PHẦN MỞ ĐẦU
Đã từng là sinh viên các trường đại học nói chung và là sinh viên
trường Học viện Ngân hàng nói riêng - nơi gieo ươm các hạt giống cho
tương lai. Các cử nhân kinh tế của ngày mai hẳn sẽ không quên được
những ngày sống và học tập tại trường.
Thật là thú vị với mỗi môn học lại có sự hấp dẫn, thu hút người
nghiên cứu một cách lạ kỳ bởi nó giúp cho con người thấu hiểu và nhận
thức được thế giới một cách sâu sắc.
Triết học Mác-Lênin là một mơn học được nhiều người ưa thích
và mến mộ, nó cung cấp những kiến thức cơ sở phục vụ việc dạy và học
các môn khoa học kinh tế, khoa học quản lý góp phần xây dựng tư duy
kinh tế phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
Nhưng do điều kiện khơng cho phép, thời gian lại có hạn nên em
chỉ xin đề cập đến vấn đề: "Lĩnh vực tinh thần và vận dụng trong đời
sống xã hội dưới góc nhìn triết học" .
Tiểu luận gồm ba phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
I. Ý thức xã hội và kết cấu của nó.
II. Khoa học và vai trị của nó trong sự phát triển xã hội.
III. Văn hoá và vai trị của nó trong nền kinh tế - xã hội.
Phần kết luận.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong trường và các bạn.
1
PHẦN NỘI DUNG
I. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU CỦA NĨ
Xã hội có thể chia ra làm hai lĩnh vực cơ bản: Tồn tại xã hội và ý
thức xã hội. Trong đó tồn tại xã hội là tồn bộ những điều kiện vật chất
của đời sống xã hội. Nó bao gồm nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên,
điều kiện dân số, phương thức sản xuất cũng như toàn bộ những điều
kiện sinh hoạt vật chất khác. Song phương thức sản xuất là yếu tố quyết
định.
Ý thức xã hội đối lập với tồn tại xã hội, ý thức xã hội là tồn bộ
những tư tưởng, ý chí, tình cảm, v.v... của xã hội, đó là phản ánh của
tồn tại xã hội vào đầu óc của con người.
Ý thức xã hội hình thành, biến đổi trên nền tảng của tồn tại xã hội
và phản ánh tồn tại xã hội đó.
Ý thức xã hội có cấu trúc rất phức tạp và tuy theo từng góc độ
khác nhau mà cấu trúc cũng khác nhau.
Theo trình độ phản ánh người ta chia ý thức xã hội ra thành ý
thức đời thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Ý thức đời thường và ý thức lý luận là hai trình độ khác nhau của
ý thức xã hội. Ý thức đời thường đó là ý thức được hình thành một cách
tự phát trong đời sống hàng ngày, nó phản ánh một cách trực tiếp các
mặt trong đời sống xã hội. Ý thức đời thường có ưu thế là bất cứ người
bình thường nào cũng có được bằng kinh nghiệm cuộc sống của mình
hoặc tiếp thu từ sự lưu truyền trong đời sống xã hội. Việc tiếp thu nó
cũng thường diễn ra một cách tự phát. Ý thức đời thường rất phong
phú, nhiều vẻ, nó phản ánh một cách sinh động các mặt, các khía cạnh
khác nhau của đời sống xã hội. Đối với mỗi cá nhân làm việc giàu cho
mình những ý thức đời thường có ý nghĩa to lớn trong cuộc sống. Nó
2
làm cho vốn sống của con người trở nên phong phú hơn, làm cho cuộc
sống của con người trở nên uyển chuyển, sinh động hơn. Tuy nhiên, do
tính chất tự phát của nó cho nên rất dễ tiếp thu cả những mặt tiêu cực, ý
thức đời thường cũng có vai trị to lớn đối với sự hình thành và phát
triển khoa học, đối với sáng tạo văn hoá và nghệ thuật.
Ý thức lý luận là trình độ cao của ý thức xã hội, là các quan điểm,
các tư tưởng của xã hội đã được khái quát, được hệ thống hoá thành các
học thuyết, thành các lý thuyết, các khoa học khác nhau, các ý thức lý
luận tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như các khoa học, các học
thuyết triết học, các học thuyết chính trị - xã hội, các lý thuyết về văn
học, nghệ thuật, đạo đức,... Các hệ thống lý luận khơng thể hình thành
tự phát mà do các nhà trí thức, các nhà nghiên cứu xây dựng nên, lý
luận cũng có thể khoa học mà cũng có thể phản khoa học. Khác với ý
thức đời thường, ý thức lý luận phải thông qua học tập, nghiên cứu một
cách nghiêm túc, có hệ thống của mỗi một con người thì mới có được.
Chỉ có ý thức lý luận khoa học mới có thể giúp cho con người có được
sự hiểu biết một cách có hệ thống, có căn cứ để phân tích các sự kiện,
có định hướng trong cuộc sống, không dao động ngả nghiêng cho nên
việc học tập, nghiên cứu, tiếp thu và sử dụng ý thức lý luận là một mặt
rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Gắn liền với ý thức đời thường và ý thức lý luận, người ta còn
phân biệt tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tâm lý xã hội là một bộ phận
của ý thức đời thường, thể hiện những quan niệm và những thói quen,
những thị hiếu, những thiên hướng, những hứng thú và ước mơ... của
con người. Tâm lý xã hội hình thành một cách tự phát trong đời sống xã
hội, nó phản ánh trực tiếp điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau sẽ hình thành nên tâm lý
khác nhau. Chẳng hạn: mỗi dân tộc có điều kiện sinh hoạt vật chất riêng
của dân tộc đó nên hình thành tâm lý dân tộc. Mỗi giai cấp có điều kiện
3
sinh hoạt vật chất riêng cho nên giai cấp khác nhau dẫn đến tâm lý cũng
khác nhau, mỗi nền sản xuất cũng có tâm lý riêng thích ứng với nền sản
xuất đó (tâm lý của những người sản xuất nhỏ, tâm lý đại công
nghiệp...) v.v...
Ý thức xã hội không thể tồn tại tách rời ý thức cá nhân. Ý thức
của mỗi một cá nhân vừa có cái chung của giai cấp, của dân tộc và các
mặt khác của xã hội nhưng lại có những nét độc đáo riêng do những
điều kiện hồn cảnh riêng của cá nhân đó quy định.
Và trong những trường hợp đặc biệt một số cá nhân có thể vượt
ra khỏi những cái ràng buộc giai cấp xuất phát của mình và đứng trên
lập trường của giai cấp khác.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trị của nó
trong đời sống xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh
tồn tại xã hội. Song điều đó khơng có nghĩa là sự phản ánh giản đơn,
một chiều, thụ động mà có tính độc lập tương đối trong q trình phát
triển của nó.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện như
sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, tính lạc
hậu đó chính là ở chỗ ý thức xã hội, phản ánh không kịp những cái mới.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta cũng vậy, rất
nhiều trường hợp ý thức, tư tưởng không thay đổi kịp so với sự thay đổi
trong hiện thực.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là vì: tồn
tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau, ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội; sức mạnh của thói quen, của phong tục, tập quán, của sự lưu
truyền ý thức tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác, các lực lượng xã
4
hội bảo thủ (hay phản động tìm mọi cách duy trì ý thức tư tưởng cũ,
chống lại ý thức tư tưởng tiến bộ cách mạng).
- Tính vượt trước của tư tưởng tiến bộ khoa học. Không phải mọi
ý thức, tư tưởng đều lạc hậu, ngược lại, ý thức, tư tưởng tiến bộ khoa
học lại có tính vượt trước. Tính vượt trước của ý thức tư tưởng khoa
học chính là ở chỗ: nó vạch ra xu hướng vận động, phát triển của xã
hội, dự kiến được tương lai, từ đó định hướng cho hoạt động của con
người trong quá trình cải tạo thế giới.
Tính vượt trước của tư tưởng tiến bộ khoa học khơng có nghĩa là
nó khơng phản ánh tồn tại xã hội, không bị tồn tại xã hội chi phối, mà
ngược lại nó cũng bị chi phối bởi tồn tại xã hội, hình thành phát triển
trên cơ sở tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Song đó là sự phản
ánh đi sâu vào bản chất, vào quy luật vận động, phát triển của xã hội, từ
đó mới có thể dự kiến đúng tương lai, vạch ra phương hướng đúng cho
hoạt động thực tiễn của con người.
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội. Ý thức tư
tưởng của mỗi giai đoạn lịch sử, trước hết do những điều kiện lịch sử
của giai đoạn đó quy định, nhưng mặt khác, nó lại thừa kế ý thức tư
tưởng của thế hệ trước, của các giai đoạn trước cũng như ý thức tư
tưởng của nhân loại, tính kế thừa đó là tất yếu trong q trình vận động,
phát triển của ý thức tư tưởng, nó do sự nối tiếp lẫn nhau giữa các thế
hệ, do sự lưu truyền dưới các hình thức khác nhau, các văn hoá cũ; do
sự tác động qua lại lẫn nhau trên phạm vi quốc tế. Do tính kế thừa đó,
mà sự phù hợp của ý thức tư tưởng xã hội với tồn tại xã hội khơng phải
giản đơn, máy móc mà nó có những sắc thái riêng của nó.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong quá
trình phát triển của chúng.
5
Ý thức xã hội tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau, như
chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tơn giáo, khoa học, nghệ thuật
v.v... Mỗi hình thái ý thức xã hội có đặc điểm phản ánh riêng, có chức
năng xã hội riêng và có quy luật phát triển riêng. Tuy vậy, giữa các
hình thái ý thức đó lại không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, thâm
nhập lẫn nhau, làm cho trong mỗi hình thái lại chứa đựng những yếu tố
nhất định của hình thái khác, chẳng hạn, trong nghệ thuật thời kỳ phục
Hưng lại phản ánh những tư tưởng triết học tiến bộ thời bấy giời; trong
các tư tưởng Phật giáo phương Đông lại chứa đựng những tư tưởng
biện chứng thiên tài...
III. KHOA HỌC VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1. Khái niệm khoa học và phân loại khoa học
- Khoa học có thể dùng với nhiều nghĩa khác nhau với tính cách
là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người. Khoa học bao gồm
hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất, hoạt động lý luận và hoạt
động thực tiễn khoa học. Khoa học phản ánh đúng đắn, chân thực các
quá trình diễn ra trong hiện thực, đi sâu vào các mối quan hệ bản chất,
tất nhiên, các quy luật vận động, phát triển của hiện thực được biểu
hiện dưới các hình thái như: khái niệm, phạm trù, quy luật...
Đối tượng nghiên cứu của khoa học bao hàm cả tự nhiên, xã hội,
bản thân con người, cả về lĩnh vực vật chất và tinh thần, cả hình thái ý
thức xã hội. Khoa học bao gồm các lĩnh vực chính sau:
+ Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
+ Khoa học triết học.
+ Khoa học cơ bản.
Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và thực tiễn
xã hội. Trong q trình đó, vai trị của khoa học ngày càng tăng lên đối
với sự phát triển của xã hội. Xã hội nguyên thuỷ khoa học chưa hình
6
thành. Khoa học chỉ bắt đầu hình thành từ thời cổ đại, khi mà có sự
phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Từ đó đến nay,
khoa học đã trải qua những giai đoạn:
* Giai đoạn từ thời cổ đại cho đến thế kỷ XV
Thời kỳ này khoa học mới bắt đầu hình thành, cịn rất sơ khai,chỉ
bó hẹp ở một số lĩnh vực: thiên văn học, toán học, cơ học nhằm đáp
ứng nhu cầu về thuỷ lợi, hàng hải, xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Ảnh
hưởng của tri thức khoa học đến sản xuất còn rất yếu, chủ yếu là tri
thức kinh nghiệm với lao động thủ công của nô lệ. Thời trung cổ, do sự
chuyên chế của phong kiến, thần quyền và tôn giáo đã kìm hãm khoa
học phát triển.
* Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX
Thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII mở đầu bằng Côpecnic và
kết thúc ở Niutơn. Đây là thời kỳ chế độ phong kiến Tây Âu suy tàn,
chế độ tư bản ra đời là thời kỳ cách mạng tư sản. Khoa học thời kỳ này
phát triển theo xu hướng chống lại phong kiến, chống lại các giáo điều,
kinh viện đề cao lý trí và tự do của con người. Nói chung, khoa học cịn
ở trình độ sưu tập và mơ tả là chính. Lúc này phương pháp tư duy siêu
hình đóng vai trị thống trị. Mặc dù cịn có những hạn chế đó, song
khoa học thời kỳ này đã đóng vai trị tích cực chống lại mọi giáo điều
tơn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện, chống lại chế độ phong kiến,
thúc đẩy cách mạng tư sản, đồng thời tạo tiền đề khoa học cho cách
mạng công nghiệp cũng như bước phát triển tiếp theo của khoa học.
Thời kỳ thứ hai của giai đoạn này bắt đầu từ nửa sau thế kỷ
XVIII đến hết thế kỷ XIX. Bắt đầu từ giả thuyết của Cantơ về sự hình
thành thái dương hệ và kết thúc bằng ba phát hiện vĩ đại là học thuyết
về tế bào, học thuyết tiến hố của các giống lồi và định luật bảo tồn
chuyển hố năng lượng. Sự phát triển của khoa học ở thời kỳ này là sự
7
kế tục của thời kỳ trước nhưng theo phương hướng mới, tiếp tục loại
Chúa trời ra khỏi khoa học, phá vỡ những quan niệm siêu hình, vạch ra
mối liên hệ lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau và sự vận động phát triển
trong giới tự nhiên. Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, bên
cạnh đó sử học, kinh tế học, khoa học nhân văn... cũng không ngừng
phát triển. Đặc biệt đến giữa thế thế kỷ XIX, triết học, kinh tế chính trị
học, chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen sáng lập đã đóng
vai trị đặc biệt to lớn trong nhận thức khoa học và trong cuộc đấu tranh
nhằm giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
* Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ thế kỷ XX
Giai đoạn này, quá trình phân ngành khoa học tiếp tục diễn ra
một cách mạnh mẽ, ngày càng hình thành nhiều mơn khoa học mới.
Xu hướng phát triển mới của khoa học hiện đại là đi sâu vào cấu
trúc của vật chất như cấu trúc nguyên tử, cấu trúc gen... và thâm nhập
vào khoảng không vũ trụ tìm ra những đặc tính mới, những quy định
mới của vật chất, khoa học và kỹ thuật thống nhất chặt chẽ với nhau,
mà thành quả vĩ đại của sự thống nhất đó chính là cuộc cách mạng khoa
học - kế hoạch đã và đang diễn ra trên thế giới. Cùng với khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật, các khoa học xã hội như kinh tế học, luật
học, xã hội học, tâm lý học... cũng không ngừng phát triển và đóng vai
trị ngày càng to lớn trong đời sống xã hội và cũng trở thành lực lượng
sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự phát triển hài hoà các
mặt của đời sống xã hội làm cho xã hội ngày càng văn minh hạnh
phúc. Hiện nay công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra hàng loạt vấn
đề về kinh tế , chính trị, xã hội cũng như các vấn đề khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật đòi hỏi các nhà khoa học nghiên cứu, giải đáp. Cơng
cuộc đổi mới ở nước ta chỉ có thành cơng tốt đẹp khi nó được tiến hành
trên cơ sở khoa học, đúng đắn, nghiêm túc.
8
IV. VĂN HỐ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các giá trị do con
người sáng tạo ra và phương thức con người sử dụng các giá trị đó
trong các hoạt động của mình. Đó là tồn bộ sự hiểu biết của con người
về tự nhiên xã hội và bản thân con người trong quá trình cải tạo tự
nhiên, xã hội, bản thân; là cách ứng xử của con người đối với tự nhiên
xung quanh, đối với xã hội và đối với người khác; là những phong tục,
tập quán, những truyền thống, những quan điểm và chuẩn mực về đạo
đức, những thị hiếu về thẩm mỹ, những sinh hoạt tôn giáo, những quan
điểm triết học, những hoạt động văn học, nghệ thuật, giáo dục...
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được dùng với nghĩa là các hoạt động
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục.
Đặc điểm của văn hoá là môi trường vận động, phát triển. Tuy
nhiên, sự phát triển của văn hố có tính độc lập tương đối.
Trong lịch sử phát triển văn hoá của nhân loại rất phong phú
nhiều vẻ. Ngay từ thời nguyên thuỷ, mỗi thị tộc, bộ lạc đều có những
điều kiện sống riêng, văn hố có những nét độc đáo riêng, có tín
ngưỡng riêng, phong tục, tập quán riêng... Khi dân tộc ra đời cộng đồng
dân tộc tương đối bền vững, mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng với những
điều kiện riêng của mình, có nền kinh tế thống nhất với những đặc điểm
riêng của nó, có mộtlịch sử hình thành phát triển riêng của dân tộc
mình... Do đó mỗi dân tộc có nền văn hố với bản sắc riêng của dân tộc
mình. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta lại rất
quan tâm đến việc khôi phục và phát triển các truyền thống văn hố dân
tộc.
- Tính dân tộc của văn hố khơng phủ nhận tính nhân loại, tính
thời đại của văn hố, phải có sự giao lưu lẫn nhau giữa các dân tộc,
giữa các nền văn minh.
9
- Trong xã hội có giai cấp, tính giai cấp của văn hố thể hiện ở
chỗ văn hố đó do ai sáng tạo ra, do ai chi phối và phục vụ lợi ích giai
cấp nào. Vì vậy, dẫu sao văn hố cũng thể hiện tính dân tộc, tính thời
đại và tính giai cấp sâu sắc.
Văn hố đóng vai trị quan trọng trong đời sốgn xã hội. Đời sống
xã hội gồm rất nhiều mặt, nhiều lĩnh vực: có đời sống vật chất và đời
sống văn hố tinh thần, do đó văn hoá là một mặt của đời sống xã hội,
một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống con người, xã hội
càng phát triển thì nhu cầu văn hố càng tăng lên. Trong một xã hội văn
minh, tất cả các mặt của đời sống xã hội khơng thể vắng bóng văn hố.
Thí dụ: ăn, ở, sinh hoạt đều phải có văn hố; giao tiếp phải có văn hố;
làm việc phải có văn hố... Nếu chỉ có cuộc sống vật chất thì chưa đưa
con người ra khỏi giới hạn của cuộc sống động vật. Mà chỉ có văn hố
mới thực sự mang lại cho con người giá trị đích thực của cuộc sống.
Để đánh giá sự phát triển của xã hội phải dựa trên cơ sở trình độ văn
hố. Chỉ khi kinh tế, chính trị, xã hội kết hợp hài hồ thì xã hội mới
phát triển. Văn hố khơng chỉ là một mặt của đời sống xã hội mà còn là
động lực phát triển của xã hội. Văn hoá trở thành tri thức, tình cảm, ý
chí, nếp sống, thói quen, phương pháp và cách thức hành động của con
người. Vì vậy, trình độ văn hố thấp kém sẽ kìm hãm sự phát triển của
xã hội và ngược lại. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trung tâm của văn hố, văn
nghệ của nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ,
đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh
vững vàng ngang tầm với sự nghiệp đổi mới vì dân giàu nước mạnh xã
hội cơng bằng văn minh.
10
PHẦN KẾT LUẬN
Lĩnh vực tinh thần là một mặt của đời sống xã hội, nó có ảnh
hưởng rất nhiều tới sự phát triển của xã hội. Ở Việt Nam việc phát triển
về lĩnh vực tinh thần cịn gặp nhiều khó khăn, nan giải. Đây là những
bức xúc, trăn trở mà mọi người cần phải quan tâm và suy nghĩ. Lĩnh
vực tinh thần hết sức phong phú nhiều vẻ. Một xã hội phát triển không
chỉ đầy đủ về cơ sở vật chất mà còn thể hiện qua lĩnh vực tinh thần. Ý
thức xã hội, văn hoá khoa học phải phát triển tồn diện, giữ chúng có
sự ràng buộc với nhau, mặt này phát triển làm tiền đề, cơ sở thúc đẩy
mặt kia phát triển theo và ngược lại mặt này kém phát triển thì sẽ kìm
hãm sự phát triển của mặt kia.
Vì vậy về mặt lĩnh vực tinh thần trong đời sống xã hội phải đặc
biệt quan tâm, bằng các biện pháp giáo dục văn hoá, nâng cao ý thức xã
hội, đầu tư cơ sở vật chất, thúc đẩy khoa học kế hoạch phát triển... Có
như vậy xã hội mới phát triển trên mọi lĩnh vực.
Đối với bản thân mỗi cá nhân - một hạt nhân nhỏ bé của xã hội
cần phải nỗ lực, tích cực rèn luyện và học tập nâng cao ý thức, mở
mang tầm hiểu biết phát triển trí tuệ, góp phần thúc đẩy đưa xã hội đi
lên.
Được vậy là nhờ sự kế thừa các thành tựu về văn hoá, khoa học,
tư tưởng ở giai đoạn trước, song sự nhận thức đã giúp cho nhân loại
nhìn nhận thấy được những hạn chế, khiếm khuyết và sai lầm từ sự kế
thừa đó mà xã hội cần sàng lọc và vứt bỏ. Đồng thời khơng ngừng tìm
tịi sáng tạo ra những phát minh sáng kiến trong văn hoá, khoa học, kỹ
thuật để rồi nhờ đó tinh thần trong đời sống xã hội được nâng cao, kéo
11
theo sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng trong đời
sống xã hội, đưa xã hội tiến lên một bước cao hơn và xa hơn.
Khi đã thấu hiểu được vai trò quan trọng của lĩnh vực tinh thần
trong đời sống xã hội con người mới trở nên gắn bó, tha thiết với cuộc
sống hơn. Thực tế trong đời sống xã hội, tinh thần có ảnh hưởng rất
nhiều tới năng suất và cường độ lao động. Ý thức xã hội, văn hoá, khoa
học là những mặt trực tiếp quyết định sự phát triển của xã hội. Ngày
nay công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở nước ta phải gắn liền với
việc đề cao và không ngừng củng cố, phát triển lĩnh vực tinh thần một
cách toàn diện.
12