Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tại sao Việt Nam cần phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.6 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

Đề tài 2: Tại sao Việt Nam cần phải chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ?

Nhóm 1: 
GVHD: Cô Đào Thị Bích Hồng
Thành viên nhóm:
Ngô Chánh Phúc

: 51102603

Ngô Hoàng Phương

: 51104460

Lại Ngọc Tuân

: 51104466

Nguyễn Văn Bảo Chinh : 51100378

Lớp Đường lối cách mạng đảng cộng sản Việt Nam
Thứ 5 - Tiết 9-10-11-12


Đề tài 2: Tại sao Việt Nam cần phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung 
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ?


Theo bạn để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thì trường 
ở Việt Nam hiện nay cần phải làm gì?
BÀI LÀM

I – Lý do cần thiết chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN
1. Đặc điểm kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
(Thời bao cấp 1976 – 1986)

a. Định nghĩa: Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai 
đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một 
đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa không được mua 
bán tự do trên thị trường mà do nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, 
không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa 
phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ 
khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo 
đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật.
b. Cơ chế quản lí kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
­ Thứ nhất, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt cho các doanh nghiệp.
 Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước
Lỗ  nhà nước bù.
Lãi  nhà nước thu.
­ Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp.
­ Thứ ba, quan hệ hàng hóa ­ tiền tệ bị coi nhẹ, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
­ Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu.


c. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, Hàng hóa thấp 
hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Hạch toán kinh tế chỉ là 
hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công 
nhân viên theo định mức qua tem phiếu. Tem phiếu với mức giá khác xa so với giá 
thị trường 
Tiền lương thành lương hiện vật thủ tiêu động lực kích thích người lao động, phá 
vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.


Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm đối
với các đơn vị được
cấp vốn => Tăng gánh nặng đối với ngân sách, sử dụng
vốn kém hiệu quả => Nảy sinh cơ chế “xin­cho”

d. kinh tế thời bao cấp:
Những câu vè dưới đây nói lên giá trị của những mặt hàng trong thời bao cấp:
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lớp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu.
 “Thời bao cấp không có thị trường tự do về buôn bán cũng như về trao đổi các mặt hàng, 
cụ thể như lạc [đậu phụng] chỉ để lại vừa đủ làm giống cho vụ sau. Người sản xuất không 

tiêu dùng là tốt, người trồng lạc không ăn lạc, không dùng lạc để làm kẹo hay luộc để bán …
Đối với nông sản dùng để chế biến thực phẩm cho nhân dân thì nhà nước phải quản lý chặt 
chẽ trên thị trường, không để ai buôn bán kiếm lời”.
Nhận xét:
­ Thời kì bao cấp đã thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học ­ công nghệ, không kích 
thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh…
­ Coi thị trường là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận sự tồn tại 
của nền kinh tế nhiều thành phần; lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn xoá 
sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân

 Kinh tế trì trệ, khủng hoảng.

e. Con người:

Chế độ bao cấp ngoài việc khiến người dân lúc nào cũng đói còn hủy hoại những giá
trị đạo đức căn bản của con người. Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài kể lại: “Ở một cửa hàng 
ăn rất sang hồi ấy, những chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt vít xuống mặt bàn. Một sự thực
nhiều người tuổi tôi còn nhớ: các quán mậu dịch giải khát (kể cả cà phê) loại tầm tầm cũng 


“thống nhất” đục một lỗ thủng các thìa nhôm để đánh dấu. Vì sao ư, đơn giản lắm, vì sợ ăn 
cắp…” 
Quả thật, trong xã hội bao cấp, càng ngày nạn ăn cắp càng phổ biến, dù chỉ là ăn cắp vặt. 
Ăn cắp bởi quá thiếu thốn và cũng bởi ăn cắp quá nhiều nên không bị coi là hành động xấu 
nữa. ‘Cái khó không bó cái khôn’, nhưng chỉ là ‘khôn vặt’ theo kiểu ‘đói ăn vụng, túng làm 
liều’

Chính sách em học đã thông
Chỉ vì túng thiếu xin ông ít nhiều
Thời bao cấp, xã hội bị phân hóa. Đó là điều nghịch lý trong xã hội chủ nghĩa vốn hướng 

đến một Thế giới Đại đồng. Số liệu ghi trong cuốn Kinh tế Việt nam 1945­2000:
“Trong khi người dân thường mỗi tháng chỉ được 150 gram thịt, thì cán bộ cao cấp được 
6kg, tức là bốn chục lần nhiều hơn. Và tính ra chênh lệch là 100 đồng. Ngoài ra còn thuốc 
lá, chè, đường, sữa, len dạ, cũng tạo ra khoản chênh lệch khoảng 100 đồng nữa”.
Nhiệt tình cách mạng của cán bộ thời kháng chiến ngày nào giờ chỉ xoay quanh vấn đề… 
ăn. ‘Ăn’ được hiểu theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, người ta ‘ăn’ theo nhiều kiểu, tùy vào 
cấp bậc, địa vị:
Cán bộ cao ăn cung cấp
Cán bộ thấp ăn chợ đen
Cán bộ quen ăn cổng hậu
Thời bao cấp, xe hơi ở Hà Nội rất hiếm, nên chỉ cần nhìn một chiếc ‘xe con’ đi qua 
người ta biết ngay cán bộ cấp nào ngồi trong đó. Xe Pobeda, và sau này là Vonga màu đen,
dành cho  cấp bộ trưởng trở lên. Các thứ trưởng và cấp tương đương đi những chiếc nhỏ 
hơn, loại Moskovits.

f.

Lực lượng sản xuất:
     Ruộng đất, tư liệu, công cụ sản xuất đều bị nhà nước thu gom đưa vào các hợp 
tác xã. Các hoạt động sản xuất đều diễn ra tập trung, mệnh lệnh. Làm theo khả năng
nhưng hưởng theo nhu cầu( người làm người không đều được hưởng như nhau) 
chính điều này không phát huy được hết năng lực sản xuất của người lao động. 
Không có hình thức sở hữu tư nên người lao động khi làm việc không có sự cạnh 
tranh trong sản xuất của cải; họ không có cảm giác làm ra của cải cho chính mình.

g. Quan hệ sản xuất:
Tại miền Nam, đồng bằng sông Cửu Long vốn là vựa thóc nhưng trong thời bao cấp 
chính sách ‘ngăn sông cấm chợ’ không cho phép nông sản được xuất tự do ra khỏi địa 
phương. Tất cả đều được nhà nước ‘thu mua’ với hàm ý ‘vừa tịch thu, vừa mua lại’.
Dưới mắt người nông dân đó là hình thức ‘mua như cướp’ theo ‘giá nghĩa vụ’ hoặc ‘giá 

khuyến khích’… Ngược lại, đến khi nhà nước bán cho người tiêu dùng, họ ‘bán như cho’, 
người mua có cảm tưởng được cửa hàng… bố thí chứ không thực sự là đi mua với đồng 
tiền của mình!


Tóm lại: Sau thời kì cách mạng giải phóng đất nước 1975 là thời kì phát triển kinh tế và đất nước ta
đã chọn chế độ bao cấp cho thời kì này. Chính chế độ này đã phủ một màn đen lên đất nước ta trải
dài từ Bắc đến Nam kiềm hãm sự phát triển không những kinh tế mà còn cả xã hội khiến cho kinh tế
trì trệ, khủng hoảng kéo dài, đời sống con người túng quẫn, đạo đức ngày càng suy thoái…. Chính vì
lẽ đó mà thời kì này vẫn cần một cuộc cách mạng: cách mạng kinh tế - cách mạng để đổi mới. Và Đại
hội VI – 1986 đã đáp ứng mong mỏi đó.

2. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XHCN
(Thời kì đổi mới 1986 đến nay)
a. Định Nghĩa: Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội 
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới 
được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 
1986.
Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt 
Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn 
hóa... Tuy nhiên chính trị không có những thay đổi nhiều so với Kinh tế.
b. Các đặc trưng
- kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế
còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa nước
ta đạt đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-

Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có 
sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được 

tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc 
phòng...) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành 
kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa.

-

Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà 
nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày 
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. 

Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khung khổ
pháp luật của nhà nước XHCN.
-

Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh 
tế thành công.

-

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế “mở” cả với bên
trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, hoạt động
của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị


trường nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của
phương thức sản xuất chủ đạo.
-

Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh 

tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội.
Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa
theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển 
kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng 
bước, từng chính sách phát triển.

-

Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.

-

Các tổ chức chính trị­xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến 

khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
Tóm lại: Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã khắc phục được các nhược điểm của nền
kinh tế bao cấp dần dần đưa kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, trì truệ. Cho phép nền
kinh tế vận động theo quy luật của nó dưới sự kiểm soát của nhà nước đảm bảo tính XHCN.
Kinh tế mở phát triển đa phương giúp kinh tế phát triển nhanh, hội nhập. Thừa nhận nền
kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện cho cạnh tranh lành mạnh phát huy được sức mạnh
của mỗi con người.

II – GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BÁO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XHCN
TRONG NỀN KT VIỆT NAM
A. Nội dung của tính định hướng XHCN trong nền KT ở Việt Nam
Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội VI đến đại hội
VIII
 Một là, kinh tế thị trường là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
 Hai là, KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
 Ba là, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta

Đặc điểm của kinh tế thị trường:
 Chủ thể kinh tế có tính độc lập (có quyền tự chủ trong SX, kinh doanh; lỗ, lãi
tự chịu).
 Giá cả cơ bản do cung-cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ.
 Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật của KTTT (giá trị, cung-cầu, cạnh
tranh).
 Hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Tư duy của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội
XI
 Về mục đích: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; giải
phóng mạnh mẽ LLSX và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
 Về phương hướng: Phát triển nền KT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần KT,
phát huy tối đa nội lực để phát triển kinh tế.
Kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo.


 Về định hướng XH và phân phối: Thực hiện tiến bộ, công bằng XH trong từng bước và
chính sách phát triển; tăng trưởng KT gắn với phát triển XH, văn hóa, giáo dục-đào tạo.
Phân phối chủ yếu theo kết quả LĐ, hiệu quả kinh tế; phúc lợi XH; mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác.
 Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ XH của nhân dân; vai trò quản lý, điều tiết nền kinh
tế của NN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

B. Giải pháp đảm bảo tính định hướng XHCN của nền KT Việt Nam
1.  Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường ở Việt
Nam vẫn đang là một yêu cầu khách quan và cấp bách. Để thực hiện yêu cầu này, cần thực
hiện mét sè giải pháp sau đây:
* Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế

Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều bộ  luật, luật, pháp lệnh để  đáp
ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, đến nay hệ  thống pháp luật kinh tế  của Việt Nam
còn thiếu và chưa đồng bộ, thường phải sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung.
* Đẩy mạnh cải cách hành chính
Cải cách tổ chức bộ máy các cấp tõ trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn,
có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
Cải cách công cụ  và chế  độ  công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, tinh nhuệ.
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản,
kiên quyết xóa bỏ  các thủ  tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các
doanh nghiệp.
Tất cả  nỗ  lực đó nhằm xây dựng mét nền hành chính nhà nước trong sạch, vững
mạnh, có hiệu lực, hiệu quả  theo hướng xây dựng mét Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.  Giải pháp nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong
nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Để  củng cố  và phát huy vai trò chủ  đạo của kinh tế  Nhà nước, Nhà nước cần chú
trọng trước hết đến việc làm cho nền kinh tế  phát triển nhanh và bền vững, trong đó phải
sớm khắc phục tình trạng kém hiệu quả  của mét bộ  phận Doanh nghiệp Nhà nước bằng
cách:
­ Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Muốn
vậy, trước hết phải kiên quyết xoá bỏ  bé chủ  quản, để  các Doanh nghiệp Nhà nước hoàn
toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi và đóng góp cho NSNN


theo luật định. Các Bộ chỉ thực hiện việc quản lý Nhà nước theo phảp luật, không can thiệp
vào công việc sản xuất, kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước.
­ xúc tiến mạnh mẽ việc cổ phần hoá nhiều Doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện chế
độ “đồng sỡ hữu”, “chế độ quản lý dân chủ” và chế  độ tham gia phân phối lợi nhuận của tất
cả các thành viên. Đối với các Doanh nghiệp có tầm quan trọng

đối với quốc tế, dân sinh, Nhà nước có thể giữ lại không cổ phần hoá, cũng phải đổi
mới theo hướng dân chủ hoá.
­ Ngoài ra để  đưa Doanh ngiệp Nhà nước phát triển mạnh mẽ  cần phải có một đội
ngũ cán bộ quản lý giá, công nhân lành nghề, chế độ  quản lý dân chủ và có hiệu quả. Việc
bổ nhiệm các chức danh quản lý nên thông qua chế độ thi tuyển để chọn người có đạo đức,
phẩm chất, có chuyên môn, nghiệp vụ  giái và bên cạnh đó phải có chế  độ  đãi ngộ  đối với
nhân tài. Thực hiện cơ chế  để  công nhân tham gia quản lý và giám sát các hoạt động của
Doanh nghiệp, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính của Doanh nghiệp phải được
công khai hoá, minh bạch hoá.
3. Giải pháp tăng cường quan hệ phân phối trong nền KTTT định hướng XHCN
Để  đảm bảo tiến bộ  xã hội, thực hiện công bằng trong nền kinh tế  thị  trường theo
định hướng XHCN  ở  Việt Nam, khi quá trình thực hiện phân phối trong nền KTTT định
hướng XHCN, chúng ta cần phải thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ  yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào quá trình trên, xem đây là nguyên tắc phân phối phù hợp với điều kiện cụ thể
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa Xã hội ở nước ta.
Việc phân phối theo kết quả  lao động và hiệu quả  kinh tế  được xem là chủ  yếu và
đặt  ở  vị  trí hàng đầu của công bằng xã hội vì chính lao động có năng suất, chất lượng và
hiệu quả  mới thực sự  là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải cho xã hội. Nhưng
ngoài phân phối theo lao động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh còng phải được coi là công bằng.
Đồng thời Nhà nước cần có chính sách điều tiết thu nhập giữa những người tham
gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh sao cho người lao động không bị nhà Tư bản bóc lột
quá mức mà có thu nhập xứng đáng với giá trị  hao phí sức lao động đã được xã hội thừa
nhận.
Ngoài việc phân phối cho những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, 
kinh doanh như đã đề cập ở trên, ở tầm quản lý vĩ mô, Nhà nước XHCN còn cần phải thi 
hành chính sách phân phối lại thông qua các sắc thuế và phúc lợi xã hội. Các sắc thuế này 
một mặt tạo nguồn thu cho NSNN và phân bổ các khoản chi tõ ngân sách Nhà nước cho 
đầu tư phát triển và cho tiêu dùng, mặt khác nó góp phần phân phối lại thu nhập giữa các 



tầng lớp dân cư. Còn đối với phúc lợi xã hội nên mở rộng chính sách này ra thành chính 
sách an sinh xã hội bao gồm: Chính sách ưu đãi Xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội, chính 
sách trợ cấp xã hội, chính sách cứu tế xã hội và chính sách tương trợ xã hội …
4.Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta đã thiết
lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì 
vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ
cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình 
thành những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ 
sở của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính 
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, 
nâng cao hiệu quả kinh tế­ xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để 
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh 
doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều 
được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy 
cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng 
yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương 
cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần 
nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng 
công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ 
thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối 
với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh 
tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng 
cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất, 
kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác 

xã.
Khuyến khích kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư 
nhân) phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá 
thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức 
liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng 
cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
5. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học 
­ công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy,
để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát 
triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết 
định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất ­ kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.


Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời 
gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn 
công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại 
về khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những 
thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực 
của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao 
động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; 
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, 
tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
6. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường 
mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để 
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng 

phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới chúng ta cần
phải:
­ Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc 
quyền kinh doanh; xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. 
Phát triển mạnh thương mại trong nước, tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
­ Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền 
tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường 
vốn và thị trường chứng khoán.
­ Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất 
động sản gắn liền với đất.
­ Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xuất khẩu 
lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề.
­ Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách 
để phần lớn các sản phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hóa.
7. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế 
giới, mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế 
mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng 
đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi 
khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút 
vốn đầu tư nước ngoài cần hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên 
tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải 


thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các diễn 
đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.

8. Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là 
điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn 
giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh 
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy 
quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các 
doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước.
9. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản 
lý kinh tế của Nhà nước
Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận 
hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan 
trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực 
của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc 
gia. Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế; có hệ thống chính sách nhất quán
để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế; hạn chế, khắc phục những 
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước 
về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản trị 
kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Nhà nước sử 
dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. 
Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính 
sách tiền lương và giá cả.

III – THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI
A. Về phát triển kinh tế
1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Kết thúc kế

hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng
tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Việc thực
hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế
lạm phát,
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền


kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng
trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết
các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất
công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng
12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng
27% so với giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng
trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm
trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được
tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của
kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng
chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và
thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách
khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình
quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng
4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính
cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với
năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc

triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001
- 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm
trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông
nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng
7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8
nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10
triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát
triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ
50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu;
đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự
ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi
thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước
hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất
lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân
5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch
đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần
kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam
kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt


khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ

USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp
hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước
trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần
năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) .
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức
tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì
đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính
tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu
dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng
33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất khẩu có thể
vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã
đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng
ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay
cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD (11).
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong
đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng
đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng
cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường
trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số
ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn
định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá
trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững
chắc hơn.


2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên
tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên
41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối
lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất
khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng


cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.

3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các
thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực

rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế
tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công
nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho
nhiều người dân.

4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần
dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song
phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối
ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành
luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư,
kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình
thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn
tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.



B. Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được
cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải
kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển
được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu
người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86
USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần
như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/người/năm,
nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung
bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi
năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc
làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt
khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6
triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động
qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia,
tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn
theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán,
thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương
thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng
17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn
cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs)
của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm
nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ

chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ
giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm
2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên
90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung
học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3
triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi
để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật)
đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu
quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền
thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai


thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng
dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử
vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm
2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn
khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm
nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người
dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ
0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm

2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP
bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc:
GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn
HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt
Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã
đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên
qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.


Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy
trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định.
Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng
lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động
viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những
bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối
tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam./.

VII – KẾT LUẬN:
Như vậy chúng ta có thể thấy là cuộc cách mạng thứ 2 – cách mạng đổi mới bước đầu đã
giành thắng lợi khẳng định con đường đổi mới của đất nước ta là hoàn toàn đúng đắng; kinh
tế phát triển, bộ mặt đất nước đổi mới hoàn toàn đã chính minh cho đều đó. Trên bước đầu
thành công ấy vẫn còn tồn tại rất nhiều yếu kém; tỉ lệ công nghiệp hóa thấp, tỉ lệ thất nghiệp
cao, phát triển chưa bền vững…. Đây là những vẫn đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc và khắc

phục để đưa nước ta tiến lên con đường XHCN một cách vững chắc.

Tài liệu tham khảo:

/> /> /> />


×