũ khí và các dịch vụ văn hoá...
- Xây dựng cơ chế phối hợp tích cực giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể
và vận động nhân dân tham gia đấu tranh chống tội phạm, trong đó Cảnh sát nhân
dân là lực lượng nòng cốt xung kích. Cần củng cố và phát huy các tổ chức quần
chúng: Thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh... trong đó coi trọng các hình thức
"thanh niên xung kích", "tổ tự quản" để giữ gìn trật tự ở cơ sở.
3


2. Nguyên tắc bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
+ Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
+ Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lí thống nhất
của Nhà nước ; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc,
lực lượng chuyên trách bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH làm nòng cốt.
+ Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH với nhiệm
vụ xây dựng, phát triển kinh tế - văn hoá, xã hội ; phối hợp có hiệu quả hoạt động
an ninh, quốc phòng với hoạt động đối ngoại.
+ Chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động
xâm phạm ANQG, bảo đảm TTATXH.
Cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG bao gồm :
+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ
CAND.
+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo
quân đội nhân dân.
+ Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG ở
khu vực biên giới trên đất liền và trên biển.
Các biện pháp bảo vệ ANQG bao gồm: Vận động quần chúng, pháp luật,
ngoại giao, kinh tế, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.
3. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
a. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia
Nội dung bảo vệ ANQG bao gồm:
+ Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính
trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt
Nam ; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước ;
bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt Nam đang
công tác, học tập và lao động ở nước ngoài. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu
4


tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá hệ thống chính trị, gây chia

rẽ mất đoàn kết, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị
nội bộ luôn là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn
Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp.
+ Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống
các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của
chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc
gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh
giỏi không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn định
và phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng
đắn, vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời
sống tinh thần của xã hội ; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản
sắc văn hoá dân tộc ; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn
hoá, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực
thù địch đối với chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các
hoạt động truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù
hợp với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.
+ Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng
phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước ; ngăn ngừa, phát hiện, đấu
tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích
động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến anqg, TTATXH.
+ Bảo vệ an ninh tôn giáo. Bảo vệ an ninh tôn giáo là đảm bảo chính sách tự
do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên
5


quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá

cách mạng. Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các
tôn giáo, giữa cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn
giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc.
+ Bảo vệ an ninh biên giới. Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lí ngăn cách
chủ quyền quốc gia và không gian hợp tác phát triển với các nước mà trước hết là
với các nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia
đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ chiến lược cực kì quan
trọng. Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực
Biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên biển, chống các hành vi xâm phạm chủ
quyền biên giới từ phía nước ngoài, góp phần xây dựng đường biên giới hoà bình,
hữu nghị với các nước láng giềng theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất,
nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Bảo vệ an ninh thông tin. An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng,
chính xác và bí mật của thông tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lí
và lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là một bộ phận quan trọng của công tác bảo
vệ ANQG nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm khác nhằm khai thác, sử
dụng hệ thống thông tin liên lạc hoặc tiến hành các hoạt động phá huỷ công trình,
phương tiện thông tin liên lạc gây thiệt hại cho ANQG của nước ta ; chống lộ lọt
những thông tin bí mật của nhà nước ; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông tin
trái phép, dò tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thông tin trên mạng...
b. Nội dung bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
Nội dung bảo đảm TTATXH bao gồm:
+ Đấu tranh phòng, chống tội phạm (trừ các tội xâm phạm ANQG và các tội
phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh).
6



Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi
phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội
; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lí trước pháp luật đảm
bảo đúng người, đúng tội ; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được
lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt, có thể tái hoà nhập cộng đồng xã hội, trở thành người
lương thiện, sống có ích cho xã hội.
+ Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật
tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi
công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của
TTATXH và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ
sinh, nếp sống văn minh ; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục,
tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính
là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh
ở những nơi công cộng - nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo
sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.
+ Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Trật tự, an toàn giao thông là trạng
thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham
gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an
toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài
sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực
lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính...) mà là
trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đó là việc nắm vững và
tuân thủ nghiêm túc Luật giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an
toàn giao thông phải được xử lí nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên
nhân, điều kiện gây ra các vụ tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.
7



+ Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh. Chú ý
phòng ngừa không để xẩy ra tai nạn lao động và luôn luôn phòng chống thiên tai
dịch bệnh.
+ Bài trừ các tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm
những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm
những nguyên tắc về lối sống, truyền thống văn hoá, đạo đức, trái với thuần phong
mĩ tục, các giá trị xã hội tốt đẹp cho đến các hành vi vi phạm những quy tắc đã
được thể chế hoá bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự) ảnh hưởng xấu về đạo
đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao gồm
: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan.... Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội
của tình trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng,
chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ, tích cực, kiên quyết và triệt để.
+ Bảo vệ môi trường. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời
sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước,
dân tộc và nhân loại. Bảo vệ môi trường là tập hợp những biện pháp giữ cho môi
trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lí sinh giới (vi sinh vật,
thực vật, động vật) và môi sinh (đất, lòng đất, nước, không khí, khí hậu...), đảm bảo
sự cân bằng sinh thái... nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống của con
người.
III. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia
và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, nhân dân làm chủ, công an là lực lượng nòng
cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH Đảng lãnh đạo trực tiếp,
tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ
ANQG và TTATXH
8



Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, trong đó có công tác bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH. Chỉ có Đảng
lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính
trị, của toàn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc đấu tranh bảo
vệ ANQG và giữ gìn TTATXH. Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt thể
hiện : Đảng đề ra đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ ANQG và
TTATXH một cách đúng đắn, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chính sách đó.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ ANQG và
TTATXH
Bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH là sự nghiệp của nhân dân, là nghĩa vụ
đồng thời cũng là lợi ích thiết thân của nhân dân. ANQG, TTATXH có được bảo vệ
tốt hay không thì vấn đề rất quan trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về quyền
làm chủ của mình trên lĩnh vực đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực chất
đó là cuộc vận động phong trào cách mạng của quần chúng nhằm xây dựng trật tự
an ninh, trật tự nhân dân từ cơ sở. Nhân dân có điều kiện và khả năng để thực hiện
quyền làm chủ đó.
Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thể hiện: Quán triệt
sâu sắc và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, các chế độ thể lệ nội quy về bảo vệ an ninh trật tự. Đấu tranh
kiên quyết với các thế lực thù địch, bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác, với
mọi hành vi vi phạm pháp luật và những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội ;
kiên quyết giữ vững an ninh trật tự ở mọi nơi mọi lúc. Tự giác tham gia các tổ chức
quần chúng bảo vệ ANQG, tích cực giúp đỡ các cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở địa phương hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí cuộc sống mới văn minh trật tự,
yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác, sản xuất, chiến đấu.
9


- Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ ANQG và

TTATXH
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân lao
động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó có công tác bảo
vệ ANQG và giữ gìn TTATXH. Nhà nước có mạnh (hiệu lực) thì quyền làm chủ
của nhân dân mới được đảm bảo vững chắc.
Nội dung tăng cường hiệu lực quản của Nhà nước : Phát huy mạnh mẽ tác
dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén để xây
dựng và quản lí nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên quan tâm
xây dựng các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ ANQG và giữ gìn
TTATXH. Phát huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các
cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về công tác
bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lí của các cơ quan Nhà nước
vào việc bảo vệ ANQG và TTATXH.
- Công an là lực lượng nòng cốt
Lực lượng Công an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành, các
cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ ANQG và TTATXH. Lực lượng Công an
phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất ; tổ chức hướng dẫn các lực lượng
khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và TTATXH. Qua thực tiễn tiến hành cuộc
đấu tranh, lực lượng Công an phải làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những
vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ ANQG và TTATXH.
Cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG và TTATXH có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo thắng lợi hoàn toàn và triệt
để trong cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải biết kết hợp tính tích cực cách
mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn. Sự kết
hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện cung cấp tình hình, cơ quan chuyên môn thu
thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chuyên
10


môn của các ngành để tìm ra bản chất của vấn đề và biện pháp xử lí. Phải coi trọng

cả hai mặt đó, không được coi nhẹ mặt nào.
- Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đó
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự ổn
định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an
ninh trật tự và ngược lại an ninh trật tự vững chắc mới có điều kiện ổn định phát
triển đất nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh trật tự được giữ vững củng cố và
phát triển là dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn định và phát triển. Hiện nay kết
hợp chặt chẽ giữa an ninh và quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa quốc
phòng với an ninh, an ninh với quốc phòng có nội dung rất rộng, hình thức và cơ
chế kết hợp cũng rất phong phú và đa dạng. Một trong những nội dung quan trọng
của việc kết hợp giữa an ninh với quốc phòng là kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
trật tự an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân.
- Bảo vệ ANQG phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn TTATXH
ANQG và TTATXH là hai thành phần cấu thành trật tự xã hội. Bảo vệ vững
chắc ANQG là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, tạo ra một trong những điều kiện cơ bản nhất để xây dựng sự vững mạnh
về mọi mặt trong xã hội. ANQG được bảo vệ vững chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản
thuận lợi để bảo vệ tốt TTATXH. TTATXH được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho
ANQG càng được củng cố vững chắc, hiệu lực quản lí của Nhà nước được tăng
cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm vững chắc, cuộc sống của mọi
người được yên vui, hạnh phúc.
- Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong công tác bảo vệ ANQG và giữ gìn
TTATXH
11


Sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, với trách nhiệm công dân của

người thanh niên trong thời đại mới, chúng ta phải làm gì để góp phần bảo vệ
ANQG, giữ gìn TTATXH ? Muốn vậy, mỗi người sinh viên không những phải nắm
vững và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo vệ ANQG và
giữ gìn TTATXH mà còn vận động mọi người cùng tự giác chấp hành.
- Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ
ANQG, TTATXH
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Công dân thực hiện
quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã
hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, giữ gìn ANQG và TTATXH, tổ chức đời sống công cộng.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững ANQG là sự nghiệp
của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân vanan
ninh nhân dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh
tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm tròn trách nhiệm quốc phòng và an
ninh do pháp luật quy định.
Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ
ANQG, TTATXH, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công
cộng. Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ
ANQG, TTATXH, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công
cộng.

12


Chương 2
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ BẢO
ĐẢM TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
I. Khái quát chung hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội

1. Khái niệm hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội
Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là tổng thể các
quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định
thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do
nhà nước ban hành theo trình tự và hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH bao gồm hai mặt
là: hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật. Trong đó:
- Hệ thống cấu trúc pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là tổng
thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân
định thành các chế định pháp luật và các ngành luật. Hệ thống cấu trúc pháp luật
gồm 3 yếu tố cơ bản là: quy phạm pháp luật, chế định luật và ngành luật.
+ Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung
giống nhau, nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng.
+ Ngành luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật có đặc tính chung để
điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống
xã hội.
+ Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc cá nhân được trao quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định và bảo đảm
thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm
TTATXH là hệ thống văn bản do cơ quan nhà nước hoặc cá nhân được trao quyền
13


ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, có chứa các quy tắc xử sự chung và được
nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.
2. Đặc điểm hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội

- Đặc điểm về chủ thể ban hành
Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là tổng thể tất cả
các quy phạm pháp luật chứa đựng trong nhiều văn bản do các chủ thể có thẩm
quyền. Do có nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH nên có nhiều
chủ thể có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống
pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Theo quy định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền ban hành bao gồm:
+ Quốc hội ban hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.
+ Ủy ban thường vụ Quốc hôi ban hành pháp lệnh, Nghị quyết.
+ Chủ tịch nước ban hành Lệnh, quyết định.
+ Chính phủ ban hành Nghị định.
+ Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định.
+ Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết; Chánh án TAND
tối cao ban hành Thông tư.
+ Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Thông tư.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành Thông tư.
+ Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng
VKSND tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án
TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ.
+ Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, (văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân được ban hành dưới
14


hình thức nghị quyết. Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban
hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị).
- Đặc điểm về cách thức ban hành
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đúng thẩm quyền, hình thức,

trình tự, thủ tục được quy định (gắn với từng chủ thể ban hành và loại văn bản được
phép ban hành) trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc trong Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.
- Đặc điểm về nội dung, tính chất của hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH
Văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH trong
nội dung phải có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung đối với tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH có sự
thống nhất, nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
Đặc điểm về nội dung, tính chất của hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH được thể hiện ở một số yếu tố sau:
+ Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn
với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái
với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy
phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm
pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn.
+ Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thàn: Với tư cách là
một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế
định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong
mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với
15


nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự
phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành.
+ Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ
với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành

của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy
phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính
đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang
tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của
pháp luật.
3. Nguyên tắc hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội
Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH được xây dựng
trên cơ sở các quy phạm pháp luật được quy định trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Do đó, hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH
phải đảm bảo các nguyên tắc xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH có những nguyên
tắc sau đây:
- Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật
Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc xây dựng hệ thống
pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là tạo ra được một hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, bảo đảm tuân thủ tính tối cao của
Hiến pháp và được ban hành theo đúng các quy định của pháp luật. Bởi vậy,
nguyên tắc quan trọng nhất mà các cơ quan tham gia vào hoạt động soạn thảo, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH cần phải
tuân thủ là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG
16


và bảo đảm TTATXH phải phù hợp với những quy định của Hiến pháp năm 2013.
Bất cứ quy định nào trái với Hiến pháp đều phải sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống phải thống nhất với

nhau về hình thức và nội dung. Trong trường hợp giữa các văn bản trong hệ thông
pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH có sự mâu thuẫn với nhau thì
được xử lý như sau:
+ Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
+ Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban
hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản
quy phạm pháp luật ban hành sau.
+ Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách
nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra,
trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.
- Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật
Nguyên tắc này đặt ra hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm
TTATXH phải được ban hành đúng thẩm quyền, tức là chỉ có các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định và trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mới được ban hành văn bản
dưới các hình thức tương ứng với thẩm quyền ban hành. Quá trình soạn thảo, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tuân thủ đúng trình tự, thủ tục như
thành lập ban soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân, thẩm định, thẩm tra...
- Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
Đây là nguyên tắc đòi hỏi trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phải cố gắng để đáp
ứng mức cao nhất yêu cầu đảm bảo tính minh bạch của hệ thống pháp luật, trừ
trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước.
17


- Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật
Để hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH thực sự đáp

ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ANQG và TTATXH, là công cụ hiệu quả trong
hoạt động quản lý, điều hành thì một trong những yêu cầu quan trọng là văn bản đó
phải bảo đảm tính khả thi cao. Để có được một văn bản có tính khả thi, đáp ứng
được nhu cầu bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, trách nhiệm đặt ra không chỉ
đối với người soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo mà cả cơ quan thẩm định, thẩm
tra, cơ quan xem xét, thông qua văn bản. Đồng thời, để có được một văn bản có
chất lượng tốt thì các quy định của văn bản đó phải được soạn thảo sao cho có tính
khả thi, phù hợp với thực tiễn quản lý và đồng thời bảo đảm về chất lượng của văn
bản.
- Hệ thống pháp luật vừa bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, vừa không
làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc
thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng
một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
- Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị
của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật
Đây là nguyên tắc đòi hỏi trong quá trình xây dựng pháp luật, các chủ thể có
thẩm quyền phải tạo điều kiện cho nhân dân có thể tham gia một cách đông đảo và
rộng rãi vào quá trình thảo luận các văn bản quy phạm pháp luật dự thảo. Điều này
vừa có thể bảo đảm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
vừa tạo điều kiện cho nhân dân có thể tìm hiểu và hiểu được nội dung của các quy
định pháp luật, nhất là các quy định có liên quan tới các hoạt động hàng ngày của
18


họ, nhờ đó góp phần làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm túc hơn, đồng thời

nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
- Bảo đảm hiệu lực trong việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về
bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH
+ QPPL được lựa chọn để áp dụng phải là quy phạm đang còn hiệu lực
pháp lý.
+ Trong trường hợp văn bản có quy định hiệu lực trở về trước thì áp dụng
quy định đó.
+ Trong trường hợp các văn bản QPPL có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.
+ Trong trường hợp các văn bản QPPL về cùng một vấn đề do một cơ quan ban
hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.
+ Trong trường hợp văn bản QPPL mới không quy định trách nhiệm pháp lý
hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản
có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.
II. Vị trí, vai trò của pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội
1. Vị trí, vai trò của pháp luật trong bảo vệẫn ninh quốc gia
- Pháp luật là vũ khí chính trị chống lại các lực lượng thù địch
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã
giành lại được chính quyền từ tay thực dân phong kiến, hủy bỏ pháp luật của chế độ
cũ, xây dựng một chế độ chính trị như ngày hôm nay. Tuy nhiên, các lực lượng thù
địch, phản cách mạng vẫn không ngừng phản động, âm mưu lật đổ chính quyền
nhân dân. Vì thế pháp luật trở thành vũ khí chính trị để nhân dân Việt Nam chống
lại những thế lực này thông qua việc ghi nhận các chính sách, mục tiêu của Nhà
nước về đối nội, đối ngoại. Bên cạnh đó, pháp luật quy định địa vị thống trị của lực
lượng cầm quyền trong xã hội, thậm chí còn ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
cầm quyền, sự liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong việc nắm giữ và
thực hiện quyền lực nhà nước. Để làm được việc này pháp luật thực hiện các biện
19



pháp cưỡng chế rất nghiêm ngặt đối với các hành vi xâm hại lợi ích của giai cấp
thống trị, tổn hại đến lợi ích quốc gia. Xét trong các vụ việc cụ thể ta có thể thấy
được điều này, vụ án phản cách mạng với cái tên “Lực lượng phục quốc” tại Quảng
Ngãi năm 1977 đã chứng kiến kết cục của những thành phần tham gia. Sau phiên
tòa xét xử, bốn bị cáo cầm đầu đều bị tuyên án tử hình vì tội “Âm mưu lật đổ chính
quyền cách mạng”, mười sáu bị cáo còn lại bị tuyên phạt từ 5 năm tù giam đến tù
chung thân, hàng trăm đối tượng còn lại bị đưa đi tập trung cải tạo. Có thể thấy đây
là hình phạt xứng đáng cho những cá nhân, tổ chức phản cách mạng, đồng thời
khẳng định sự nghiêm minh của pháp luật trong việc đảm bảo an ninh chính trị
quốc gia.
- Pháp luật là công cụ đảm bảo vững chắc nền ANQG
ANQG là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Sau hai cuộc kháng chiến lớn bảo vệ
đất nước, cho đến nay, nhờ có pháp luật và các chính sách hợp tác quốc tế dựa trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia mà nền ANQG được đảm bảo
khá chặt chẽ. Pháp luật quy định rõ “Bảo vệ ANQG là sự nghiệp của toàn dân. Cơ
quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ ANQG theo quy định của
pháp luật” trong Điều 8 Luật ANQG được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông
qua ngày 03 tháng 12 năm 2004. Việc quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của
mỗi tổ chức, cá nhân và những biện pháp áp dụng cần thiết khi quốc gia bị đe dọa
đã ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại đến ANQG điển hình là
sự việc gây rối, có biểu hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng, đã diễn ra trên quy
mô lớn, với tổng cộng gần 10 nghìn người tham gia, đồng loạt ở các tỉnh Đăk Lăk,
Gia Lai và Đăk Nông ngày 10/4/2004 dưới sự can thiệp của lực lượng thù địch
nước ngoài.
2. Vị trí, vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
20



Trước hết cần khẳng định pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng trong
đảm bảo duy trì TTATXH, điều này được thể hiện ở nhiều lĩnh vực như đảm bảo an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, an toàn
giao thông
- Trong lĩnh vực an sinh xã hội
Vai trò của pháp luật ở lĩnh vực an sinh xã hội thể hiện rõ nhất trong chính
sách lao động; chính sách y tế, chính sách xóa đói giảm nghèo.
Có thể thấy trong lĩnh vực lao động, pháp luật tạo cơ sở pháp lí cho việc hình
thành, phát triển thị trường lao động có cơ cấu, tổ chức ngày càng phù hợp: các chế
định về quyền, nghĩa vụ của người lao động và sử dụng lao động, chế định hợp
đồng lao động, thỏa ước tập thể ngày càng hoàn thiện, đảm bảo sự bình đẳng về địa
vị pháp lí giữa các bên tham gia hợp đồng. Không chỉ có vậy, pháp luật đã quan
tâm giải quyết vấn đề tranh chấp lao động, được quy định cụ thể ở Chương XIV:
“Giải quyết tranh chấp lao động” của Luật lao động, xác định rõ những nguyên tắc
trong giải quyết tranh chấp, bảo đảm sự phát triển ổn định của các quan hệ lao
động.
Pháp luật trong lĩnh vực y tế là hệ thống được hình thành sớm và từng bước
thể chế chính sách bảo vệ sức khỏe nhân dân của Đảng và Nhà nước, phù hợp với
điều kiện phát triển thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; là cơ sở xây dựng nền
y học tiên tiến, dân tộc và hiện đại; là cơ sở pháp lí quan trọng trong bảo đảm sự
tham gia của xã hội trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần bảo đảm
công bẳng xã hội.
Đối với chính sách xóa đói giảm nghèo, pháp luật quy định biện pháp hỗ trợ
trực tiếp đối với các hộ nghèo và các chủ thể tham gia phát triển kinh tế xã hội
vùng sâu, vùng xa. Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn có các ưu đãi về
quyền sử dụng, chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất…được quy định
cụ thể trong Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp... Không chỉ dừng lại
ở đây, pháp luật còn quy định những biện pháp hỗ trợ, ưu đãi với người nghèo,
21



vùng sâu, vùng xa: pháp luật giáo dục quy định chính sách đối với người học thuộc
diện chính sách xã hội trong các điều từ 89 đến điều 92 của Luật giáo dục 2006, với
các chế độ ưu đãi về tuyển sinh, trợ cấp học phí, cấp học bổng…
- Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp thiết không chỉ với Việt Nam mà trên
toàn thế giới. Điều này phụ thuộc phần lớn vào ý thức của mỗi cá nhân. Luật bảo vệ
môi trường ra đời (lần đầu tiên vào năm 1993) được sửa đổi năm 2005 đã góp phần
vào những chuyển biến tích cực như: nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người
dân, phát triển công tác bảo tồn thiên nhiên và sự đa đạng của hệ sinh thái. Pháp
luật cụ thể hóa các chính sách bảo vệ môi trường, khuyến khích những hành vi liên
quan đến việc tuyên truyền bảo vệ môi trường, khai thác hợp lí tài nguyên thiên
nhiên đồng thời đề ra những biện pháp trừng trị thích đáng với những hành vi có
ảnh hưởng xấu đến môi trường như: săn bắn, khai thác trái phép, xả rác bừa bãi
- Trong lĩnh vực an toàn giao thông
An toàn giao thông gồm an toàn giao thông đường bộ, an toàn giao thông
đường thủy và an toàn giao thông đường hàng không, nhưng chủ yếu nhất và được
quan tâm nhiều nhất vẫn là an toàn giao thông đường bộ.
Pháp luật tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác bảo đảm trật tự an toàn
giao thông đường bộ thông qua việc ban hành Luật giao thông đường bộ nhằm tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao ý thức trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân (Điều 4 Luật giao thông đường bộ năm 2001 quy định: “Bảo đảm an toàn
giao thông đường bộ là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và của toàn xã
hội”) để đảm bảo giao thông đường bộ thông suốt, trật tự, an toàn, thuận lợi phục
vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Luật Giao
thông đường bộ quy định quy tắc giao thông đường bộ (ví dụ như các quy tắc mà
người tham gia giao thông đường bộ phải tuân theo, như: người tham gia giao
thông đường bộ phải đi bên phải chiều đi của mình, đi đúng phần đường quy định
và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ,hiệu lệnh của cảnh sát giao thông);

22


các điều kiện đảm bảo an toàn giao thông đường bộ của kết cấu cơ sở hạ tầng,
phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, hoạt
động vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về giao thông đường bộ.
- Trong lĩnh vực phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội
Trước tình hình xã hội còn phức tạp với nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã
hội liên tiếp xảy ra trong đời sống xã hội, việc giữ gìn trật tự xã hội, phòng chống
tội phạm và đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang được các cơ quan cấp cao nhà nước tăng
cường bảo vệ, tạo điều kiện cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong xã
hội. Pháp luật có vai trò đảm bảo cho xã hội phát triển trong sạch vững mạnh, nâng
cao trình độ dân trí của người dân, góp phần đẩy lùi tệ nạn xã hội. Để phòng ngừa,
ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và tệ nạn xã hội, pháp luật đã đề
ra những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc quy định các chế tài xử phạt; kiểm soát
các hoạt động liên quan đến các lĩnh vực như trộm cắp, ma túy, mại dâm, gây rối
trật tự công cộng,…; đề cao trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức
trong phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước trong việc tuyên truyền giáo dục, thuyết phục hay xử lí
với các vi phạm. Pháp luật cũng khuyến khích những hành động bảo vệ công lý,
quy định chính sách khen thưởng hợp lí với những người có công trong chống lại
tội phạm. Ngoài ra pháp luật cũng giảm nhẹ hình phạt cho những người phạm tội
biết hối cải. Ví dụ như “Luật số 23/2000/QH10 của Quốc hội : Luật Phòng, Chống
ma túy” được Quốc hội thông qua trong khóa X, kỳ họp thứ 8 ngày 09 tháng 12
năm 2000, đã quy định rất rõ ràng về nội dung, trách nhiệm pháp lí của người dân
cũng như các cơ quan cấp cao về phòng chống tệ nạn ma túy, trong đó có cả xử lí vi
phạm và khen thưởng được nêu trong chương VII: “Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ
chức có thành tích trong đấu tranh phòng, chống ma tuý thì được khen thưởng theo
quy định của pháp luật” (Điều 52); “Mọi hành vi vi phạm pháp luật về phòng,
chống ma tuý phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật;

23


việc xử lý phải kiên quyết, công khai và thông báo cho cơ quan, tổ chức, chính
quyền cơ sở nơi người vi phạm làm việc hoặc cư trú” (Khoản 1 điều 53).
Như vậy, có thể thấy vai trò của pháp luật đối với việc đảm bảo an ninh,
TTATXH ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết là quan trọng. Pháp luật không
phải công cụ duy nhất nhưng nó đóng vai trò quan trọng nhất, hiệu quả nhất để xây
dựng một xã hội văn minh lịch sự. Pháp luật chỉ rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ
chức, cá nhân trong từng lĩnh vực, từ đó nâng cao ý thức của mọi thành viên trong
xã hội, tạo ra sự gắn kết giữa cá nhân với tập thể cộng đồng, hình thành nên một xã
hội có an ninh, trật tự ổn định. Cần phải đưa pháp luật tiếp cận với mọi đối tượng
trong quần chúng, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, để pháp luật
thể hiện được tối đa vai trò của mình trong việc đảm bảo an ninh, TTATXH cũng
như trong những lĩnh vực khác ở Việt Nam hiện nay.
III. Phân loại các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh quốc
gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
1. Phân loại theo (nội dung) các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an
ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nhằm để thực hiện chức năng
của các cơ quan bảo vệ pháp luật
Căn cứ vào nội dung có thể chia văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
ANQG và bảo đảm TTATXH thành hai nhóm: văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh và văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ.
- Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh có nội dung trực tiếp điều chỉnh
hành vi con người và hoạt động của các tổ chức trong lĩnh vực bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH
Các văn bản mang tính chất điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật để bảo vệ
ANQG và bảo đảm TTATXH gồm Bộ luật hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính,
Bộ luật dân sự, Nghị định của Chính phủ và các văn bản dưới luật khác có liên
quan.

24


- Văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ có nội dung xác định các biện pháp
cưỡng chế mà nhà nước cho phép áp dụng đối với các chủ thể thực hiện không
đúng các quy định của pháp luật, vi phạm pháp luật.
Các biện pháp cưỡng chế mà tính quyền lực của Nhà nước nhằm bảo vệ
ANQG và bảo đảm TTATXH được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực, có thể kể đến
như các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự; các biện
pháp cưỡng chế hành chính…
2. Phân loại theo ý nghĩa pháp lý
Căn cứ vào ý nghĩa của từng loại văn bản có thể chia văn bản quy phạm pháp
luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH thành văn bản quy phạm nội dung và
văn bản quy phạm hình thức.
+ Văn bản quy phạm nội dung là những quy phạm xác định các quyền, nghĩa
vụ hay trách nhiệm của các chủ thể pháp luật.
Trong lĩnh vực bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là các văn bản như Bộ
luật hình sự, Bộ luật dân sự, các Nghị định, Thông tư….
+ Văn bản quy phạm hình thức là những quy phạm xác định trình tự, thủ tục
để các chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình hay tiến hành áp dụng.
Trong lĩnh vực bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH là Bộ luật tố tụng hình sự,
Bộ luật tố tụng dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Nghị định, Thông tư và các
văn bản dưới luật khác.

Chương 3
25


×