Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Kỳ thị đối với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIVAIDS (nghiên cứu tại quận 8 và quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.03 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------

VÕ HOÀNG SƠN

KỲ THỊ ĐỐI VỚI TRẺ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS
(NGHIÊN CỨU TẠI QUẬN 8 VÀ QUẬN BÌNH THẠNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Chuyên ngành: Xã Hội Học
Mã số: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN THỊ KIM XUYẾN

HÀ NỘI - 2018


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Kim Xuyến

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Khoa học Xã hội
vào hồi

giờ

phút, ngày

tháng

năm 2018.

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS là một vấn đề toàn cầu, mà cả thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng đang cùng nhau giải quyết để đạt được một trong ba mục tiêu “Không
còn kỳ thị với người có HIV” nhằm để kết thúc dịch HIV/AIDS vào năm 2030. Kỳ thị liên
quan đến HIV được coi là trở ngại chính đối với sự thành công và loại trừ được dịch
AIDS. Hội nghị Tư vấn khu vực Đông Á Thái Bình Dương về trẻ em và HIV/AIDS năm
2006 đã nhận ra vấn đề trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV (trẻ BAHBH) chưa được sự quan
tâm thật sự, kỳ thị với trẻ em BAHBH đã tước đi các quyền cơ bản của các em. Bên cạnh
đó, cũng chưa có những chương trình hành động và các văn bản chính sách của các quốc
gia. Tại Việt Nam, nghiên cứu về kỳ thị đối với trẻ em BAHBH vẫn còn rất khiêm tốn.
Hơn thế nữa, việc vận dụng các lý thuyết vào nghiên cứu kỳ thị ở Việt Nam vẫn còn rất
hạn chế. Đây chính là lý do luận án “Kỳ thị đối với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
(nghiên cứu tại quận 8 và quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh)” là cần thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài đánh giá thực trạng kỳ thị đối với trẻ em BAHBH tại quận 8 và quận Bình
Thạnh thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ thị
và hậu quả của kỳ thị. Đồng thời, ứng dụng kết quả nghiên cứu dưới góc nhìn xã hội học
góp phần xóa đi sự kỳ thị của cộng đồng xã hội và hoàn thiện dần lý luận và phương
pháp luận xã hội học về kỳ thị cũng là mục đích khác mà luận án muốn hướng tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
-

Trước tiên là việc mô tả thực trạng Trẻ em BAHBH tại quận 8 và quận Bình Thạnh,
TP.HCM.

-

Thứ hai, cần nhận dạng và mô tả được các loại hình kỳ thị đối với trẻ em BAHBH

-

Thứ ba, phân tích được các nhân tố gây ra sự kỳ thị đối với trẻ em BAHBH và mô tả
hậu quả của sự kỳ thị đối với trẻ em BAHBH.

1


-

Thứ tư, phân tích các yếu tố cản trở Trẻ em BAHBH và người chăm sóc trẻ tiếp cận
được các chính sách bảo trợ xã hội, dịch vụ hỗ trợ.


-

Cuối cùng, gợi mở các giải pháp để khuyến nghị góp phần xóa sự kỳ thị đối với Trẻ
em BAHBH.

3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu bao gồm trẻ em BAHBH trong độ tuổi từ sơ sinh đến dưới 18
tuổi, người chăm sóc trực tiếp trẻ em BAHBH, chính trẻ em BAHBH từ 12-17 tuổi và
người dân có con em trong độ tuổi dưới 18 tại bốn phường có nhiều trẻ em BAHBH
thuộc quận 8 và quận Bình Thạnh, TP.HCM, cũng như Bác sỹ điều trị ART và cán bộ
phòng Lao động Thương binh Xã hội quận.
Đối tượng: Sự kỳ thị đối với trẻ BAHBH được xác định là đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: giới hạn tại bốn cơ sở đang điều trị ART cho trẻ có HIV và cha mẹ
trẻ có HIV bao gồm: Bệnh viện Nhi đồng I, bệnh viện Nhi đồng II, hai phòng khám ngoại
trú của Khoa tham vấn hỗ trợ cộng đồng quận 8 và Khoa tham vấn hỗ trợ cộng đồng quận
Bình Thạnh cũng như tại cộng đồng của quận 8 và quận Bình Thạnh.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2013-2017. Thời điểm nghiên
cứu thực địa từ tháng 4-11/2014.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận chính là phương pháp diễn
dịch. Từ vấn đề nghiên cứu được xác định, tác giả đã xây dựng cơ sở lý thuyết, thiết lập
giả thuyết nghiên cứu và phát triển khung nghiên cứu. Một cuộc điều tra chọn mẫu theo
lát cắt ngang được triển khai nhằm thu thập dữ liệu làm luận chứng kiểm định giả thuyết.
Phương pháp nghiên cứu: kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng với 400 bảng
hỏi (200 người dân cộng đồng, 152 người chăm sóc trực tiếp trẻ BAHBH và 48 trẻ em
BAHBH) và phương pháp nghiên cứu định tính với 22 phỏng vấn sâu người chăm sóc trẻ
và trẻ BAHBH, 2 cuộc thảo luận nhóm người chăm sóc trẻ và trẻ BAHBH, trong đó
nghiên cứu định tính là chính.


2


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Từ quan điểm lý thuyết kỳ thị- gán nhãn với khung lý thuyết của Steward lần đầu tiên
được vận dụng tại Việt Nam, luận án đã minh chứng có bốn dạng kỳ thị đối với trẻ em bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS (trẻ BAHBH): nhận thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng
đồng, cảm nhận người khác bị kỳ thị, trải nghiệm bị kỳ thị và tự kỳ thị qua năm biểu hiện
kỳ thị phổ biến như nói sau lưng, tránh xa, nhận xét tiêu cực, từ chối giao tiếp và than
phiền. Thuyết lựa chọn hợp lý đã lý giải động cơ và hành động của người chăm sóc trực
tiếp trẻ BAHBH về việc không muốn tiết lộ tình trạng có HIV của gia đình để được tiếp
cận chính sách xã hội và dịch vụ y tế, giáo dục. Thuyết phát triển con người với lăng kính
Quyền trẻ em đã mô tả HIV/AIDS đang ảnh hưởng đến các quyền của trẻ em BAHBH.
Thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng (NDCĐ) đối với trẻ BAHBH vẫn còn rất cao,
đặc biệt, các tình huống liên quan trực tiếp đến con, cháu họ thì sự kỳ thị lại càng thể hiện
rõ hơn. Trình độ học vấn ảnh hưởng đến thái độ kỳ thị của NDCĐ. Thêm vào đó, ba yếu
tố tác động đến việc ngăn cản không cho trẻ BAHBH học chung với trẻ khác là: giới tính,
nghề nghiệp và hiểu biết chưa đầy đủ về HIV.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
a. Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp phần làm phong phú thêm sự vận dụng khi kết hợp các lý thuyết kỳ
thị- gán nhãn và lý thuyết sự lựa chọn hợp lý với lý thuyết sự phát triển con người vào
thực tiễn. Luận án đã minh chứng rằng lý thuyết kỳ thị, đặc biệt khung lý thuyết về kỳ thị
của Steward lần đầu tiên được vận dụng tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cho Trẻ em
BAHBH. Bên cạnh đó, những định kiến gán nhãn của người dân cộng đồng đã làm tăng
hơn mức độ tự kỳ thị của người chăm sóc trẻ và chính Trẻ em BAHBH. Thêm vào đó, lý
thuyết sự lựa chọn hợp lý được sử dụng trong luận án để làm đa dạng hơn cách diễn giải
của người chăm sóc trực tiếp trẻ và chính Trẻ em BAHBH về việc liệu có nên tiết lộ tình
trạng có HIV của gia đình để được tiếp cận chính sách xã hội và các dịch vụ y tế xã hội.
Thuyết về sự phát triển con người đã “nhìn” dưới góc độ về Quyền trẻ em cho thấy rằng

HIV/AIDS đang ảnh hưởng trầm trọng đến các nhóm Quyền của Trẻ em BAHBH. Cuối
cùng, luận án đã góp phần làm phong phú hơn lý luận về kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS
tại Việt Nam.

3


b. Ý nghĩa thực tiễn:
Công trình nghiên cứu mang tính mới mẽ và thú vị khi lần đầu tiên mô tả thực trạng
kỳ thị đối với trẻ em BAHBH, không chỉ bằng dữ liệu định tính, mà còn có dữ liệu định
lượng để hỗ trợ, đặc biệt là phân tích dưới bốn dạng kỳ thị lần đầu được minh chứng tại
Việt Nam: nhận thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng đồng, cảm nhận người khác bị kỳ
thị, trải nghiệm bị kỳ thị và tự kỳ thị thông qua năm biểu hiện kỳ thị phổ biến như nói sau
lưng, tránh xa, nhận xét tiêu cực, từ chối giao tiếp và than phiền đối với trẻ em BAHBH.
Hơn thế nữa, nghiên cứu đã đưa ra bốn chiến lược ứng phó với sự kỳ thị của người chăm
sóc trẻ và chính trẻ em BAHBH.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng kiến thức đúng toàn diện về HIV của người dân
cộng đồng chưa cao. Thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em BAHBH vẫn
cao, đặc biệt, đối với các tình huống liên quan trực tiếp đến con, cháu họ thì sự kỳ thị lại
càng thể hiện rõ hơn. Bốn nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị của người dân cộng đồng là: (i)
hiểu biết chưa đầy đủ về HIV, (ii) lo sợ quá mức về nguy cơ lây nhiễm HIV, (iii) định
kiến người có HIV với các tệ nạn xã hội và (iiii) tự kỳ thị. Kết quả hồi quy logistic cho
thấy trình độ học vấn càng thấp thì mức độ kỳ thị càng cao. Thêm vào đó, ba yếu tố tác
động đến việc ngăn cản không cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ khác là: giới tính
(nữ kỳ thị hơn nam), nghề nghiệp (nhân viên văn phòng kỳ thị hơn người nội trợ, không
việc làm) và hiểu biết chưa đầy đủ về HIV.
Cảm nhận người khác bị kỳ thị, lo sợ bị kỳ thị dẫn đến tự kỳ thị của người chăm sóc
trẻ em và chính trẻ em BAHBH là phổ biến. Hậu quả của kỳ thị đối với trẻ em BAHBH
đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý, sự phát triển và chất lượng cuộc sống của trẻ. Thuyết
sự lựa chọn hợp lý đã giúp lý giải theo cách nhìn của người trong cuộc là người chăm sóc

trực tiếp trẻ và chính trẻ em BAHBH không muốn tiết lộ tình trạng có HIV do sợ bị kỳ
thị, họ sẽ chọn giải pháp nào vừa có lợi nhất mà an toàn cho cuộc sống gia đình họ. Kết
quả của luận án góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo giá trị về kỳ thị đối với
trẻ em BAHBH cho những người quan tâm.

4


7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận khuyến nghị, luận án có 4 chương:
Chương 1 Tổng quan nghiên cứu
Chương 2 Cơ sở lý thuyết, thiết kế nghiên cứu và bối cảnh kinh tế, xã hội, HIV/AIDS
và thể chế liên quan đến kỳ thị đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV.
Chương 3 Thực trạng kỳ thị đối với trẻ em BAHBH,
Chương 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự kỳ thị, hậu quả của sự kỳ thị đối với trẻ
em BAHBH và chiến lược đối phó với kỳ thị của người chăm sóc trẻ em BAHBH.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Đặc trưng kỳ thị liên quan đến HIV
Khái niệm về kỳ thị: Tận dụng khái niệm của Goffman, Link và Phelan, Liên Hợp
Quốc Phòng, chống AIDS (UNAIDS) định nghĩa kỳ thị liên quan tới HIV/AIDS là một
“quá trình hạ thấp giá trị” (devaluation) của những người hoặc là có HIV/AIDS hoặc có
mối quan hệ với HIV/AIDS. Kỳ thị này nói đến thái độ, cảm nhận và niềm tin tiêu cực
hướng đến người có HIV hoặc là liên quan với HIV. Kỳ thị được biểu hiện qua ngôn ngữ,
thái độ và hành vi kỳ thị như tẩy chay, bỏ rơi, xa lánh, tránh giao tiếp mỗi ngày, lời nói
quấy rối, bạo hành thân thể, lời nói xúc phạm làm mất uy tín, trách mắng và nói xấu sau
lưng. Trong đề tài, tác giả không sử dụng khái niệm phân biệt đối xử như một khái niệm
riêng lẻ mà xem là kết quả cuối cùng của quá trình kỳ thị.
Nguyên nhân của kỳ thị: thường tập trung vào ba nguyên nhân: kiến thức chưa đầy đủ,
lo sợ quá mức về nguy cơ bị lây nhiễm HIV qua tiếp xúc thông thường, nên có những

hành động không cần thiết dẫn đến kỳ thị và định kiến người có HIV là thuộc nhóm tệ
nạn xã hội do các hành vi vi phạm đạo đức.
Dạng kỳ thị: Quan điểm về kỳ thị ở khía cạnh nhận thức: các nhà nghiên cứu tập trung
khá nhiều vào nghiên cứu nhận thức kỳ thị của những người kỳ thị người khác (còn gọi là
kỳ thị xã hội).

5


Quan niệm về các dạng kỳ thị của các nhà Xã hội học: Nghiên cứu tập trung không
chỉ người kỳ thị mà còn những người bị kỳ thị. Bốn dạng kỳ thị đối với người có HIV đã
được mô tả: nhận thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng đồng, trải nghiệm kỳ thị, cảm
nhận người khác bị kỳ thị và tự kỳ thị.
1.2 Đo lường về kỳ thị: Valerie A. Earnshaw đã khuyến nghị rằng khi thực hiện nghiên
cứu về kỳ thị thì cần cân nhắc khung đo kỳ thị theo hướng kỳ thị tác động đến hậu
quả về sức khỏe, tâm lý xã hội, hành vi của cả những người có HIV và người không
có HIV. Đo lường cơ chế kỳ thị HIV thì các nghiên cứu cần nhắm đến cả nhóm không
nhiễm HIV thể hiện qua (thành kiến, đóng khung và phân biệt đối xử) và nhóm người
có HIV qua trải nghiệm sự kỳ thị, lường trước sự kỳ thị và tự kỳ thị.
1.3 Trở ngại đến các dịch vụ dự phòng và chăm sóc điều trị: Kỳ thị đối với ngưới
có HIV là trở ngại lớn để người có HIV được tiếp cận đến các dịch vụ dự phòng và chăm
sóc điều trị sớm, cũng như tuân thủ điều trị. Người có HIV không dám bộc lộ tình trạng
có HIV của mình để được nhận dịch vụ chăm sóc điều trị sớm.
1.4 Ảnh hưởng HIV/AIDS đến các quyền của trẻ em
Một xu hướng nghiên cứu nổi bật là phương pháp nghiên cứu dựa trên Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em. Quyền của Trẻ em BAHBH bị tướt đoạt khi các em thiếu tình
yêu thương chăm sóc, thậm chí chính các em cũng phải trở thành người chăm sóc thành
viên có HIV trong gia đình. Kỳ thị phân biệt đối xử với trẻ BAHBH là một thách thức.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT, THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ BỐI CẢNH

KINH TẾ, XÃ HỘI, THỂ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN KỲ THỊ
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả đã xây dựng câu hỏi và giả thuyết nghiên
cứu như sau:
2.1 Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
2.1.1 Câu hỏi nghiên cứu:
A. Sự kỳ thị đối với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV (bao hàm cả việc tự kỳ thị) ở TP.HCM
ra sao? Những biểu hiện của các dạng kỳ thị đối với Trẻ em BAHBH ở quận 8 và
quận Bình Thạnh như thế nào?

6




Những dạng kỳ thị (như khung lý thuyết của Steward áp dụng tại Ấn Độ) nhận
thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng đồng, cảm nhận người khác bị kỳ thị, trải
nghiệm bị kỳ thị và tự kỳ thị có hiện diện ở TP.HCM?

B. Nhận thức của người dân về HIV/AIDS hiện nay như thế nào? Những nhân tố nào
ảnh hưởng đến thái độ kỳ thị của người dân đối với trẻ em BAHBH?
C. Việc tiếp cận chính sách xã hội, các nguồn lực hỗ trợ ở địa phương của người
chăm sóc Trẻ em BAHBH đang diễn ra như thế nào?
2.1.2 Giả thuyết nghiên cứu
1.Trẻ em BAHBH chịu nhiều hình thức bị kỳ thị khác nhau: nhận thức của người bị kỳ
thị về kỳ thị cộng đồng, cảm nhận người khác bị kỳ thị, trải nghiệm kỳ thị và tự kỳ thị.
2. Thái độ kỳ thị của người dân đối với trẻ BAHBH phụ thuộc nhiều vào hiểu biết và
trải nghiệm của họ đối với người có HIV và cảm nhận của họ về lối sống của trẻ.
 Người có kiến thức đúng toàn diện về HIV sẽ ít/không kỳ thị hơn người có kiến thức
chưa đầy đủ về HIV.
 Người có trình độ học vấn thấp thì có xu hướng kỳ thị hơn người trình độ học vấn cao.

3. Người dân trong cộng đồng, xã hội càng kỳ thị, thì người chăm sóc trực tiếp Trẻ em
BAHBH và chính trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS càng không dám tiết lộ tình trạng HIV
nên càng khó tiếp cận được đến các chính sách xã hội, dịch vụ hỗ trợ giáo dục, chăm sóc
sức khỏe, vui chơi giải trí.
2.2 Tiếp cận lý thuyết của đề tài
2.2.1

Lý thuyết kỳ thị -gán nhãn:

Lý thuyết kỳ Thị: dựa theo khái niệm kỳ thị của UNAIDS và khái niệm này xuất
phát điểm từ lý thuyết kỳ thị của nhà xã hội học Erving Goffman (1963) với sự mở rộng
thêm của Link và Phelan (2001) mô tả: Kỳ thị là một quá trình làm mất giá trị của những
người mà chúng ta cho là “khác người” qua 3 bước riêng biệt: (i) Phân loại người “phế
phẩm” ra khỏi những người “bình thường” bằng cách phân biệt và gán nhãn;(ii) liên hệ
những sự khác biệt đó với những thuộc tính xấu; (iii) tách “chúng ta” ra khỏi “chúng nó”.
Steward đã đưa ra 4 dạng kỳ thị của người bị kỳ thị: (i)Nhận thức của người bị kỳ thị về
kỳ thị cộng đồng (felt normative stigma) kỳ thị do trái với các khuôn mẫu xã hội, đề cập
đến nhận thức chủ quan của người kỳ thị. (ii) Trải nghiệm kỳ thị (enacted stigma). (iii) Tự

7


kỳ thị (internalized stigma hay self stigma).(iiii) Kỳ thị dựa trên kinh nghiệm kỳ thị của
người khác hay cảm nhận người khác bị kỳ thị (vicarious stigma).
Lý thuyết gán nhãn (Label, một số tài liệu dịch dán nhãn): Howard Becker
(1968).
2.2.2

Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý:


2.2.3

Lý thuyết về sự phát triển của con người: Manfred Max-Neef sử dụng như một

khuôn mẫu để nhận thức những nhu cầu cơ bản của trẻ em, và trong nghiên cứu này nó
được xem như là cơ sở để nhận thức về quyền trẻ em.
2.3 Xây dựng khung phân tích
ĐẶC ĐIỂM NHÂN KHẨU
(GIỚI TÍNH, TUỔI)

T

(Biến độc lập)

TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN
(Biến độc lập)

HIỂU BIẾT VỀ HIV
1. ĐÚNG, TOÀN DIỆN
2. CHƯA ĐẦY ĐỦ
(Biến phụ thuộc; biến độc lập
cho kỳ thị)

NGHỀ NGHIỆP
(Biến độc lập)

KHẢ NĂNG TIẾP CẬN
THÔNG TIN (TV,
INTERNET, …) (Biến độc lập)
VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG


KỲ THỊ TRẺ EM BỊ
ẢNH HƯỞNG BỞI
HIV
1. KỲ THỊ
2. KHÔNG

THÀNH KIẾN- GÁN
NHÃN HIV/AIDS VỚI
TỆ NẠN XÃ HỘI

(biến phụ thuộc)

(Biến độc lập)

(Biến độc lập)

Hình 2.1 Khung lý thuyết những yếu tố tác động đến kỳ thị
2.4 Các khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
2.4.1 Trẻ em: Theo Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, thì trẻ em là những người
dưới 18 tuổi.
2.4.2 Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV: dựa vào quyết định 570/QĐ-TTg1 về Kế hoạch
hành động quốc gia vì trẻ BAHBH giai đoạn 2014- 2020, tác giả xác định giới hạn đối

Theo quyết định 570/QĐ-TTg ngày 22/4/2014 về Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ BAHBH giai đoạn 2014- 2020 đã xác
định đối tượng Trẻ em BAHBH bao gồm: (i) Trẻ nhiễm HIV. (ii) Trẻ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi HIV: Trẻ mồ côi do bố và mẹ
hoặc bố hoặc mẹ chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS; trẻ sống với bố, mẹ hoặc người nuôi dưỡng nhiễm HIV. (iii) Trẻ có nguy
1

8



tượng Trẻ em BAHBH trong luận án này bao gồm: (i) Trẻ nhiễm HIV. (ii) Trẻ bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi HIV: Trẻ mồ côi do bố và mẹ hoặc bố hoặc mẹ chết vì lý do liên quan
đến HIV/AIDS; trẻ sống với bố, mẹ hoặc người nuôi dưỡng nhiễm HIV.
2.4.3 Kỳ thị và các đặc điểm kỳ thị
Kỳ thị là một quá trình hạ thấp giá trị và làm mất đi cơ hội sống của những người
có HIV hoặc những người bị nghi ngờ nhiễm HIV/AIDS và những người thân của người
có HIV bao gồm trẻ em BAHBH.
2.4.4 Kỳ thị liên quan đến vấn đề y tế và HIV/AIDS:
a.

Kỳ thị liên quan đến vấn đề y tế: Theo Parker và Aggleton kỳ thị là quá trình phát

sinh và tái phát sinh các mối quan hệ của quyền lực và kiểm soát. Những người thể hiện
sự kỳ thị đã cho thấy rằng họ đang có quyền lực và kiểm soát xã hội dưới hình thức
chính thức hoặc phi chính thức. Ngoài quyền lực, kỳ thị do sợ hãi, nguy cơ hay sự đe
dọa của bệnh mả không thể chữa trị và có thể chết người.
b.

Sự kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS: HIV/AIDS có tất cả các đặc điểm của những

căn bệnh bị kỳ thị nhất. Khi đặc điểm bệnh là liên quan với quan hệ tình dục sai trái và
tiêm chích ma túy- những hành vi bị xã hội lên án và được coi là lỗi của cá nhân người
bị bệnh. AIDS hiện nay vẫn là căn bệnh nan y, chưa có vắc xin phòng ngừa làm suy sụp
tinh thần thể trạng người bệnh thường dẫn đến biến dạng và gắn liền với “một cái chết
không mong muốn”.
2.4.5 Thuật ngữ liên quan đến HIV/AIDS
a. Người có HIV: là người mang HIV trong cơ thể (người nhiễm HIV)
b. Điều trị ARV, ART: ARV là chữ viết tắt của Antiretroviral là tên thường được dùng

để chỉ một số loại thuốc được chế ra nhằm khống chế sự sinh sôi nảy nở của HIV, làm
chậm tiến trình của HIV và làm phục hồi, bảo tồn khả năng của hệ miễn dịch. ART Antiretroviral therapy- liệu pháp kháng Retro vi- rút khi việc điều trị HIV phải kết hợp
mấy loại thuốc kháng vi rút.

cơ cao nhiễm HIV: trẻ em sử dụng ma túy, trẻ em con của người mua dâm, bán dâm, sử dụng ma túy, trẻ sống trong các cơ sở trợ
giúp xã hội.

9


c. Người chăm sóc trực tiếp trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS: là những người trực tiếp
nuôi dạy trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS bao gồm cha mẹ của trẻ (thường là người có
HIV), ông bà, cô dì, chú bác của trẻ.
2.5.1 Thiết kế nghiên cứu: kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và định
lượng. HIV/AIDS là vấn đề nhạy cảm nên nghiên cứu định tính là chính và định lượng để
thống kê mô tả hỗ trợ. Nghiên cứu định lượng được thực hiện với 400 mẫu nghiên cứu,
được chia thành ba nhóm: 200 người dân trong hai quận; 152 người chăm sóc trực tiếp
trẻ BAHBH và 48 trẻ BAHBH. Những người dân tham gia trong mẫu nghiên cứu là
những người đại diện trong hộ gia đình (không nhất thiết là chủ hộ) từ 18 tuổi trở lên.
Phương pháp định tính được thực hiện thông qua 22 cuộc phỏng vấn sâu đối với 15 người
chăm sóc trực tiếp trẻ, 5 trẻ có HIV (độ tuổi 12-17), hai cán bộ (một bác sỹ bệnh viện Nhi
Đồng I và một đại diện Phòng Lao động TBXH quận) và hai cuộc thảo luận nhóm (nhóm
những người chăm sóc trực tiếp trẻ BAHBH và nhóm trẻ BAHBH).
Phương pháp kiểm định giả thuyết: Mô hình phân tích thống kê (thông kê miêu tả, kiểm
định Chi-Square, mô hình hồi quy logistic) đã được sử dụng để kiểm định ba giả thuyết
nghiên cứu của luận án.
2.5.2 Đạo đức nghiên cứu: Tác giả cam kết từ khi tiến hành đến công bố kết quả nghiên
cứu này sẽ không để ảnh hưởng tiêu cực hay làm xáo trộn đời sống của bất cứ người
chăm sóc trẻ và chính trẻ BAHBH tham gia trong khảo sát. Tất cả các đối tượng khi
tham gia nghiên cứu đều tự nguyện tham gia và ký cam kết đồng ý tham gia trước khi trả

lời phỏng vấn sâu hay thảo luận nhóm. Nghiên cứu được Trung tâm Phòng, chống
HIV/AIDS TPHCM cho phép thực hiện và được Hội đồng Y đức của Bệnh viện Nhi
đồng I thông qua.
2.6 Bối cảnh kinh tế xã hội và HIV/AIDS tại TP.HCM
2.6.1. Bối cảnh kinh tế xã hội tại TP.HCM: TP.HCM không chỉ là trung tâm lớn về
kinh tế, mà còn văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội
nhập quốc tế, còn là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Với chính sách mở cửa của Việt Nam, Thành phố đã tham gia
ngày càng sâu, rộng vào quá trình phát triển kinh tế của khu vực Đông Nam Á và trên
toàn cầu. Điều này đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong hệ thống giá trị, chuẩn mực và

10


lối sống của người dân thành phố. Trong bối cảnh của sự biến đổi xã hội nhanh chóng, thì
những vấn đề xã hội cũng phát sinh phức tạp hơn như quá trình đô thị hóa và sự gia tăng
dân số cơ học nhanh chóng, đặc biệt là mại dâm, ma tuý và nam quan hệ tình dục đồng
giới nổi lên như những vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay. Chính vì vậy, TP.HCM đã từng
có chính sách rất cứng rắn, đó là chương trình “mục tiêu 3 giảm: giảm tội phạm, giảm ma
túy và giảm mại dâm”.
2.6.2. Bối cảnh HIV/AIDS tại TP.HCM: Tại Việt Nam, trường hợp HIV đầu tiên được
phát hiện là ở TP.HCM vào tháng 12 năm 1990, tính đến ngày 31/12/2016 số các ca
nhiễm HIV tích lũy là 56.993 người, trong đó có 29.700 bệnh nhân đang được điều trị
ART và 10.803 người đã tử vong do AIDS. Cuối năm 2012, thành phố ước tính có
khoảng 25.000 trẻ em BAHBH, bao gồm trẻ có HIV được quản lý, chăm sóc là 1.228
em, trong đó đang điều trị ART là 1.162 trẻ.
2.7. Bối cảnh thể chế: Luật pháp Việt Nam và các chính sách xã hội thể hiện tính nhân
văn khá rõ khi có những luật quy định cho người BAHBH, đặc biệt là trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt2. Tuy nhiên trong thực tế, luật pháp và các chính sách hỗ trợ xã hội chưa
được thực thi trọn vẹn, khi số người có HIV chưa sử dụng bảo hiểm y tế và người chăm

sóc trẻ cũng như trẻ BAHBH biết và được tiếp cận để được hưởng các chính sách xã hội
này còn khá khiêm tốn.
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG KỲ THỊ ĐỐI VỚI TRẺ EM BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI
HIV/AIDS
3.1. Thực trạng trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại quận 8 và quận Bình Thạnh:
nhìn từ Quyền trẻ em
Quyền trẻ em của trẻ BAHBH chưa được đảm bảo
Việc phân tích những dữ liệu thứ cấp phản ánh khoảng cách rất lớn giữa số trường hợp
tích lũy được ghi nhận và số trường hợp được quản lý người có HIV/AIDS3. Đối với trẻ
BAHBH, chỉ riêng quận 8 và quận Bình Thạnh đã có 518 em bao gồm 441 em tại cộng
2

Xem Luật trẻ em 2016

Tính đến ngày 31/12/2014, số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS tại quận Bình thạnh là 4.945 người trong
đó số người có HIV/AIDS cư ngụ tại quận Bình Thạnh được quản lý là 1.135 người bao gồm 15 trẻ có
HIV. Đối với quận 8, số người lũy tích nhiễm HIV là 4.760 người nhưng số người có HIV sống tại quận 8
được quản lý chỉ là 1.453 người, bao gồm 26 trẻ có HIV.
3

11


đồng và 77 trẻ có HIV đang được điều trị ART tại bệnh viện Nhi đồng I và bệnh viện Nhi
đồng II. Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền của trẻ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng khi cha
mẹ của trẻ bị nhiễm HIV và tử vong bởi AIDS. Sự ảnh hưởng của HIV đối với trẻ
BAHBH hình thành từ khi cha mẹ trẻ mới bắt đầu và suốt quá trình nhiễm HIV, ngay khi
cha mẹ tử vong, các em vẫn tiếp tục chịu sự ảnh hưởng này trong suốt quá trình trưởng
thành của mình. Tác động HIV/AIDS càng nặng nề hơn khi cha hoặc mẹ thậm chí cả cha
mẹ của trẻ mất đi, khiến cho các em trở thành trẻ mồ côi. Không chỉ riêng trẻ BAHBH,

mà những người trực tiếp chăm sóc trẻ cũng là người chịu áp lực không nhỏ từ dư luận và
thái độ thiếu cảm thông của những người xung quanh.
Các dữ liệu thống kê phản ánh số trẻ mồ côi bởi HIV/AIDS tại quận 8 và Bình
Thạnh là 185 em (chiếm 42% trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV), trong đó có 113 (61%) em mồ
côi cha, 25 (14%) em mồ côi mẹ và 47 (25%) em mồ côi cả cha và mẹ. Từ góc độ về
quyền trẻ em cho thấy HIV/AIDS đã tác động khá nặng nề lên cả 4 nhóm Quyền của trẻ:
Quyền được sống còn, Quyền được bảo vệ, Quyền được Phát triển và Quyền được tham
gia. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của Trẻ BAHBH.
3.2 Nhận thức của người dân cộng đồng về HIV/AIDS
Kiến thức đúng toàn diện là hiểu biết đúng về các đường lây, cách phòng tránh và
phân biệt rõ ràng những quan niệm sai lầm trong lây nhiễm HIV như ăn uống chung với
người có HIV, ngủ chung, tắm chung hồ bơi với người có HIV thì không thể nào bị lây
nhiễm HIV, cũng như những thông tin liên quan đến điều trị ART. Đánh giá mức độ kiến
thức đúng toàn diện của người dân về HIV/AIDS, nghiên cứu đưa ra 20 câu hỏi, tương
ứng với các hành vi, hành động cụ thể qua các đường lây, cách phòng tránh, những quan
niệm sai lầm về lây nhiễm HIV và thông tin chung về điều trị ART. Khi người dân trả lời
đúng từ 16 đến 20 câu (tương đương 75% số câu trả lời) là được tính có kiến thức đúng
toàn diện hay còn gọi hiểu biết (nhận thức) đúng và đầy đủ, còn nếu trả lời đúng từ 15
câu trở xuống thì được xem như có kiến thức chưa đầy đủ.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 62% người dân cộng đồng có hiểu biết đúng và đầy
đủ về HIV/AIDS. Tiếp tục phân tích cụ thể hơn về đường lây truyền HIV, khi người
tham gia nghiên cứu trả lời đúng cả 5 câu liên quan đến hành vi lây truyền HIV thì được

12


tính là có kiến thức đúng, còn nếu trả lời sai dù chỉ một câu cũng xem như là kiến thức
đường lây HIV chưa đầy đủ. Kết quả cho thấy, chỉ có 71% người dân cộng đồng có kiến
thức đường lây đúng toàn diện. Đối với kiến thức phòng tránh HIV, tỷ lệ trả lời đúng về
cách phòng tránh HIV của người dân là 64%. Liên quan đến những quan niệm sai lầm

về lây nhiễm HIV dễ gây ra thái độ kỳ thị, kết quả nghiên cứu đã phản ảnh có tới 42%
người dân vẫn có quan niệm sai lầm về HIV/AIDS. Việc hiểu biết một số thông tin
chung, đặc biệt điều trị ART là cần thiết, tuy nhiên 74,5% (149 người) là có kiến thức
chưa đúng về thông tin chung điều trị ART.
3.3 Thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng (kỳ thị xã hội)
Kết quả định lượng và định tính của nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự kỳ thị của những
người dân trong cộng đồng khảo sát là khá phổ biến. Đối với cấu hỏi “Trẻ em BAHBH có
bị kỳ thị phân biệt đối xử không?”, có tới 62% người dân đã xác nhận là trẻ em BAHBH
đang phải chịu sự kỳ thị của cộng đồng. Kết quả đo lường về thái độ kỳ thị của chính
những người trả lời cho thấy có 80,5% người vẫn còn kỳ thị với trẻ em BAHBH, trong đó
nữ có thái độ kỳ thị cao hơn nam (65,2% và 34,8%). Thái độ kỳ thị của người dân được
thể hiện với từng cung bậc khác nhau. Khi được hỏi “theo ông bà trẻ nhiễm HIV/ trẻ bị
ảnh hưởng bởi HIV có nên đến trường học chung với các trẻ khác không?”, đa số người
tham gia nghiên cứu bày tỏ rằng, trẻ em BAHBH có thể học chung với các em khác
(chiếm 76,5%). Câu trả lời này phản ánh sự chi phối của kiến thức mà họ có được nhiều
hơn là thái độ của chính bản thân họ. Bởi vì khi câu hỏi liên quan tới chính người thân
của họ, thì thái độ của họ đã thay đổi hẳn. Đối với câu hỏi “giả sử con, cháu ông bà ngồi
chung ghế, học chung lớp với trẻ nhiễm HIV/trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV, ông bà cảm thấy
như thế nào?”, số người tham gia nghiên cứu cảm thấy bình thường chỉ còn 60,5%, số
người dân lo sợ đã chiếm 39,5%. Trong đó, mức độ lo sợ của phụ nữ (69,6%) cao hơn
gấp đôi so với nam giới (30,4%). Tương tự, với câu hỏi, “giả sử ông bà biết trong
xóm/cộng đồng có trẻ nhiễm HIV/trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV hay đến chơi với con, cháu
ông bà, vậy ông bà có để cho con, cháu mình chơi với chúng hay không?” thì chỉ có 65%
người tham gia nghiên cứu đồng ý cho chơi chung, còn 35% là không đồng ý. Thái độ
này ngày càng rõ ràng hơn khi được tiếp tục với câu hỏi “nếu biết một người bán quán ăn

13


trong hẻm là người có HIV, ông bà sẽ có ăn hàng của người đó không?”. Chỉ có 34%

người dân đồng ý tiếp tục ăn hàng của người có HIV. Như vậy, có tới 66% người dân
không dám ăn hay sẽ có hành vi kỳ thị với quán ăn của người có HIV. Có sự khác biệt
đáng kể, khi tỷ lệ phụ nữ (64,4%) cao gần gấp đôi nam giới (35,6%) còn lo lắng không
dám ăn ở quán ăn của người có HIV.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng khẳng định rằng, định kiến, gán nhãn,
khuôn mẫu là những nhân tố then chốt tạo ra sự kỳ thị trong cộng đồng xã hội. Với 3 câu
hỏi liên quan đến định kiến như (i) cha mẹ của trẻ thuộc nhóm ma túy, mại dâm, (ii)
nhiễm HIV là sự xấu hổ, không nên quan hệ và (iii) HIV là bị quả báo hay đánh giá đạo
đức “tệ nạn xã hội”. Nếu người nào trả lời đúng cả 3 câu thì xem như không có định
kiến, còn trả lời sai bất kỳ câu nào thì thuộc nhóm có định kiến. Kết quả, có 72,5% người
dân còn định kiến, (theo thứ tự 64,7% và 35% và 8%). Rõ ràng, gán nhãn, định kiến còn
khá trầm trọng trong cộng đồng.
Như vậy, khi chúng ta đưa ra các quan điểm, tình huống chung chung để đánh giá
về thái độ kỳ thị, thì người dân cộng đồng bày tỏ thái độ ít kỳ thị hơn, tuy nhiên, khi các
tình huống này liên quan trực tiếp đến con, cháu của họ và chính bản thân mình thì thái
độ kỳ thị càng rõ ràng hơn. Tỷ lệ phụ nữ có thái độ xa lánh trẻ BAHBH cao ở tất cả các
câu, trong khi kiến thức về HIV/AIDS của họ thường cao hơn nam giới4. Tất cả những
điều này gợi nhắc rằng, sự hiểu biết về HIV có thể khiến người ta ít kỳ thị hơn. Nhưng
thái độ kỳ thị không hẳn chỉ bị chi phối bởi kiến thức mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc,
bởi định kiến và bởi thực hành trong thực tế.
3.4 Các dạng kỳ thị đối với Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV
Nếu dựa trên bốn dạng kỳ thị của Steward (nhận thức của người bị kỳ thị về kỳ thị
cộng đồng, cảm nhận người khác bị kỳ thị, trải nghiệm kỳ thị và tự kỳ thị), thì kết quả từ
cuộc nghiên cứu 152 người chăm sóc trực tiếp cho trẻ trong mẫu nghiên cứu thể hiện như
sau: nhóm có sự nhận thức của người bị kỳ thị (nhận biết) về kỳ thị cộng đồng chiếm tỷ
lệ cao nhất (35%), tiếp đến là nhóm những người cảm nhận người khác bị kỳ thị (chiếm
30,2%). Ít hơn là nhóm trải nghiệm kỳ thị (20,7%) và cuối cùng là nhóm tự kỳ thị
(14,1%)
4


Kết quả đã được xác nhận trong nghiên cứu nhưng không trình bày ở đây do giới hạn của báo cáo

14


3.4.1 Nhận thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng đồng
Những người chăm sóc trực tiếp trẻ và chính trẻ em BAHBH phản ảnh rằng vì họ
biết người dân nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về HIV/AIDS nên lo sợ không dám
tiếp xúc với người có HIV (NCH) và trẻ em BAHBH. Chính vì vậy, họ thường không
dám tiết lộ tình trạng có HIV để được tiếp cận các dịch vụ y tế, chính sách xã hội. Họ
cũng xác nhận theo thời gian, sự kỳ thị phần nào đã giảm hơn, nhưng vẫn còn không ít
người dân trong cộng đồng chưa hiểu biết cặn kẻ về HIV nên vẫn còn hoài nghi, lo sợ sẽ
bị lây nhiễm HIV qua những tiếp xúc thông thường từ những người thân trong gia đình,
cộng đồng xã hội.
3.4.2 Cảm nhận người khác bị kỳ thị
Những người tham gia phỏng vấn khẳng định họ từng chứng kiến sự kỳ thị của cộng
đồng nên luôn lo sợ rằng, nếu người dân biết họ nhiễm HIV thì họ sẽ bị kỳ thị như vậy.
“Tôi đã từng chứng kiến hàng xóm kỳ thị, coi thường người nhiễm HIV trong xóm tôi”
(chị N.33 tuổi). Những câu chuyện kỳ thị được chính những người bạn, những người
trong mạng lưới người có HIV kể lại thì sẽ làm cho người chăm sóc trẻ tin tưởng hơn và
càng lo lắng hơn nếu để tình trạng HIV của họ bị tiết lộ.
3.4.3 Trải nghiệm bị kỳ thị
Kết quả nghiên cứu định lượng của 152 người chăm sóc trực tiếp trẻ cho biết 20,7% trẻ
BAHBH có trải nghiệm kỳ thị. Có tám hình thức biểu hiện sự kỳ thị được liệt kê5 để
người chăm sóc trẻ và chính trẻ BAHBH lựa chọn mô tả hình thức nào phổ biến hiện nay.
Có 5/8 hình thức kỳ thị thường xuyên mà người chăm sóc trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV ghi
nhận: (i) Nói sau lưng chiếm 30%, kế đến là tránh xa 16,5%, nhận xét tiêu cực 14,9%, từ
chối giao tiếp 13,9% và than phiền 11,9%.
Kỳ thị qua lời nói: Những người được phỏng vấn đã minh chứng điều này khi cho thấy
rằng sự kỳ thị của cộng đồng còn khá phổ biến là dưới hình thức bàn tán, xì xào, nói sau

lưng những người chăm sóc trực tiếp trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV (thường chính là cha mẹ
trẻ bị nhiễm HIV).
5

1. Nói sau lưng;2. Than phiền; 3. Nhận xét tiêu cực; 4. Khinh bỉ, im lặng, không nói chuyện;5. Tránh xa; 6. Từ chối giao tiếp;7.
Cô lập; 8. Loại trừ

15


Những lời nói sau lưng, đôi khi gán nhãn NCH với các tệ nạn xã hội vẫn thường được
những người hàng xóm nhắc đến: “Có lần con em đã chạy về kể lại cho em, bác ba trong
xóm đã nói: Bố mày chơi xì ke nên bị Sida chết rồi, mày chắc cũng bị luôn rồi” (chị N, 33
tuổi). Trêu chọc là hình thức kỳ thị khá phổ biến đối với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,
nhất là khi bạn bè trong xóm hay bạn học biết các em là trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV.
Kỳ thị qua khoảng cách trong giao tiếp: Những người chăm sóc trẻ trải qua sự kỳ thị
của người thân trong gia đình dưới hình thức chủ yếu từ không cho ăn uống chung chén,
bát, cho ở phòng riêng, thậm chí cách ly, đuổi ra khỏi nhà khi mới biết tình trạng có HIV
của cha, mẹ hay của chính trẻ. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng này đã được cải thiện rõ rệt
khi đa số NCH bao gồm trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV đã không còn bị sự kỳ thị của gia đình
như trước đây. Nhiều người có HIV trong các cuộc phỏng vấn sâu bày tỏ sự trải nghiệm
của họ khi bị kỳ thị.
Từ chối giao tiếp là hình thức nhiều người trả lời Phỏng vấn sâu trải nghiệm
Có trường hợp người có HIV còn khỏe mạnh, nhưng khi tiếp xúc với trẻ em như bồng bế
bé thì vẫn có gia đình lo sợ về nguy cơ lây nhiễm HIV cho con cháu họ, nên không cho
đụng đến.
Nhiều người có HIV cảm thấy mình bị cô lập, nhiều khi ngay cả trong gia đình mình.
Sự trải nghiệm kỳ thị ở mức bị loại trừ cũng không hiếm. Bé D, 13 tuổi chia sẻ bị
kỳ thị trong cộng đồng “Bà con đến giờ vẫn cấm không cho con tiếp xúc, chơi với trẻ
trong xóm. Hàng xóm tới giờ này vẫn không cho con vào chơi trong nhà họ”.

3.4.4 Tự kỳ thị
Nhận thức chưa đúng và đầy đủ về HIV/AIDS và phải chịu những hình thức kỳ thị
từ cộng đồng nên người chăm sóc trẻ và chính trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đã tự kỳ
thị mình. Mặc dù tự kỳ thị đã giảm nhiều trong giai đoạn hiện nay khi các hoạt động
truyền thông nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị đã được thực hiện khá nhiều.
Một thiệt thòi của trẻ BAHBH là trẻ tự kỳ thị mình vì lo sợ chơi giỡn sẽ có nguy cơ
lây nhiễm HIV cho các bạn. Bé P.17 tuổi, đã bộc bạch: “Điều mà em thấy mình thiệt thòi
hơn các bạn cùng trang lứa đó là khi các bạn lúc nào cũng được chơi đùa, chạy giỡn còn
em thì không được như vậy. Từ khi biết mình bị nhiễm HIV, em không dám chơi nhảy
dây, đùa giỡn với các bạn khi còn học ở trường cũng như các bạn ở trong xóm. Em sợ
chơi giỡn mà vô tình mình té trầy xước thì sẽ lây nhiễm HIV cho các bạn”. Rõ ràng việc
chơi giỡn gần như không có nguy cơ lây nhiễm HIV nếu hiểu biết đúng và đầy đủ về

16


HIV, thế mà các em không được trang bị kiến thức đầy đủ nên đã tự kỳ thị và việc này đã
tước đi Quyền được vui chơi giải trí của các em.
Tự kỳ thị ở người chăm sóc trẻ em và chính trẻ BAHBH còn khá phổ biến. Bởi vì
nhận thức về người dân cộng đồng còn kỳ thị và cảm nhận sự kỳ thị của người khác là
khá cao nên người chăm sóc trẻ em luôn lo lắng, mặc cảm và dần dần “chấp nhận” những
đánh giá của người khác. Như trường hợp anh T. người đã từng sử dụng ma túy, hiện
đang điều trị methadone (dạng thuốc thay thế heroin), và đang điều trị ART, tự ti, mặc
cảm vì những lỗi lầm trước đây của mình đã sa ngã vào ma túy- nên giờ bị mọi người
xem thường, chia sẻ “Bây giờ tôi không nghĩ gì hết, người ta có nói gì thì mình chịu thôi,
mình đã sai rồi phải chấp nhận.

CHƯƠNG 4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KỲ THỊ, HẬU QUẢ VÀ
CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ VỚI SỰ KỲ THỊ
4.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự kỳ thị

4.1.1 Nguyên nhân của sự kỳ thị
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu định lượng của cả ba nhóm cho thấy có 4 nguyên
nhân chính dẫn đến sự kỳ thị là hiểu biết chưa đúng, chưa đầy đủ về HIV/AIDS, lo sợ
quá mức khi nghĩ trẻ chơi giỡn dễ bị trầy xước nên dễ lây truyền cho nhau, định kiến gán
nhãn HIV/AIDS với các tệ nạn xã hội và tự kỳ thị.
4.1.2 Tương quan giữa thái độ kỳ thị với các nhân tố ảnh hưởng đến sự kỳ thị
Hai mô hình logistic: mô hình (1) với biến phụ thuộc là kỳ thị đối với trẻ em BAHBH
(thu gọn từ 8 câu hỏi liên quan đến thái độ kỳ thị tạo thành index kỳ thị) và mô hình (2) là
dựa theo tình huống cụ thể “không cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ em khác” làm
biến phụ thuộc. Các phân nhóm đặc trưng bao gồm các biến độc lập như giới tính, nhóm
tuổi, học vấn, nghề nghiệp, nơi ở (quận 8 và quận Bình Thạnh) và nhận thức đúng toàn
diện về HIV/AIDS (thu gọn từ 20 câu kiến thức về HIV).
Kết quả từ mô hình (1) kỳ thị đối với trẻ em BAHBH cho thấy trong cùng điều
kiện bởi các biến độc lập khác có trong mô hình, hệ số chênh lệch giữa xác suất kỳ thị đối
với trẻ em BAHBH của người có trình độ học vấn tiểu học có xu hướng kỳ thị cao gần
gấp 5 lần so với người có trình độ học vấn từ THPT trở lên, sự chênh lệch này có ý nghĩa
thông kê (Exp (B)=4,986; 95%; P<0,05). Người có trình độ học vấn THCS có xu hướng

17


kỳ thị hơn gấp đôi (2,2 lần) khi so với nhóm tham chiếu là trình độ THPT trở lên, nhưng
không có ý nghĩa thông kê. Hay nói cách khác, người có trình độ học vấn càng cao thì
thường có xu hướng càng ít kỳ thị hơn người có trình độ học vấn thấp.
Kết quả mô hình (2) chỉ ra rằng bốn nhân tố cản trở trẻ em BAHBH học chung với trẻ
khác: (i) giới tính, (ii) học vấn, (iii) nghề nghiệp và (iiii) hiểu biết chưa đầy đủ về HIV.
Như vậy, kết quả này đã xác nhận giả thuyết 2 là hoàn toàn đúng khi cho rằng người có
kiến thức đúng, đầy đủ về HIV sẽ không hay ít kỳ thị hơn những người khác, và người có
trình độ học vấn thấp thì có xu hướng kỳ thị hơn người có trình độ học vấn cao.


Bảng 4.1 Mô hình hồi quy logistic về kỳ thị đối với trẻ BAHBH và xác suất không cho
trẻ BAHBH học chung
Mô hình 1 (exp
B)
Mô hình 2 (exp B)
Kỳ thị đối với trẻ Không cho trẻ
Đặc trưng
BAHBH
BAHBH học chung
0,442*
Nam
0,582
1
Giới tính
Nữ
1
1,004
Dưới 40
1,911
0,953
40-54
0,984
1
Nhóm tuổi
55 trở lên
1
3,909*
Tiểu học
4,986*
2,815

THCS
2,181
1
Học vấn
THPT, trở lên
1
3,837*
Viên chức, văn phòng
1,308
0,640
Buôn bán nhỏ, LĐ PT
0,877
1
Nghề nghiệp
Nội trợ, không làm việc
1
0,492
Quận 8
0,512
1
Nơi ở
Quận Bình Thạnh
1
4,299**
Nhận thức chưa đầy đủ
1,880
Nhận thức về
Nhận thức đúng, toàn
1
HIV/AIDS

diện
1
0,066
Hằng số
2,008
* mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,05; ** mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,01
Hosmer and Lemeshow test=0,527 (mô hình 1) và =0,973 (mô hình 2). N=200

4.2 Hậu quả của sự kỳ thị

18


Kết quả nghiên cứu về hậu quả của kỳ thị đối với trẻ em BAHBH khá tương đồng với các
nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam từ trước đến nay, khi cho thấy rằng kỳ thị đã ảnh
hưởng đến (i) bản thân trẻ em BAHBH từ tâm lý, sức khỏe, giáo dục, nguy cơ lao động
sớm, vui chơi giải trí đến chất lượng cuộc sống của trẻ và gia đình và (ii) cộng đồng xã
hội về thách thức không khống chế dịch HIV, tăng bất bình đẳng trong cộng đồng xã hội.

4.3 Chiến lược ứng phó với sự kỳ thị:
Kết quả nghiên cứu xác định có 4 mô thức ứng phó với sự kỳ thị: (i) né tránh; (ii) di
chuyển chỗ ở; (iii) cam chịu; (iiii) đối đầu, vượt qua kỳ thị.
Né tránh: Để đối phó với sự kỳ thị, khá nhiều gia đình chọn giải pháp không tiết lộ tình
trạng có HIV hoặc có tiết lộ nhưng chỉ giới hạn cho vài người thân trong gia đình (như
ông bà nội/ngoại của trẻ) và tìm cách né tránh tình trạng có HIV của gia đình bằng cách
nói sang một bệnh khác.
Di chuyển chỗ ở: kết quả nghiên cứu cũng đã phản ánh rằng, có những trường hợp,
người có HIV lo sợ bị cộng đồng biết mà kỳ thị, nên họ phải chuyển nhà đi nơi khác.
Thật sự, người chăm sóc trẻ thường sống trong cảnh lo sợ bị kỳ thị cho dù không tiết lộ
tình trạng HIV của gia đình.

Cam chịu: một số người chăm sóc trẻ sử dụng môt chiến lược khác để ứng phó với sự kỳ
thị của người dân cộng đồng, đó là sự cam chịu, chấp nhận sự kỳ thị của mọi người khi
họ có suy nghĩ rằng đây là lỗi của chính họ hay của thành viên gia đình, nên phải chịu
như thế. Đa số những người chọn chiến lược cam chịu này là những người trong gia đình
có người thân liên quan đến các vấn đề xã hội như nghiện ma túy hoặc phụ nữ mại dâm.
Đối đầu, vượt qua kỳ thị: mặc dù chưa có nhiều người chăm sóc trực tiếp trẻ áp dụng
chiến lược này, tuy nhiên xu hướng này đang gia tăng trong thời gian gần đây khi luật
pháp là công cụ chống lại sự kỳ thị và bảo vệ quyền lợi của họ. Chị T.31 tuổi ở quận
Bình Thạnh, đã thể hiện sự hiểu biết về pháp luật luôn bảo vệ quyền của người có HIV
bằng cách đã mạnh dạn đòi sự bình đẳng cho con được an tâm đi học.

19


KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh xin đưa ra một vài
nhận xét mang tính kết luận sau:
1. Sự kỳ thị đối với trẻ em BAHBH là một thực tế ở Việt Nam. Sự kỳ thị do gán nhãn đã
ảnh hưởng trầm trọng đến tinh thần và chất lượng cuộc sống không những của trẻ em
BAHBH, mà còn của chính những người chăm sóc trực tiếp trẻ em.
Thái độ kỳ thị của người dân trong cộng đồng đối với trẻ em BAHBH vẫn còn rất cao,
đặc biệt, đối với các tình huống liên quan trực tiếp đến con, cháu họ thì sự kỳ thị lại
càng thể hiện rõ hơn.
2. Nhận thức đúng toàn diện về HIV/AIDS của người dân cộng đồng chưa cao. Kiểm
định cho thấy nghề nghiệp có ảnh hưởng đến nhận thức đúng toàn diện về HIV, đặc
biệt những người nội trợ, lao động phổ thông có kiến thức đúng về HIV cao hơn nhân
viên văn phòng và buôn bán nhỏ. Truyền thông đại chúng là nguồn thông tin chính tác
động đến nâng cao nhận thức về HIV của người dân.
3. Định kiến của người dân cộng đồng đối với người có HIV còn khá nặng nề. Thế
nhưng, định kiến gán nhãn NCH với “các tệ nạn xã hội” và nhầm lẫn về HIV lại không

có mối tương tác với thái độ kỳ thị của người dân. Mô hình hồi quy logistic cho thấy
rằng trình độ học vấn càng thấp thì thái độ kỳ thị càng cao. Thêm vào đó, ba yếu tố tác
động đến việc ngăn cản không cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ khác là: giới tính
(nữ kỳ thị hơn nam), nghề nghiệp và hiểu biết chưa đầy đủ về HIV.
4. Lần đầu tiên áp dụng khung lý thuyết của Steward tại Việt Nam đã phản ánh tình trạng
trẻ em BAHBH và người chăm sóc trẻ phải trải nghiệm cả bốn dạng kỳ thị: (i) nhận
thức của người bị kỳ thị về kỳ thị cộng đồng, (ii) cảm nhận người khác bị kỳ thị, (iii)
trải nghiệm kỳ thị và (iiii) tự kỳ thị với 5 hình thức biểu hiện sự kỳ thị phổ biến như
nói sau lưng, tránh xa, nhận xét tiêu cực, từ chối giao tiếp và than phiền. Sự kỳ thị này
chủ yếu từ chính những người thân trong gia đình, hàng xóm và bạn bè. Kỳ thị xã hội
là nhân tố chính dẫn đến bốn dạng kỳ thị của trẻ em BAHBH. Một phát hiện đáng lưu
ý là, mặc dù chưa trải qua sự kỳ thị, nhưng một số người chăm sóc trẻ và chính trẻ em
BAHBH, cảm nhận được sự kỳ thị xã hội đối với người khác nên sợ bản thân và gia

20


đình mình cũng bị kỳ thị. Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua hiện tượng, một số người
đã tự kỳ thị do quá “nhạy cảm” với các từ ngữ hay hành động vô tình của người thân
trong gia đình và cộng đồng xã hội.
5. Theo chính sách của nhà nước, người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có quyền được
chăm sóc, chữa bệnh, dịch vụ xã hội nhưng thực tế, vẫn còn nhiều gia đình không dám
tiết lộ tình trạng HIV của người thân. Những phát hiện của đề tài luận án cho thấy,
nhiều người chăm sóc trực tiếp trẻ đã không tiết lộ tình trạng HIV của gia đình và của
chính trẻ cho trẻ BAHBH. Luận án đã góp phần vận dụng phong phú lý luận của
thuyết lựa chọn hợp lý vào thực tiển để lý giải việc người chăm sóc trẻ phải luôn cân
nhắc lợi ích của việc tiết lộ tình trạng có HIV của thành viên gia đình và nguy cơ bị kỳ
thị của gia đình, cộng đồng xã hội để đưa ra quyết định tiết lộ hay không. Đồng thời,
nghiên cứu cũng phản ánh rằng người chăm sóc trẻ nên tiết lộ tình trạng có HIV của
gia đình cho trẻ, đặc biệt là trẻ có HIV, nhưng cần phải có lộ trình tư vấn để chuẩn bị

tâm lý cho các em và độ tuổi phù hợp để thực hiện.
6. Những kết quả phân tích về các chiến lược ứng phó với sự kỳ thị xã hội đã phản ánh
hai chiến lược ứng phó với sự kỳ thị đã được người chăm sóc trẻ và chính trẻ BAHBH
thực hiện nhiều nhất. Đó là “Né tránh” và “chuyển chỗ ở”. Một số ít hơn chọn chiến
lược “Cam chịu”. Tuy nhiên, càng về sau, người chăm sóc trẻ càng có có xu hướng gia
tăng sự vận dụng chiến lược “đương đầu, vượt qua sự kỳ thị”.
7. Về nguyên nhân của sự kỳ thị, kết quả nghiên cứu khá trùng khớp khi tổng hợp từ
nghiên cứu của Vũ Mạnh Lợi và Khuất Thu Hồng, đó là bốn nguyên nhân được phát
hiện, bao gồm: (i) hiểu biết chưa đầy đủ về HIV, (ii) lo sợ quá mức về nguy cơ lây
nhiễm HIV (sợ trẻ chơi giỡn gây trầy xướt lây HIV), (iii) định kiến người có HIV với
các tệ nạn xã hội và (iiii) tự kỳ thị.
8. Liên quan đến hậu quả của sự kỳ thị, tác giả luận án muốn nhấn mạnh rằng, sự kỳ thị
xã hội đã tác động đến: (i) chất lượng cuộc sống của trẻ em BAHBH, đặc biệt tâm lý
của trẻ em từ tổn thương tình cảm, mặc cảm dẫn đến trầm cảm, tự kỳ thị; đến khoảng
cách trong giao tiếp; ảnh hưởng đến việc không tuân thủ điều trị ART và đảo lộn cuộc
sống khi phải chuyển trường, chuyển nhà. (ii) Đối với cộng đồng xã hội, sự kỳ thị là

21


thách thức để đạt được mục tiêu 90-90-90 của Việt Nam và tạo sự bất bình đẳng cho
những người liên quan đến HIV trong tiếp cận các dịch vụ Y tế, xã hội.
9. Kết quả rà soát về thể chế cho thấy luật pháp và chính sách xã hội cho Trẻ em
BAHBH khá toàn diện và đầy đủ, tuy nhiên các chính sách này chưa được thực thi
trọn vẹn trong thực tiễn, khi NCH chưa tham gia Bảo hiểm Y tế. Hơn thế nữa, số
người chăm sóc trẻ cùng với trẻ em BAHBH biết và tiếp cận được các chính sách xã
hội còn khá khiêm tốn, do một phần từ thủ tục để được hưởng chính sách này thì gia
đình phải thuộc diện hộ nghèo và quan trọng hơn, người chăm sóc trẻ sợ lộ diện sẽ bị
sự kỳ thị của xã hội.
10. Từ góc độ phát triển con người với lăng kính Quyền trẻ em, những phát hiện của của

nghiên cứu đã phản ảnh rằng, HIV/AIDS đã thực sự làm ảnh hưởng đến các nhóm
quyền của trẻ em: Quyền được sống còn (một số có HIV, mồ côi, thiếu tình cảm
cha/mẹ, đa số đang phải sống trong gia đình khó khăn), Quyền được bảo vệ (biết và
được tiếp cận để hưởng chính sách xã hội còn hạn chế, nguy cơ lao động sớm), Quyền
được Phát triển (vẫn còn một số trẻ trong độ tuổi đến trường không được đi học hoặc
phải bỏ học, một số có nguy cơ nghỉ học sớm để phụ giúp gia đình và vui chơi giải trí
là hạn chế) và Quyền được tham gia (ít cơ hội được lắng nghe và bày tỏ ý kiến). Trong
đó, Quyền được bảo vệ và Quyền được phát triển đã bị tác động không nhỏ, làm ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống của trẻ.
11. Về tính ứng dụng của các lý thuyết, những kết quả và những phát hiện trong luận án
đã chứng tỏ sự kết hợp lần đầu tiên giữa các lý thuyết kỳ thị- gán nhãn với thuyết sự
lựa chọn hợp lý và lý thuyết về sự phát triển của con người là hoàn toàn phù hợp với
nghiên cứu thực nghiệm về sự kỳ thị tại Việt Nam.

Khuyến nghị
Đối với người dân cộng đồng
Các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về HIV/AIDS cần gắn liền với các
tình huống giảm kỳ thị cho người dân, đặc biệt là nữ giới và nhóm nhân viên văn phòng.
Các thông điệp trong truyền thông cũng cần phải cập nhật các thông tin mới như điều trị
ART là dự phòng, lợi ích của điều trị ART sớm và luật pháp liên quan đến kỳ thị.

22


Đối với truyền thông đại chúng
Tiếp tục phát huy vai trò, thế mạnh của truyền thông đại chúng trong việc truyền
thông nâng cao nhận thức người dân, giảm kỳ thị. Các phóng viên, báo đài, mạng xã hội
cần được tập huấn định hướng, cập nhật thông tin định kỳ về HIV/AIDS, những thông tin
khoa học về điều trị ART là dự phòng, lợi ích điều trị sớm, bảo hiểm y tế cho người có
HIV, xử lý những người có hành vi kỳ thị…

Đối với người chăm sóc trực tiếp trẻ và chính Trẻ em BAHBH
Tác giả luận án khuyến nghị cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông
nâng cao nhận thức về HIV/AIDS, thông tin khoa học về điều trị ART là dự phòng, lợi
ích bảo hiểm y tế, luật pháp- chính sách xã hội đến các thành viên trong gia đình và
cộng đồng xã hội nhằm xóa bỏ sự tự kỳ thị và kỳ thị đối với trẻ em BAHBH, cũng như
giúp người chăm sóc trẻ tự tin tiếp cận dịch vụ, chính sách xã hội.
Tất cả trẻ em BAHBH cần được trang bị kiến thức về HIV/AIDS và kỹ năng
sống để giúp các em biết cách tự bảo vệ mình trước các nguy cơ lây nhiễm HIV và
tránh bị kỳ thị và tự kỳ thị. Chương trình ngoại khóa giáo dục kỹ năng sống (kỹ năng
mềm) cho học sinh các cấp của ngành giáo dục cần được tiếp tục nhân rộng không chỉ
trong hệ thống trường học mà còn phải được lồng ghép vào các hoạt động sinh hoạt,
hội họp của trẻ và thanh thiếu niên tại cộng đồng.
Tư vấn hỗ trợ tâm lý cho người chăm sóc trực tiếp trẻ và trẻ em BAHBH là một
nhu cầu thiết thực nên được duy trì và nhân rộng mô hình này để giúp giảm bớt sự
căng thẳng, lo sợ và tự kỳ thị của người chăm sóc trẻ và trẻ em BAHBH. Ngoài ra,
người chăm sóc trẻ cần được tư vấn hỗ trợ để có thể xây dựng kế hoạch từng bước tiết
lộ tình trạng có HIV của trẻ cho chính các em trong độ tuổi trung bình là 12.
Mạng lưới những người có HIV, các nhân viên công tác xã hội, giáo dục viên
đồng đẳng cần tiếp tục phát huy vai trò truyền thông, tư vấn hỗ trợ những người chăm
sóc trẻ và Trẻ em BAHBH, cũng như nâng cao nhận thức cộng đồng về HIV/AIDS,
giúp giảm kỳ thị và tự kỳ thị một cách hiệu quả.
Đối với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội

23


×