Tải bản đầy đủ (.docx) (140 trang)

NĂNG LỰC THÔNG TIN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.95 KB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ

NĂNG LỰC THÔNG TIN CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÔNG TIN THƯ VIỆN

Hà Nội - 2018

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ

NĂNG LỰC THÔNG TIN CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Chuyên ngành: Khoa học Thông tin - Thư viện
Mã số: 60 32 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÔNG TIN THƯ VIỆN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Hùng


Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Văn Hùng. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong
đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá

2


được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn này còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình. Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
ĐHQGHN không liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra
trong quá trình thực hiện (nếu có).
Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

3


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Trước hết, với tình cảm chân thành và sự kính trọng nhất, tôi xin được gửi
lời cảm ơn đến thầy giáo trực tiếp hướng dẫn tôi làm khóa luận tốt nghiệp trong

thời gian qua – thầy giáo, TS. Đỗ Văn Hùng. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn thầy đã
giúp đỡ, hướng dẫn và luôn theo sát nhắc nhở, động viên tôi vượt qua khó khăn để
hoàn thành nhiệm vụ Luận văn này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo đã và đang tham gia
giảng dạy cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu về lĩnh vực thông tin thư viện
cũng như các kiến thức liên quan khác trong 2 năm học vừa qua.
Cuối cùng là sự động viên, quan tâm, chăm sóc của gia đình và bạn bè, tôi
xin chân thành cảm ơn. Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy
nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của tôi còn nhiều thiếu sót, tôi
mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để tôi tiến bộ hơn nữa trong
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

4


TÓM TẮT
Năng lực thông tin giúp cho sinh viên có khả năng và kỹ năng tìm kiếm, thu
thập, đánh giá và sử dụng thông tin một cách hiệu quả, hợp pháp và là cơ sở căn bản
giúp sinh viên có khả năng học tập suốt đời, giúp sinhviên làm chủ được thế giới
thông tin, tự định hướng, hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, quan sát ban đầu của tác
giả thấy rằng năng lực thông tin của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội chưa tốt
nên việc xác định nhu cầu tin, tìm kiếm và sử dụng thông tin phục vụ học tập chưa
đạt hiểu quả cao.
Để làm sáng tỏ nguyên nhân của vấn đề trên, tác giả đặt ra ba câu hỏi: ( 1)
Thực trạng năng lực thông tin của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội hiện nay
như thế nào? (2) Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao năng lực thông tin
cho sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội? (3) Nội dung và cách thức triển khai

đào tạo năng lực thông tin nào là phù hợp với sinh viên trường Đại học Luật Hà
Nội? Để trả lời các câu hỏi này, tác giả tiến hành nghiên cứu tài liệu để tạo nên cơ
sở lý thuyết về năng lực thông tin, khảo sát lấy số liệu thông qua bảng hỏi và phỏng
vấn với các đối tượng là lãnh đạo của trường, lãnh đạo thư viện, cán bộ thư viện,
sinh viên và giảng viên.
Nghiên cứu đưa ra ba kết quả chính. (1) Sinh viên trường Đại học luật Hà Nội
chưa được trang bị kiến thức về năng lực thông tin và họ chưa nhận thấy tầm quan
trọng của các kiến thức này; (2) Chương trình đào tạo của nhà trường chưa lồng gép
các nội dung liên quan đến năng lực thông tin, bên cạnh đó Thư viện của Nhà
trường chưa có một chương trình đào tạo năng lực thông tin hiệu quả và phù hợp
với sinh viên; (3) phát triển năng lực thông tin cho sinh viên bị tác động bởi nhiều
yếu tố liên quan trong đó có: chính sách phát triển năng lực thông tin, nhận thức của
các bên liên quan, năng lực của cán bộ thư viện, phương pháp giảng dạy của giảng
viên và phương pháp học tập của sinh viên.
Trên cơ sở kết quả trên, nghiên cứu đưa ra một số đề xuất cho Trường Đại học
Luật để phát triển năng lực thông tin cho sinh viên. Trong đó, xây dựng chương
trình đào tạo NLTT cho sinh viên và lồng gép các nội dung liên quan đến năng lực
thông tin vào việc giảng dạy là một trong những giải pháp quan trọng trong việc
5


phát triển năng lực thông tin thông tin của sinh viên. Ngoài ra, một yếu tố rất cần
thiết đó là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung tâm và các phòng, ban, bộ môn
trong trường để các chương trình phát triển NLTT cho sinh viên mang lại hiệu quả
cao nhất, giúp sinh viên có thể làm chủ tri thức trong xã hội thông tin.

6


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT
CSDL
CSVC
CBTV
ĐHQG - HCM
ĐHL
NCKH
NCT
NLTT
TT – TV

7

Công nghệ thông tin
Cơ sở dữ liệu
Cơ sở vật chất
Cán bộ thư viện
Đại học Quốc gia – Hồ Chí Minh
Đại học Luật
Nghiên cứu khoa học
Nhu cầu tin
Năng lực thông tin
Thông tin - Thư viện


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

8



LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, hiện tượng “Bùng
nổ thông tin” đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Sự gia tăng các nguồn tài nguyên
thông tin cùng với những tiến bộ của công nghệ viễn thông tạo điều kiện cho việc
trao đổi thông tin trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết, cho phép mọi người có thể lưu
trữ, truy cập và phổ biến thông tin một cách rộng rãi. Người dùng tin có thể dễ dàng
tìm thấy rất nhiều thông tin cho một vấn đề cụ thể bằng nhiều cách, nhiều phương
tiện, được lưu trữ ở nhiều dạng vật mang tin khác nhau. Tuy nhiên, họ cũng đồng
thời gặp phải không ít thách thức trong việc kiểm soát lượng thông tin vì số lượng
thông tin quá khổng lồ, ồ ạt và hỗn tạp đang ngày càng gia tăng theo cấp số nhân.
Vấn đề đặt ra là làm sao kiểm soát được tính chính xác, độ chân thực của thông tin?
Làm sao khai thác hiệu quả các nguồn thông tin ấy phục vụ cho cuộc sống? Trong
bối cảnh như vậy, khả năng tìm kiếm, đánh giá và sử dụng thông tin được xem là
yêu cầu then chốt đối với mỗi cá nhân để tham gia hiệu quả trong kỷ nguyên thông
tin? Điều này đòi hỏi mỗi người phải có năng lực sàng lọc các nguồn thông tin
không phù hợp, có chất lượng kém và không đáng tin cậy.
Hơn nữa, những thay đổi đang diễn ra trên thế giới hiện nay đã làm cho triết
lý về giáo dục đại học của thế kỷ 21 có những biến đổi sâu sắc, đó là lấy “học
thường xuyên suốt đời” làm nền móng, dựa trên các mục tiêu tổng quát của việc
học, là “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người”,
nhằm hướng tới xây dựng một “xã hội học tập”.
Khả năng tiếp cận và sử dụng thông tin hay gọi đó là năng lực thông tin của
mỗi người trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin khác nhau, năng lực thông tin có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn và giúp con người
phát triển năng lực tư duy độc lập và sáng tạo. Đó chính là nền tảng của khả năng
học tập suốt đời và là năng lực cần thiết trong mọi lĩnh vực, môi trường học tập. Có
thể thấy rằng năng lực thông tin đóng vai trò quan trọng trong nhiều mặt cả cuộc


9


sống. Để minh chứng cho điều này các trên nhiều nước phát triển như Hoa Kỳ, Úc,
Canada, các nước thuộc Liên minh châu Âu đã triển khai đào tạo năng lực thông tin
cho sinh viên và coi năng lực thông tin như một trong các chuẩn đầu ra đối với sinh
viên đại học. Nhìn chung, các trường đại học ở khắp nơi trên thế giới rất chú trọng
đến việc phát năng lực thông tin cho sinh viên.
Ở Việt Nam hiện nay, sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước đã
có những chuyển biến khá toàn diện song giáo dục đại học Việt Nam vẫn còn tụt
hậu so với nhiều nước trong khu vực và còn khoảng cách rất xa với các nước phát
triển. Nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đại học, ngay từ Nghị quyết
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) Số 02NQ/HNTW, ngày 24/12/1996 về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã
khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo…đảm bảo điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học; phát triển
mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân,
nhất là thanh niên”. Và xuyên suốt từ nghị quyết đó đến Nghị quyết số 29- NQ/TW
ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI lại một lần nữa khẳng định vai trò
về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế khẳng định quan điểm chỉ đạo: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”, “ Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo
nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học,
tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”.
Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một sinh viên được trang bị kỹ năng và
năng lực thông tin tốt sẽ đọc được nhiều hơn, biết tranh luận bằng cách sử dụng dẫn

chứng để bảo vệ ý kiến của mình có thể liên kết các khái niệm và các ý tưởng của
mình, biết tự phân tích và tổng hợp thông tin, biết cách trích dẫn một thông tin một

10


cách thống nhất và chính xác, đánh giá mức độ của thông tin có đúng không, và sử
dụng chúng như thế nào… Như vậy giáo dục năng lực thông tin cho sinh viên là
một việc làm vô cùng quan trọng đối với quá trình tín chỉ hóa chương trình đào tạo
của các trường đại học ở Việt Nam.
Trường Đại học Luật Hà Nội là trường đại học công lập thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tổ chức đào tạo trung
cấp, đại học và sau đại học các chuyên ngành luật học, nghiên cứu khoa học, truyền
bá pháp lí và tư vấn pháp luật lớn nhất của cả nước. Năm 2008, thực hiện đề án đổi
mới giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường đã chuyển đổi phương
thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ ở tất cả các chuyên ngành, hệ đào tạo
đại học và sau đại học với mục đích “lấy người học làm trung tâm” nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học của giảng viên, sinh viên trong trường. Để trường Đại học
Luật Hà Nội đạt được mục tiêu trong đào tạo và có thể tạo ra được những sản phẩm
có chất lượng, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao thì điều quan trọng nhất đối
với cán bộ, giáo viên và sinh viên trong toàn trường là phải nắm bắt được thông tin,
tài liệu phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập một cách nhanh
chóng, kịp thời, chính xác và đầy đủ.
Trong những năm gần đây Trường Đại học Luật đã bước đầu đã có các hoạt
động phát triển năng lực thông tin cho sinh viên vì nhà trường nhận thấy vai trò của
năng lực thông tin ngày càng quan trọng đối với sinh viên Trường Luật nói riêng và
các trường Đại học cả nước nói chung. Tuy nhiên, hiệu quả của việc phát triển năng
lực thông tin của sinh viên Trường Đại học Luật còn kém, chưa tốt. Đa phần sinh
viên trong trường chưa có chủ động các kĩ năng và thái độ tìm kiếm, sử dụng và
đánh giá thông tin, hiểu biết về mặt pháp lý khi sử dụng thông tin cho hoạt động học

tập và nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng và yêu cầu thực
tiễn mong muốn sinh viên sẽ chuẩn bị cho mình tốt hơn về năng lực thông tin, tác
giả quyết định lựa chọn đề tài: “Năng lực thông tin của sinh viên Trường Đại học
Luật Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học thư viện
của mình.

11


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Hiện nay, nghiên cứu vấn đề NLTT cho sinh viên đã được nhiều tác giả, nhà
nghiên cứu, các hội thảo khoa học ngành Thông tin – Thư viện đưa ra qua một số
công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Các nội dung chủ yếu tập trung
vào các vấn đề sau: nghiên cứu khung lý thuyết về NLTT; nghiên cứu và phát triển
nội dung và phương pháp đào tạo về NLTT cho các đối tượng khác nhau, vai trò của
thư viện và cán bộ thư viện trong việc phát triển NLTT cho sinh viên; nghiên cứu về
vai trò của năng lực thông tin trong giáo dục đại học và trong bối cảnh đổi mới và
hội nhập; phát triển NLTT cho sinh viên.
Nghiên cứu khung lý thuyết về năng lực thông tin
Trên thế giới khái niệm “năng lực thông tin” được xuất hiện những năm 70
của thế kỷ 20 do Paul G. Zukowski, chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp thông tin Hoa
Kỳ nêu lên trong đề xuất gửi đến Uỷ ban Quốc gia về Khoa học Thông tin – Thư
viện năm 1974. Đây có thể coi là khái niệm đầu tiên trên thế giới, khái niệm này
gắn liền với việc giải quyết vấn đề khủng hoảng và bùng nổ thông tin, bằng việc
được mô tả như là một tập hợp các kỹ năng thu thập và xử lý thông tin. Theo ông,
người có năng lực thông tin là những người được đào tạo để khai thác các nguồn
thông tin phục vụ cho công việc của mình. Họ “đã học được kỹ năng sử dụng các
công cụ tìm kiếm thông tin cũng như các nguồn thông tin khác nhau để có được giải
pháp thông tin” [15].
Từ năm 1987, khái niệm năng lực thông tin bắt đầu được mở rộng và được

xem như một khái niệm về "cách thức học tập" với sự ra đời của một số mô hình và
khung lý thuyết tiêu biểu như: Big6 (do Eisenberg and Berkowitz bắt đầu phát triển
từ năm 1988), đặc biệt là khái niệm về năng lực hướng vào nội dung "học tập suốt
đời" và "cách thức học tập" do Hiệp hội thư viện đại học và thư viện nghiên cứu
Hoa Kỳ (ACRL) đề xuất năm 1988. Theo Hiệp hội các thư viện Đại học và thư viện
nghiên cứu Mỹ (1989) năng lực thông tin là sự hiểu biết và một tập hợp các khả
năng cho phép các cá nhân có thể "nhận biết thời điểm cần thông tin và có thể định
vị, thẩm định và sử dụng thông tin cần thiết một cách hiệu quả" [31]. Hơn nữa, báo

12


cáo này còn khẳng định các cơ sở giáo dục sẽ là những người đóng vai trò chính
trong việc trang bị năng lực thông tin cho sinh viên. Báo cáo nhấn mạnh rằng các
trường đại học cần trang bị cho sinh viên năng lực để đảm bảo họ có thể thành công
trong học tập và hỗ trợ họ phát triển kỹ năng học tập suốt đời, kỹ năng giải quyết
vấn đề và tư duy phê phán. Cheek (1995) đã khẳng định “năng lực thông tin là khả
năng nhận biết nhu cầu thông tin, tìm kiếm, tổ chức, thẩm định và sử dụng thông tin
trong việc ra quyết định một cách hiệu quả, cũng như áp dụng những kỹ năng này
vào việc tự học suốt đời” [38]. Cần hiểu rõ rằng năng lực thông tin không chỉ đơn
thuần là những kỹ năng cần thiết để tìm kiếm thông tin một cách hiệu quả, nó bao
gồm cả những kiến thức về các thể chế xã hội và các quyền lợi do pháp luật quy
định liên quan đến việc truy cập các nguồn thông tin. Theo Hiệp hội Các thư viện
chuyên ngành và các trường đại học Hoa Kỳ người có năng lực thông tin là người
"đã học được cách thức để học. Họ biết cách học bởi họ nắm được phương thức tổ
chức tri thức, tìm kiếm thông tin và sử dụng thông tin, do đó những người khác có
thể học tập được từ họ. Họ là những người được đã chuẩn bị cho khả năng học tập
suốt đời, bởi lẽ họ luôn tìm được thông tin cần thiết cho bất kỳ nhiệm vụ hoặc quyết
định nào một cách chủ động." [35].
Trong một nghiên cứu về năng lực thông tin ở Lào, Dorner và Gorman

(2006) cho rằng các định nghĩa và mô hình năng lực thông tin của các nước phương
Tây có thể không phù hợp để áp dụng ở các nước đang phát triển. Khái niệm năng
lực thông tin ở các nước đang phát triển phải phản ánh được văn hóa địa phương.
Theo hai ông, năng lực thông tin là khả năng mỗi cá nhân hoặc nhóm có thể: nhận
thức được tại sao thông tin được tạo ra, trao đổi và kiểm soát; nó được tạo ra, trao
đổi và kiểm soát như thế nào, bởi ai? Nó đóng góp như thế nào với việc hình thành
tri thức; Hiểu được khi nào cần sử dụng thông tin để cải thiện đời sống hoặc giải
quyết các nhu cầu liên quan đến các tình huống cụ thể; Biết cách định vị thông tin
và đánh giá tính phù hợp của nó với bối cảnh cụ thể; Nắm được phương pháp tích
hợp thông tin phù hợp với những gì mình có để xây dựng tri thức mới nhằm cải
thiện đời sống hàng ngày hoặc giải quyết nhu cầu liên quan đến các tình huống cụ

13


thể. Định nghĩa này cũng bao hàm các kỹ năng chính như định vị, sử dụng và đánh
giá thông tin. Tuy nhiên, nó không phản ánh được một chuẩn rất quan trọng đó là
việc sử dụng thông tin có đạo đức và phù hợp với pháp luật - vấn đề mà các nước
đang phát triển chưa quan tâm nhiều [42].
Qua các định nghĩa trên chúng ta nhận thấy các tác giả đều cho rằng khái
niệm NLTT rộng hơn khái niệm hướng dẫn thư viện. Khái niệm hướng dẫn sử dụng
thư viện đề cập đến đào tạo cho người sử dụng các tình huống cụ thể trong việc sử
dụng thư viện trong khi đó khái niệm NLTT bao hàm cả việc phát triển kỹ năng học
tập suốt đời bằng cách giáo dục người dùng tin cách thức khai thác, sử dụng, đánh
giá, trình bày và trao đổi thông tin một cách hiệu quả. Khái niệm hướng dẫn thư
viện tập trung vào việc đào tạo người dùng tin phương pháp tìm tài liệu của thư
viện. Ngược lại, khái niệm NLTT quan tâm tới tiến trình tìm kiếm và sử dụng thông
tin nói chung bao gồm cả những nguồn tin trong và ngoài thư viện [15]. Khái niệm
NLTT không chỉ bao gồm tập hợp các kỹ năng mà còn đề cập tới rèn luyện tư duy
phê phán và kỹ năng giải quyết vấn đề; hiểu biết các vấn đề đạo đức, pháp lý, các

vấn đề kinh tế, văn hóa và xã hội liên quan đến việc sử dụng và phổ biến thông tin.
Theo UNESCO (2008) một người có năng lực thông tin là người có thể: Xác
định rõ được nhu cầu thông tin của mình; Định vị/ tìm kiếm và đánh giá được chất
lượng thông tin; Tổ chức và khai thác thông tin; Sử dụng thông tin hiệu quả và có
đạo đức (tôn trọng bản quyền, không đạo văn) [44].
Trong số các định nghĩa về NLTT, định nghĩa của ALA được chấp nhận rộng
rãi nhất và là cơ sở cho các định nghĩa NLTT sau này. Nhưng định nghĩa của
UNESCO cũng được nhiều đồng thuận trong đó có tác giả. Vì các kiến thức này đã
được bao hàm trong khái niệm cô đọng của ALA và UNESCO. Bởi lẽ, để trở thành
người “có khả năng định vị, đánh giá, và sử dụng hiệu quả thông tin mình cần” họ
cần phải có kiến thức xuất bản, kiến thức tin học cơ bản. Với ý nghĩa đó Hiệp hội
các Thư viện đại học & Nghiên cứu Hoa Kỳ (ACRL) đã phát triển Chuẩn NLTT
dành cho sinh viên đại học dựa trên định nghĩa NLTT của ALA. Với mục đích của
nghiên cứu này, định nghĩa về NLTT của ALA được sử dụng làm cơ sở phát triển
các tiêu chí đánh giá trình độ NLTT của sinh viên đại học ở Việt Nam [15].
14


Ở Việt Nam, thuật ngữ “kiến thức thông tin” được sử dụng trong các thư viện
từ đầu những năm 2000. Những chuyên gia, nhà nghiên cứu đã sớm khái niệm
NLTT (trước đây gọi là kiến thức thông tin), như Nghiêm Xuân Huy – [10], Nguyễn
Hoàng Sơn [25]; Trần Thị Quý [23], Nguyễn Văn Hành [6] và nhiều nhà nghiên cứu
khác đã làm rõ các vấn đề sau:


Khái niệm và nội hàm của NLTT, thống nhất lựa chọn khái niệm NLTT

phổ biến nhất trên thế giới và khuyến cáo sử dụng tại Việt Nam.
• Vai trò và tầm quan trọng của NLTT trong các trường đại học. Lý do Việt
Nam cần phải phát triển NLTT cho sinh viên [10]

• Vai trò của NLTT đối với giảng viên, sinh viên và cán bộ thư viện
• Những nội dung nào cần đào tạo trong NLTT cho các đối tượng khác nhau
• Đưa ra những gợi ý cần thiết để triển khai NLTT hiệu quả vào từng bối
cảnh cụ thể tại Việt Nam.
Các tác giả đã bước đầu đặt nền móng cho việc nghiên cứu, xây dựng và triển
khai NLTT tại Việt Nam. Nghiên cứu lý thuyết này đóng vai trò rất quan trọng trong
việc định hướng phát triển NLTT tại Việt Nam. Trong luận văn này, tác giả luận văn
sử dụng các tài liệu này làm cơ sở lý thuyết để làm nền tảng nghiên cứu cụ thể tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nghiên cứu nội dung và phương pháp thực hiện các khóa huấn luyện
năng lực thông tin cho độc giả.
NLTT gắn liền với nghiệp vụ hỗ trợ độc giả tại các thư viện. Chính vì vậy đã
có những nghiên cứu tập trung xây dựng nội dung và phương pháp thực hiện các
chương trình nâng đào tạo và nâng cao NLTT cho bạn đọc của thư viện. Tác giả
Huỳnh Thị Xuân Phương tâp trung đi tìm giải pháp nâng cao năng lực cho cán bộ
thư viện đại học giảng dạy NLTT. Tác giả cho rằng cán bộ thư viện giảng dạy NLTT
cần hội tụ đủ 3 yếu tố: thông thạo NLTT, là cán bộ thư viện, là cán bộ giảng dạy và
đây là một thách thức lớn với cán bộ thư viện. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng yếu tố
tiên quyết và quan trọng nhất đối với người giảng dạy NLTT trước hết người đó
phải là cán bộ thư viện. Để nâng cao năng lực cho cán bộ thư viện tác giả đề xuất
giải pháp “phát triển chuyên môn liên tục” [22].

15


Tác giả Hoàng Thị Hồng Nhung [19] nêu ra các thách thức như: Mục tiêu
học tập suốt đời vẫn chưa được nêu trong sứ mệnh của các trường đại học. Các
khoa, các trường trực thuộc ĐHQG - HCM chưa quan tâm và nhận thức được vai
trò quan trọng của thư viện, sự hỗ trợ từ phía cán bộ thư viện nên chưa có sự liên
kết, hợp tác chặt chẽ. Hầu hết các hoạt động huấn luyện NLTT cho sinh viên đều do

thư viện chủ động liên hệ, thiết kế và tổ chức. Phương pháp dạy và học chưa lấy
người học làm trung tâm theo đúng nghĩa. Phương pháp thuyết trình của giáo viên
vẫn được sử dụng rộng rãi, các hoạt động nghiên cứu khoa học còn chưa phong
phú. Việc đánh giá học tập với sinh viên chưa đa dạng, thiên về học thuộc lòng,
chưa khuyến khích được nhu cầu mở rộng kiến thức của sinh viên. Chính vì vậy,
sinh viên thiếu hẳn thói quen tìm kiếm thông tin, tài liệu cũng như không có ý thức
phải tham gia các lớp tập huấn NLTT do thư viện tổ chức. Bên cạnh đó, các hạn chế
về mặt ngoại ngữ, tin học của giảng viên, sinh viên chưa cao, vẫn chủ yếu chỉ dẫn
cho sinh viên các tài liệu tiếng Việt trong khi nguồn tài nguyên thông tin điện tử của
thư viện và 68,4% nội dung thông tin trên web là tiếng Anh. Hầu hết các cán bộ thư
viện chưa được đào tạo, huấn luyện về nội dung cũng như các phương pháp để thực
hiện các khóa huấn luyện thông tin cho độc giả [19].
Nghiên cứu bối cảnh và vai trò của năng lực thông tin
Phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, đồng thời nhận diện vai trò của
NLLT đối với các cá nhân và tổ chức là một trong những nội dung được nhiều tác
giả nghiên cứu. Tác giả Cropley (1997) cho rằng giáo dục học tập suốt đời gắn với
việc tạo cho mỗi người cơ hội học tập một cách có hệ thống và có tổ chức ở bất kỳ
thời điểm nào trong cuộc đời của họ [10]. Curtain (2001) khẳng định học tập suốt
đời gắn liền với vấn đề “an toàn nghề nghiệp” trước sức ép từ sự toàn cầu hóa. Tác
giả này cho rằng:
Học tập suốt đời, hiểu theo nghĩa rộng, có thể tạo lập một cơ sở để các cá
nhân có thể quản lý tốt hơn những rủi ro về nghề nghiệp; giúp chính phủ và tổ chức,
doanh nghiệp hỗ trợ cá nhân đảm bảo nghề nghiệp của mình. Một chiến lược học
tập toàn diện cho phép tối đa hóa các cơ hội học tập có thể được chứng thực thông

16


qua những lợi ích mà nó đem lại cho nên kinh tế, các tổ chức doanh nghiệp, và cho
chính mỗi cá nhân [10].

Hơn thế nữa, có một thực tế không thể phủ nhận là: ngày nay, các hoạt động
học tập đang diễn ra không chỉ tại các cơ sở đào tạo, mà còn có thể được tổ chức tại
nhà riêng, cộng đồng, các địa điểm giải trí, nơi làm việc, thông qua các phương tiện
truyền thông, bạn bè và các mối quan hệ khác. Đó chính là cơ sở cho sự ra đời của
“xã hội học tập” – nơi mà người học có toàn quyền tự do lựa chọn trang bị cho
mình phương thức học tập của riêng mình trên cơ sở vô số cơ hội học tập mà họ có
thể có được (nhu cầu tự định hướng). Và một trong những nhân tổ chủ chốt cấu
thành nên khả năng tự định hướng đó chính là kiến thức thông tin (theo tác giả
Candy). Khả năng tự định hướng và tự thích nghi chính là yếu tố đặc biệt quan
trọng để mỗi cá nhân có thể phát triển một cách bền vững và tích cực trong bối cảnh
thị trường lao động đầy biến động. Xu thế xã hội cho thấy việc thay đổi nghề nghiệp
trong cuộc đời mỗi con người ngày càng diễn ra phổ biến và tất yếu. Điều này đòi
hỏi mỗi người cần có khả năng tiếp cận và làm việc với những lĩnh vực kiến thức
mới một cách hiệu quả. Sẽ là nguy hiểm nếu như mọi người coi việc học tập chính
quy của mình là công cụ cứu cánh duy nhât cho sự nghiệp của mình, đồng thời bỏ
qua việc tiếp cận và áp dụng những tri thức mới liên quan đến công việc và cuộc
sống cá nhân của mình. Có thể nói, kiến thức thông tin chính là chìa khóa xây dựng
nên một “xã hội học tập”.
Tác giả Vũ Văn Sơn (2013) khẳng định các thư viện đại học có vai trò rất
quan trọng trong việc hỗ trợ tích hợp kiến thức thông tin vào giảng dạy và nghiên
cứu. Cùng quan điểm này tác giả Nguyễn Thị Việt Bắc (2006), Vũ Thị Quỳnh
Nhung (2002) phân tích và chỉ ra rằng năng lực thông tin cần có sự hỗ trợ tích cực
từ thư viện, và thư viện phải tự mình gác ngộ được điều này. Tất cả các bài của
các tác giả viết đều làm nổi bật được vai trò của năng lực thông tin và tầm quan
trọng của năng lực thông tin với các trường đại học ở Việt Nam. Để phát triển
NLTT cho sinh viên, đa phần các ý kiến đều cho rằng cần phải đáp ứng các yêu
cầu sau: Đổi mới nội dung, phương pháp và chương trình đào tạo; Đưa NLTT

17



thành môn học bắt buộc trong chương trình học giảng dạy cho sinh viên; Thiết kế
chương trình năng lực thông tin phù hợp đồng thời nâng cao trình độ đội ngũ cán
bộ giảng dạy về NLTT.
Chuẩn kiến thức thông tin dành cho giáo dục đại học
Tác giả Nghiêm Xuân Huy cho rằng Cần thiết phải xây dựng một bộ khung
chuẩn quốc gia về Kiến thức thông tin dựa trên những đặc thù về hành vi thông tin
và hệ thống giáo dục của Việt Nam. Khung chuẩn này chính là cơ sở để các cơ quan
giáo dục đào tạo, cũng như các cơ quan thông tin thư viện có thể xây dựng cho riêng
mình những chương trình kiến thức thông tin phù hợp. Hơn thế nữa, nó giúp cho việc
triển khai kiến thức thông tin tại Việt Nam trở nên đồng bộ và có hệ thống [10].
Để hướng dẫn việc phát triển NLTT cho sinh viên và lồng ghép NLTT vào
chương trình giáo dục, từ năm 1989 hiệp hội thư viện trên thế giới đã phát triển các
chuẩn NLTT dành cho giáo dục đại học. Tầm quan trọng của các chuẩn NLTT nằm
ở thực tế là nó cung cấp khung giúp cán bộ thư viện và giảng viên thiết kế chương
trình giảng dạy NLTT cũng như đánh giá mức độ NLTT của sinh viên. Mô hình này
được xây dựng bởi Hiệp hội Thư viện Đại học, Cao đẳng và Thư viện Quốc gia Anh
(SCONUL) năm 1999. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của thế giới thông tin, mô hình
này được cập nhật và mở rộng năm 2011. Về bản chất chúng là các khung khái
niệm trình bày các thành tố của NLTT, các chỉ số đánh giá và các chuẩn đầu ra. Mô
hình này bao gồm bảy kỹ năng chính:
- Xác định : Có thể xác định nhu cầu cá nhân về thông tin
- Phạm vi: Khả năng đánh giá kiến thức hiện có và xác định những kiến thức
còn thiếu.
- Kế hoạch: Khả năng vạch ra chiến lược để xác định dữ liệu và thông tin
- Tổng hợp: Khả năng định vị và truy cập dữ liệu thông tin cần thiết
- Đánh giá
- Quản lý: Khả năng tổ chức thông tin một cách phù hợp và chuyên nghiệp.
- Trình bày: Khả năng áp dụng các kiến thức đã thu được: trình bày kết quả
nghiên cứu, kết hợp nhưng thông tin, dữ liệu cũ và mới để tạo ra và phổ biến những

nguồn kiến thức mới [44].

18


Nghiên cứu về trang bị năng lực thông tin cho sinh viên các trường đại học
Bên cạnh vấn đề lý luận của năng lực thông tin thì về mặt ứng dụng cũng đã
có rất nhiều tác giả hay nói cách khác là những người trực tiếp tham gia vào cách
hoạt động chuyên môn nghề thư viện đã bắt tay vào làm rõ lý luận của năng lực
thông tin. Cụ thể các luận văn, luận án của các tác giả như Diệp Kim Chi (2011),
Nguyễn Ngọc Sơn (2011) Nghiêm Xuân Huy (2014), Trương Đại Lượng (2015),
Nguyễn Hồng Minh (2016), Lê Văn Trung (2016) và nhiều tác giả khác đã làm sáng
tỏ các nội dung sau:
-

Xây dựng khung lý thuyết về trang bị NLTT cho sinh viên đại học
Phân tích vai trò của NLTT đối với việc tự học suốt đời của sinh viên. Vai

-

trò của NLTT với giáo dục đại học
Phát triển nội dung các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho sinh

-

viên.
Tiêu chuẩn của NLTT đối với sinh viên và các giải pháp nhằm phát triển

-


NLTT phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi trường.
Phân tích các yếu tố tác động, những thuật lợi và khó khăn trong việc

-

phát triển NLTT.
Đề xuất các giải pháp tầm vi mô và vĩ mô trong việc xây dựng và phát
triển nội dung đào tạo NLTT cho sinh viên.

Trong năm 2015, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã triển khai
một dự án nghiên cứu và phát triển NLTT cho sinh viên năm thứ nhứ của Nhà
trường. Kết quả của dự án này là môn học Nhập môn năng lực thông tin đã được
đưa vào giảng dạy.
Những kết quả nghiên cứu trên đây là cơ sở quan trọng để tác giả triển khai
nghiên cứu đề tài luận văn xây dựng và phát triển chương trình đào tạo NLTT cho
sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội. Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về
xây dựng chương trình đào tạo NLTT dành cho sinh viên chuyên ngành luật. Để đạt
được mục tiêu cơ bản này. Nghiên cứu sẽ phân tích đáng giá hiện trạng NLTT của
sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội; phân tích bối cảnh, môi trường và nhận dạng
các yếu tố tác động đến việc phát triển NLTT của sinh viên. Đây chính là nội dung
nghiên cứu hoàn toàn mới và có ý nghĩa thực tiễn cao.
19


3. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Quan sát ban đầu của tác giả thấy rằng năng lực thông tin của sinh viên
Trường Đại học Luật Hà Nội chưa tốt nên việc xác định nhu cầu tin, tìm kiếm và sử
dụng thông tin phục vụ học tập chưa đạt hiểu quả cao. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân
do đâu dẫn đến tình trạng này? Theo tác giả có thể do: trong chương trình đào tạo

của nhà trường chưa lồng gép các nội dung liên quan đến năng lực thông tin; Thư
viện của Nhà trường chưa có một chương trình đào tạo năng lực thông tin hiệu quả
và phù hợp với sinh viên; Sinh viên chưa được trang bị kiến thức về năng lực thông
tin và họ chưa nhận thấy tầm quan trọng của các kiến thức này; năng lực thông tin
của sinh viên bị ảnh hưởng bởi những yếu tố trong môi trường mà họ học tập. Tất
cả các những vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ trong nghiên cứu này.
3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở đặt ra giả thuyết như trên và để làm sáng tỏ giả thuyết này, nghiên
cứu đặt ra những câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Thực trạng năng lực thông tin của sinh viên trường Đại học Luật
Hà Nội hiện nay như thế nào?
Câu hỏi 2: Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao năng lực thông tin
cho sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội?
Câu hỏi 3: Nội dung và cách thức triển khai đào tạo năng lực thông tin nào là
phù hợp với sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội?
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng Năng lực thông tin của sinh viên Trường Đại
học Luật Hà Nội, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm phát triển
NLTT cho sinh viên để phục vụ cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học đạt hiệu
quả trong bối cảnh đào tạo theo tín chỉ và đáp ứng nhu cầu chuẩn đầu ra hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

20


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực thông tin: khái niệm, vai trò, tiêu chí
đánh giá, yếu tố tác động đến năng lực thông tin.
- Khảo sát và phân tích đánh giá về thực trạng năng lực thông tin của sinh viên

Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nhận diện các yếu tố tác động đến việc nâng cao năng lực thông tin cho sinh
viện Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực năng lực thông tin cho sinh viên
Trường Đại học Luật Hà Nội.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Năng lực thông tin của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi không gian: Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu về năng lực thông tin của sinh viên Trường
Đại học Luật Hà Nội của các khóa sinh viên đang học tập tại Trường trong năm học
2016-2017.
- Phạm vi nội dung: Năng lực thông tin của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước về sự nghiệp thông tin - thư viện, về giáo dục & đào tạo làm căn cứ để
triển khai quá trình nghiên cứu.
6.2. Phương pháp cụ thê
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu: tác giả tiến hành tìm
kiếm, thu thập và đánh giá các tài liệu có liên quan đến đề tài này, đó là: các luận
văn, luận án, các đề tài nghiên cứu, các bài báo, các tài liệu chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước có liên quan, các báo cáo thống kê của Tổng cục thống kê cũng như các
báo cáo của các thư viện được tiến hành khảo sát. Trên cơ sở này tác giả đi phân

21



tích các nội dung có liên quan, tiến hành tổng hợp và đưa ra những nội dung cơ bản
nhất liên quan đến NLTT. Kết quả đầu ra của phương pháp này giúp tác giả xây
dựng cơ sở lý luận vững chắc để triển khai nghiên cứu các bước tiếp theo.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn lãnh đạo các Trung tâm Thông tin Thư
viện và lãnh đạo Trường Đại học Luật Hà Nội về vấn đề NLTT. Phương pháp phỏng
vấn sẽ giúp tác giả tìm hiểu sâu hơn và kỹ hơn những nội dung nghiên cứu mà tác
giả chưa dự đoán được. Lãnh đạo thư viện sẽ cung cấp cho nghiên cứu những thông
tin mang tính tổng quát, định hướng chiến lược, cũng như những thông tin chung về
đơn vị, đồng thời qua đây cũng thu thập được những quan điểm của lãnh đạo thư
viện về vấn đề NLTT. Đối với lãnh đạo Trường Đại học Luật Hà Nội, thông tin kỳ
vọng sẽ thu thập được chính là định hướng phát triển của trường đại học cũng như
chủ trương trong việc hợp tác vấn đề đào tạo NLTT. Phân tích sơ bộ kết quả phỏng
vấn là cơ sở để xây dựng bản hỏi được chính xác và chi tiết hơn.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để
điều tra diện rộng nhằm xác định các quy mô, tần suất và các mối tương quan giữa
các yếu tố và thông tin được phân tích đồng thời khẳng định và bổ sung cho những
số liệu phân tích từ phương pháp phỏng vấn. Sẽ có 2 loại bảng hỏi được sử dụng
trong nghiên cứu này: bảng hỏi giành cho cán bộ thư viện và bảng hỏi cho giảng
viên. Phạm vi quy mô điều tra phiếu hỏi là 226 phiếu khảo sát. Trong đó: 160 phiếu
giành cho sinh viên, 16 phiếu khảo sát giành cho CBTV, 50 phiếu khảo sát giành
cho giảng viên. Đối tượng mà tác giả để phát phiếu là tất cả sinh viên các khóa, tất
cả CBTV, giảng viên các khoa trong trường.
6.3. Các bước triên khai nghiên cứu
Bước 1. Xây dựng mô hình cần lấy thông tin
Ở bước này, dựa trên vấn đề nghiên cứu, giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu và
mục tiêu của luận văn, tác giả xây dựng một mô hình để lấy thông tin với mục đích:
lấy thông tin đủ, tránh trường hợp thông tin bị lấy thiếu, hoặc thừa không cần thiết.
Mục tiêu là làm sáng tỏ giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu. Cụ thể như Bảng 0.1: Mô
hình thu thập thông tin cho nghiên cứu


22


STT Các nội dung chính
1
Nhận thức/ thái độ, hiểu
biết về năng lực thông
tin.

3

Thực trạng NLTT của
sinh viênTrường Đại học
Luật Hà Nội

3

Thư viện và cán bộ thư
viện hỗ trợ sinh viên
trong việc phát triển
NLLT

4

Giảng viên

5

Đề xuất phát triển NLTT
của sinh viên viên

Trường Đại học Luật Hà
Nội

23

Chi tiết thông tin cần lấy
- Hiểu biết của các bên liên quan về năng lực
thông tin là gì: lãnh đạo trường, lãnh đạo thư
viện, cán bộ thư viện, giảng viên, và sinh viên.
- Quan điểm và đánh giá của lãnh đạo, giảng
viên và cán bộ thư viện về tầm quan trọng của
NLTT.
- Chủ trương/định hướng/Chính sách của nhà
trường/thư viện về phát triển NLTT cho sinh
viên
- Các kỹ năng về nhận dạng nhu cầu tin, tìm
kiếm thông tin, đánh giá thông tin, sử dụng
thông tin và trình bày nhu cầu tin thế nào
- Vấn đề sử dụng thông tin hợp đạo đức và
pháp luật
- Vấn đề đạo văn, trích dẫn/ghi nguồn, tài liệu
tham khảo
- Năng lực viết bài luận của sinh viên
- Vấn đề khai thác và sử dụng thư viện của sinh
viên
- Thư viện hiện đang có các chương trình hỗ trợ
nào liên quan đến khai thác và sử dụng thông
tin/tài liệu. Có các hình thức đào tạo nào? Kinh
phí hàng năm cho hoạt động này có không?
- Những điểm nào còn thiếu trong cách hoạt

động hỗ trợ này
- Kế hoạch của thư viện cho các hoạt động hỗ
trợ bạn đọc trong tương lai
- Đánh giá của sinh viên/giảng viên về các dịch
vụ hiện tại của thư viện
- Năng lực thông tin của cán bộ thư viện đang ở
mức nào? Cần phải đào tạo thêm những gì?
- Giảng viên đã quan tâm đến năng lực thông
tin cho sinh viên chưa?
- Giảng viên có yêu cầu sinh viên phải đánh giá
thông tin, sử dụng thông tin đúng pháp luật,
đạo đức, không đạo văn không? Có áp dụng
vào trong từng bài giảng?
- Cần trang bị những nội dung nào về NLTT
cho sinh viên
- Các hình thức triển khai đào tạo như thế nào
là phù hợp.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà


trường đối với việc áp dụng NLTT như thế nào.
- Các bên liên quan cần phối hợp như thế nào
để đưa các nội dung này vào thực tiễn.
Bảng 0. 1: Mô hình thu thập thông tin cho nghiên cứu
Bước 2. Xác định đối tượng cần lấy thông tin
-

-

Bảng hỏi: 226 người, 3 đối tượng:

• Sinh viên: 160
• Giảng viên: 50
• Cán bộ thư viện: 16
Phỏng vấn: 5 người bao gồm 2 đối tượng:
• Lãnh đạo nhà trường
• Lãnh đạo thư viện
Dựa trên Bảng 1 ở trên, tác giả sẽ xác định những đối tượng nào cần thu thập

thông tin gì để phục vụ cho nghiên cứu. Đây chính là cơ sở để xây dựng bản hỏi và
các câu hỏi phỏng vấn. Cụ thể xem Bảng 0.2.
Thông tin cần thu thập/ Lãnh
chủ thể cung cấp thông tin đạo
trường
Sự hiểu biết chung về
X
NLTT
Quan điểm về tầm quan
X
trọng của NLTT
Chinh sách phát triển năng
X
lực thông tin
Thực trạng kỹ năng về nhận
dạng nhu cầu tin, tìm kiếm
thông tin đánh giá thông
tin, sử dụng thông tin và
trình bày nhu cầu tin của
sinh viên
Thực trạng sử dụng thông
tin hợp đạo đức và pháp

luật của sinh viên
Thực trạng sử dụng đạo
văn, trích dẫn/ghi nguồn, tài
liệu tham khảo của sinh
viên
Thực trạng Năng lực viết
bài luận của sinh viên
Thực trạng khai thác và sử
24

Lãnh
Cán bộ Giảng
đạo thư thư viện viên
viện
X
X
X
X

Sinh
viên
X

X

X

X

X


X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X



dụng thư viện của sinh viên
Nên có các chương trình hỗ
X
trợ nào liên quan đến khai
thác và sử dụng thông
tin/tài liệu.
Kinh phí hàng năm cho
X
hoạt động này?
Những bên nào đã quan tâm
đến năng lực thông tin cho
sinh viên
Các nội dung cơ bản về
X
năng lực thông tin cần có
cho sinh viên
Các hình thức triển khai
X
đào tạo
Phương pháp giảng dạy
X
trong nhà trường đối với
việc áp dụng NLTT
Đào tạo NLTT nên tổ chức
X
vào thời gian trong năm
Bảng 0. 2: Đối tượng cần lấy thông tin


X

X

X
X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X


X

X

Bước 3. Xây dựng bảng hỏi, câu hỏi phỏng vấn
Trên cơ sở của giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu, dựa vào Bảng 1 và Bảng 2, tác
giả tiến hành xây dựng các bảng hỏi và câu hỏi phỏng vấn cho các đối tượng khác nhau.
Xin xem bảng hỏi và câu hỏi phỏng vấn trong phần Phụ lục ở cuối luận văn này.
Để xây dựng bảng hỏi sát với thực thế, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sơ bộ và
khảo sát đối với sinh viên, giảng viên và cán bộ thư viện để có số liệu mẫu ban đầu.
Trên cơ sở phân tích số liệu mẫu tác giả xây dựng các bảng hỏi và câu hỏi phỏng
vấn chính thức cho các đối tượng cụ thể.
Bước 4. Tiến hành khảo sát
Đối với sinh viên, tác giả chọn ngẫu nhiên sinh viên từ năm thứ nhất đến sinh
viên năm cuối.
Đối với giảng viên, tác giả chọn ngẫu nhiên các giảng viên ở các lứa tuổi, giới
tính và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
Đối với cán bộ thư viện, tác giả khảo sát 100% cán bộ thư viện

25


×