TIỂU LUẬN TRIẾT.
Lời mở đầu.
Đổi mới là quá trình sáng tạo không ngừng, cách mạng là sáng tạo. Công
cuộc đổi mới ngày càng đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần sáng tạo
không ngừng của chủ thể. Trước hết là của đội tiên phong cách mạng.
Đại hội VI của Đảng( 1986) quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Đây là sự lựa chọn hợp quy luật, tạo bước ngoặt quan trọng
trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Sau 18 năm vừa tìm tịi vừa phải tự vượt qua mn vàn khó khăn, thử
thách để đổi mới tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đến nay bằng
những thành tựu của mình đủ để chúng ta khẳng định tính đúng đắn của
những đường lối, chiến lược của Đảng và nhà nước ta từ khi đổi mới đến
nay. Ngay từ đầu, Đảng ta xác định đổi mới tồn diện, trong đó đổi mới
kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Coi đổi mới kinh tế là
trọng tâm, Đảng ta chuyển cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường, dưới sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mấu chốt của sự đổi mới này là thiết lập cơ chế mới, thừa nhận trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế
tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế ấy phát triển vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn minh. Chính nhờ đường lối đó
mà chỉ 18 năm đổi mới đã đem lại cho đất nước ta bộ mặt mới với sự rạng
rỡ, phồn vinh làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế- xã hội, nhất là ổn
định tình hình chính trị, kinh tế văn hố phát triển quốc phịng vững chắc,
mở rộng đối ngoại, vị thế đất nước ta không ngừng được nâng cao trên
trường quốc tế.
Điểm nhấn mạnh là công cuộc đổi mới của Việt Nam diễn ra trong bối
cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến rất phức tạp. Đảng ta chủ
trương phải nhình thẳng vào sự thật, thấy rõ thực chất của những sai lầm
chủ quan duy ý chí, khơng tơn trọng thực tế khách quan, khơng hành động
theo quy luật của sự phát triển. Đảng ta yêu cầu phải khắc phục lối tư duy
cũ, đổi mới tư duy, tìm kiếm những nhận thức và hành động mới cho
chiến lược phát triển đất nước đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Sự đổi mới tư duy đã định hướng đúng cho sự phát triển về chiều sâu của
suốt quá trình đổi mới về sau. Thực tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã
hội vưà là kết quả của đổi mới tư duy lại vừa đặt ra những yêu cầu mới
1
cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở giai đoạn tiếp cao hơn. Song đây là q
trình khơng đơn giản, nó diễn ra cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái mới và
cái cũ, cái đúng và cái sai, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu để đi đến sự
thống nhất nhận thức trong toàn Đảng toàn dân. Hơn lúc nào hết thực tiễn
đòi hỏi chúng ta phải đứng trên tinh thần phủ định biện chứng để nhìn
nhận, đánh giá mọi vấn đề để từ đó đưa ra những đường lối, sách lược,
chiến lược mang tính đúng đắn quyết định cả vận mệnh nền kinh tế, quyết
định vận mệnh cả chế độ xã hội, cả đan tộc Việt Nam.
Mặt khác nước ta sau khi dành chính quyền và bắt tay vào xây dựng xã
hội chủ nghĩa thực chất vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu
chủ yếu là nền sản xuất nhỏ tự cấp tự túc. Nhưng khi khôi phục nền kinh
tế lại không cho phép chúng ta gạt bỏ hoàn toàn quan hệ sản xuất cũ, như
vậy là trái ngược với quy luật của sự phát triển. Mà đòi hỏi thiết yếu là
phải sáng suốt để kế thừa một cách có chọn lọc những yếu tố tích cực, tiến
bộ của nền kinh tế kế hoạch hố tập trung cũ, những yếu tố tiến bộ không
thể phủ nhận của nền kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản và đặc biệt phải phát
huy, bảo tồn và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc để
góp phần xây dựng, hồn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa chịu sự quản lí của nhà nước. Đó là lí do tơi lựa chọn đề tài:
“Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc
đổi mới kinh tế ở Việt Nam”
2
1: Phủ định biện chứng và tính kế thừa của phủ định biện
chứng.
1.1: Phủ định biện chứng.
_Phủ định biện chứng là gì? Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
cũng đều trải qua quá trình sinh, trụ,dị, diệt với thời gian dài ngắn khác
nhau .Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là
tất yếu trong q trình vận động và phat triển của sự vật. Không như vậy,
sự vật không phát triển được.Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ
định.
Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình
vận động và phát triển.
_Phủ định biện chứng là gì? Trong lịch sử triết học,tuỳ theo thế giới quan
và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết học co s
quan niệm khác nhau về sự phủ định.Theo quan điểm duy vật biện chứng,
sự chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất, sự đấu tranh thường xuyên giữa các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn
được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sự thay thế liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự
vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng
có nghĩa là sự phủ định là tiền đề cho sự ra đời của cái mới thay thế cái
cũ.Đó là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, sự phát triển tự thân,là mắt khâu quan trọng trong quá trình dẫn tới
sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
1.2:
Tính kế thừa của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật,nên
nó khơng thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hồn tồn cái cũ. Cái mới chỉ có
thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra
đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ đi những yếu tố
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải toạ và phát
triển những yếu tố hợp lí, tiến bộ tích cực của cái cũ, cho tham gia vào cái
mới.
3
Sự phát triển chẳng qua là sự biến đổi ttrong đó giai đoạn sau bảo tồn
tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trứoc, bổ sung thêm
những mặt mới cho phù hợp với hiện thực. Điều đó nói lên rằng, phủ định
biện chứng mang tính kế thừa.Trong quá trình phủ định biện chứng, sự
vật khẳng định lại những mặt tơt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái
lạc hậu cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.
2:
Vận dụng, phát huy tính kế thừa của phủ định biện
chứng trong cơng cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
2.1:
Công cuộc đổi mới kinh tế ở Viêt Nam.
2.1.1:
Bối cảnh lịch sử
Trong khoảng hai thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế
giới co bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm: Tốc độ tăng trưởng nhanh
và khá ổn định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm.Nhưng từ
giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80(thế kỷ XX) “ thế giới đang trải
qua một trong những cuộc khủng hoảngkinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử
của mình”.
Từ thập kỉ 80, tồn cầu hố là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách
quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong q trình phát triển khơng
thể tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh
tế và hội nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh
hoặc cải cách kinh tế ở các mức độ và hình thức khác nhau. ở các nước tư
bản phát triển, từ đầu những năm 80 đã bắt đầu tiến hành điều chỉnh kinh
tế. Nội dung cơ bản của điều chỉnh kinh tế ở các nước này là điều chỉnh
cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển các ngành có hàm lượng
khoa học kĩ thuật cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua
công cụ chính sách vĩ mơ, đặc biệt là chính sách tài khố và chính sách
tiền tệ. Họ thực hiện tư nhân hoá nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước, tăng cường vai trò kinh tế tư nhân.
Còn ở một số nước đang phát triển, quá trình điều chỉnh kinh tế cũng diễn
ra nhất là ở một số nước Đông Nam á và Đông á. Từ đầu những năm 70
của thế kỉ 20 các nước này đã thực hiện cải cách kinh tế và trở thành khu
vực phát triến năng động của thế giới.
Ơ các nước xã hội chủ nghĩa, trước những khó khăn của nền kinh tế các
nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Đông Âu , Trung Quốc đã tiến hành
cải cách kinh tế. Cải cách ở các nước này đã diễn ra ở các thời điểm khác
4
nhau song đều có nét chung là nhằm khắc phục sự trì trệ của nền kinh tế
do hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cuộc cải cách đó ở Liên
Xơ bắt đầu từ năm 1985 và các nước Đông Âu không đạt được kết quả
như mong muốn, dần dần dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ cả chế độ kinh
tế chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, cải cách và mở cửa kinh tế ở
Trung Quốc từ những năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn: nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, mức sống của nhân dân được nâng lên đáng kể
Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới từ
cuối thập kỷ 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Trong bối cảnh phát triển sôi động của kinh tế thế giới, đặc biệt là
các nước trong khu vực, Việt Nam khơng thể đứng ngồi tiến trình đó.
2.1.2:
u cầu của đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Bảo đảm sự thống nhất quan hệ về sở hữu với quan hệ về tổ chức quản
lý và quan hệ về phân phối trong xây dựng quan hệ sản xuất mới trong
quá trình đổi mới kinh tế. Việc tìm tịi, thử nghiệm,xây dựng chế độ công
hữu diễn ra từng bước gắn liền với việc xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung quan liêu,bao cấp. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc phân phối
xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó là thực hiện phân phối chủ yêu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khácvào sản xuất, kinh doanh thơng qua phúc lợi xã hội.
Tạo những hình thức kinh tế bảo đảm sự gắn bó sở hữu xã hội với sở
hữu cá nhân trong chế độ công hữu.Thực tiễn đổi mới cho thấy, trong chủ
nghĩa xã hội, sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất không chỉ tồn tại trong
thành phần kinh tế cá thể mà cồn trong kinh tế cơng hữu.Đó cũng là tinh
thần của C.Mac khi ông cho rằng: sở hữu tư nhân mà biểu hiện cuối cùng
và hoàn bị nhất là sở hữu tư sản, là sự phủ định sở hữu cá nhân của người
lao động. Vì vậy, chế độ cơng hữu khi phủ diịnh tư sản nó khơng khơi
phục sở hữu tư nhân mà lại khôi phục sở hữu cá nhân người lao động.
Xây dựng chế độ cơng hữu từng bước và có bước đi thích hợp. Ph.
Ănghen đã khẳng định, khơng thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức như
thể không thể làm cho lực lượng sản xuất phát triển ngay lập tức đến mức
cần thiết để xây dựng một nền kinh tế cơng hữu.
2.2:
Tính kế thừa của phủ định biện chứng với công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam.
5
2.2.1: Kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý của cơ chế kinh tế kế hoạch
hoá tập trung.
Trước thời kỳ đổi mới, suốt nhiều thập kỷ,Việt Nam cũng như các nước
xã hội chủ nghĩa khác, thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước theo mơ hình chủ nghĩa xã hội hành chính bao cấp dựa trên quan
niệm lúc bấy giờ là chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất
và cơ chế kế hoạch hố tập trung. Trong hồn cảnh đất nước có chiến
tranh, viẹc áp dụng mơ hình này đã thực sự mang lại những kết quả to lớn
không thể phủ nhận. Chúng ta đã huy động mọi lực lượng, tập trung vừa
đánh bại cuộc chiến tranh rất ác liệt do đế quốc Mỹ gây ra, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc,tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng cho chủ nghĩa xã hội.
Thực tế mơ hình chủ nghĩa xã hội này,nhất là thời kỳ 10 năm sau ngày
giải phóng miền Nam (1976 – 1986) đã chứng tỏ những điều không phù
hợp với quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và
sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế ( quốc doanh, tập thể ) đã kìm
hãm sức sản xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không được phát
huy,các vấn đề mấu chốt của đời sông nhân dân không được giải quyết.Vì
thế chúng ta khơng tạo ra những thay đổi ;không tạo ra được sự bứt phá
trong phương hướng phát triển bền vững; không tạo ra nguồn sinh lực mới
cho xã hội. Tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm
trọng,nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực sáng
tạo. Tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực quý giá khác chậm được
khai thác, sản xuất và đời sống ngày càng suy giảm …dẫn đến tình trạng
trì trệ trong xã hội.
Thực tế cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước
đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Tuy
vậy, xét cho cùng, khi nước ta bắt đầu bắt tay vào đổi mới, nền kinh tế
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường, dưới sự quản lý của nhà
nước, theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa thì việc kế thừa và phát huy
những yếu tố tích cực hợp lý của cơ chế cũ là rất cần thiết và không thể
phủ nhận.Chúng ta đổi mới nhưng không phủ định sạch trơn.
Trong sản xuất nông nghiệp, Chỉ thị 100 về khốn sản phẩm cuối cùng
đến nhóm và người lao động. Đây là một hình thức quản lý tiến bộ, thích
hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu cồn là thủ cơng và là hình
thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Chỉ thị 100 có tác dụng gắn chặt trách nhiệm
và lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Các hợp tác xã và
6
tập đoàn sản xuất đã phát huy tốt hơn khả năng lao động, tạo ra được khí
thế lao động sơi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn, vật tư, chú trọngcác
biện pháp thâm canh,tăng năng suất,tăng thu nhập, giải quyết tốt việc kết
hợp 3 lợi ích ( lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân )cho nên
chỉ thị đó nói chung đã là một động lực thúc đẩy đối với việc phát triển
sản xuất nông nghiệp. Song, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cộng
với sự yếu kém về tổ chức, quản lý của hợp tác xã cũng ảnh hưởng không
tốt đến việc thực hiện khốn sản phẩm.
Vì thế, giai đoạn đổi mới kinh tế trong sản xuất nơng nghiệp kế thừa và
hồn thiện dần chế độ khoán sản phẩm. Kinh tế hợp tác vẫn được giữ lại
nhưng hợp tác xã chỉ làm một số khâu dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản
phẩm cho xã viên.Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành
các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo Luật Hợp tác xã (ban hành 1997).
Về đổi mới các cơng cụ và chính sách quản lý kinh tế kế hoạch hoá
trong cơ chế cũ được coi là công cụ chủ yếu nhất để quản lý kinh tế.
Thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch nhà nước từ Trung ương đến
địa phương để xây dựng kế hoạch giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ sở
kinh tế ,điều hành, theo dõi thực hiện và xét duyệt việc hồn thành kế
hoạch mà nhà nước có thể “chỉ huy” được nền kinh tế. Việc thực hiện cơ
chế đó đến đầu thập kỷ 80 đã trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế.
Cơng tác kế hoạch hố trong thời kỳ đổi mới được cải tiến dần theo
hương chuyển từ kế hoạch hố tập trung mang tính chất pháp lệnh trực
tiếp sang kế hoạch hoá gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển
với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết kinh tế bằng
các chính sách, các cơng cụ kinh tế vĩ mô để dẫn nền kinh tế theo định
hướng đề ra cho từng giai đoạn…
2.2.2:
Kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức,văn hoá truyền thống trong
phát triển kinh tế mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với tư cách là nền tảng
tinh thần của xã hội hiện nay được Đảng ta xác định là: “vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”.
Thật vậy, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước ở một nước
mà cho đến nay, có thể nói, vẫn đang là một nước nghèo lạc hậu thì trước
tiên chúng ta phải chú trọng phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ hàng
7
đầu. Song sẽ là sai lầm nghiêm trọng với những hậu quả khó lường một
khi tăng trưởng kinh tế lại khơng gắn liền với phát triển văn hố, xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Để có một nền kinh tế phát
triển nhanh, lành mạnh và vững chắc, chung ta không thể chỉ trông chờ
vào các động lực kinh tế thuần tuý, chỉ dựa vào các động lực kinh tế thuần
tuý ấy. Bởi lẽ, thực tiễn cho thấy, mơi trường văn hố và cùng với nó, mơi
trường xã hội,chính trị và cả bối cảnh kinh tế cũng đã trở thành những tác
nhân hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
Với tư cách là cái phản ánh và thể hiện một cách tổng quát mọi mặt của
đời sống con người, của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc, là thước đo:
“trình độ người” trong các mối quan hệ xã hội. Văn hố thể hiện vai trị
động lực của nó qua việc làm cho con người phát triển toàn diện, trở nên
phong phú về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, lối sống, mang lại cho con người
nhân cách cao đẹp, giúp con người thực hiện khát vọng vươn tới hệ giá trị
chân – thiện - mỹ. Văn hoá làm cho chất lượng con người ngày một hoàn
thiện, khả năng hoạt động sáng tạo của con người ngày một nâng cao,
phương thức ứng xử của con người ngày một cao đẹp.
Cùng với đó, bằng việc tham gia có hiệu quả vào q trình “nâng cao
cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí”, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
to lớn của con người,mang lại cho con người năng lực tư duy, khả năng
tiếp thu cái mới, hiểu biết thực tiễn, văn hố trở thành động lực khơng thể
thiếu cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Phát triển kinh tế thị trường, văn hoá kinh tế là cái khơng thể. Nó mang
lại cho chúng ta kiến thức và sự hiểu biết về kinh tế thị trường, tạo ra ở
chúng ta năng lực tư duy kinh doanh sáng tạo, hiệu quả. Nó cịn là cái tạo
ra mơi trường tâm lý thuận lợi cho các hoạt độngkinh doanh làm giàu,phát
triển các hoạt động giao tiếp xã hội về kinh tế. Văn hoá trong kinh doanh
làm xuất hiện và phát triển tầng lớp kinh doanh giỏi, văn minh, có ý chí
làm giàu, biết chấp nhận những rủi rổtng làm ăn chân chính để rồi thành
đạt hơn trong sản xuất kinh doanh. Đó chính là lý do để chúng ta phát
huy, kế thừa các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thốngtrong đổi mới kinh
tế:
_Kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước.
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của
dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay, tinh thần yêu
nước truyền thống phải được kế thừa và phát huy một cách cao độ hơn
bao giờ hết, nhưng tinh thần đó cũng cần phải được bổ sung những nội
dung và hình thức mới cho phù hợp.
8
Đối với mỗi người dân Việt Nam ngày nay,yêu nước luôn là ý thức xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Trước tiên, phải có lịng tự hào dân tộc, có ý thức
tơn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị vật chất cũng như tinh thần
mà dân tộc ta đã tạo dựng được từ bao đời nay. Trong xây dựng kinh tế,
yêu nước chính là cố gắng phấn đấu,học tập, tu dưỡng,rèn luyện, lao đọng
để làm ra ngày càng nhiêù vật chất cho xã hội. Yêu nước thúc đẩy mỗi
người đem hết tài năng và trí tuệ của mình để làm giàu một cách chính
đáng cho bản thân; Dù ở cương vị nào cũng phải cố gắng hoàn thành một
cách xuất sắc nhiêm vụ của mình; Biết hưởng quyền lợi nhưng đông thời
cũng phải thực hiện tốt mọi nghĩa vụ của cơng dân, phấn đấu góp phần
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
_Kế thừa và phát huy đức tính cần cù.
Có thể nói, cần cù là một đức tính có truyền thống lâu đời của người
Việt Nam. Đức tính này được hình thành từ rất sớm, có nguồn gốc sâu xa
và gắn với điều kiện hình thành và phát triển nhân dân và lối sống dân
tộc. Hầu hết các từ điển Hán – Việt đều giải thích “cần cù”,có nghĩa
là,dốc hết sức, chăm chỉ,siêng năng. Khi bàn về “ cần”,Bác Hồ trả lời:
“cần tức là tăng năng suất trong cơng tá, bất kỳ cơng tác gì”. Cịn theo GS.
Trần Văn Giàu:” cần trước hết là làm việc. Phải làm việc siêng năng, làm
việc có năng suất cao thì mới gọi là cần. Cần có nghĩa là siêng “.Như vậy
khi nói đến khái niệm: “ cần cù”, cần chú ý đến mấy khía cạnh:
Thứ nhất, cần là khái niệm chỉ sự làm việc của con người trong lĩnh vực
sản xuất vật chất cũng như hoạt động tinh thần.Bác Hồ từng nói: “ cần
trong vơ luận nghề nghiệp, chức trách gì xưa gọi là cần nghiệp; cần trong
lao động sản xuất xưa gọi là cần lao; Cần trong việc học hành xưa gọi là
cần học”.
Thứ hai,cần chỉ sự chịu khó làm việc, chăm chỉ, siêng năng, và đạt hiệu
quả cao. Do vậy không nên hiểu cần chỉ là hoạt động lao động sản xuất
hay làm việc đơn thuần bởi lẽ nếu làm việc mà ít hiệu quả thì chưa gọi là
cần. Do vậy cần cù là một phẩm chất riêng có của con người, nó mang
tính người. Trong Kinh Dịch, “ cần” trước hết là đức lớn của trời đất chứ
không phải chỉ là nghĩa, là bổn phận và đức tính của con người.
Như vậy cần cù là một phẩm chất khơng phải chỉ dân tộc Việt Nam mới
có.Tuy nhiên, mỗi dân tộc đêù có đặc điêm tâm lý, điều kiện kinh tế- xã
hội khác nhau nên thái độ cần cù cũng khác nhau. Từ buổi bình minh của
lịch sử dân tộc, con người Việt Nam đã vừa phải chống chọi với thiên tai,
lũ lụt, hạn hán vừa phải chống giặc ngoại xâm. Chính hồn cảnh này đã
góp phần hình thành nên những nét độc đáo riêng cho đức tính cần cù của
dân tộc , nó khơng giống với bất kỳ dân tộc nào khác.
9
Đất nước bình n, cả nước đi vào cơng cuộc xây dựng đất nước.
Nhiệm vụ cách mạng trong xây dựng con người Việt Nam giai đoạn mới
phải có 5 đức tính cơ bản mà hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương
đảng khoá 8 đã đề ra, trong đó cần cù lao động và học tập là những đức
tính lớn: “lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật ,
sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã
hội…Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn,
trình độ thẩm mỹ và thể lưc”.
Trong điều kiện của một xã hội thông tin như hiện nay cần cù trong lao
động địi hỏi phải đi đơi với cần cù trong học tập. Bởi lẽ con người khơng
có tri thức đặc biệt là tri thức khoa học thì khó có thể lao động đạt hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu cuả thời đại, của sự phát triển xã hội. Có lẽ câu nói
của ơng cha ta: “ học ăn, học nói, học gói, học mở” đủ cho thấy rằng nhân
dân ta có nhân sinh quan và thái độ đúng đắn, tồn diện trong cuộc sống.
Nếu như, V.I. Lê Nin có quan niệm rất hay là: “ học, học nữa, học mãi”
thì ơng cha ta từ lâu đã có một quan niệm để đời, thấm sâu vào tâm trí của
người Việt là: học đến già. Rõ ràng đức tính cần cù là một đức tính lớn
của dân tộc Việt Nam góp phần làm nên bản sắc của nền văn hoá.
Trong những năm qua, có thể nói đức tính cần cù được nhân dân ta kế
thừa và phát huy một cách tích cực. Điều này được thể hiện rõ nét trong
lối sống của những cá nhân trong cộng đồng xã hội. Khi nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường, nhà nước cho phép nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại, đặc biệt là kinh tế tư nhân thì đức tính cần cù, đặc biệt là lao
động cần cù được nhân dân ta xem là một phẩm chất quý nhất và được kế
thừa phát huy cao độ.
Theo số liệu điều tra xã hội học của Viện nghiên cứu Văn học - Nghệ
thuật và Trung tâm Công nghệ - Thông tin của Văn phịng Bộ Văn hốThơng tin về phẩm chất đáng q của con người đối với 1120 công nhân
và 498 nông dân với câu hỏi:
“xin ông(bà) cho biết phẩm chất nào ở con người là đáng quý”.
Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Phẩm chất
Thơng minh, sáng tạo
lao động chun cần
chính trực, thật thà
trọng chữ tín, giữ lời hứa
Số người chọn phẩm chất quý nhất
công nhân
nông dân
số lượng tỷ lệ
số lượng tỉ lệ
619 55.26
236 47.4
552 49.28
313 62.9
543 48.48
232 46.5
536 47.85
167 33.5
10
tiết kiệm, giản di
đoàn kết, rộng lượng
lo việc chung
hay thương người, giúp người
khác
cởi mở, hoà nhã
dũng cảm
287
267
264
25.62
22.83
23.57
155
184
122
31.1
36.9
24.5
271
111
112
24.19
9.91
10
142
81
66
28.5
16.3
13.3
Ta thấy trong bảng trên giá trị lao động cần cù chiếm tỉ lệ cao nhất
62.58%
Trong lao động sản xuất, kinh doanh người người thi đua nhau làm ăn,
khơng ngại khó khăn nhằm tăng thêm thu nhập chính đáng, tích luỹ tiền
của, xây dựng cuộc sống ổn định. Ngay cả những cán bộ, công nhân viên
chức nhà nước, ngoài giờ làm việc ở cơ quan, họ tranh thủ làm kinh tế
phụ, mở thêm dịch vụ để tăng thu nhập cho gia đình, ngồi nguồn lương
chính.
Trong học tập hay lao động trí óc nói chung cũng có khơng ít người cần
cù nghiên cứu, làm việc tận tâm, học hành nghiêm túc, cầu tiến nhằm tích
luỹ kiến thức, đảm dương công việc trong thời đại mới. Nhìn vào trường
học, ở các thành phố lớn và các tỉnh đâu đâu ta cũng thấy tinh thần học tập
hăng say cần mẫn. Có sinh viên tranh thủ học hai hay ba trường đại học
cùng lúc. Không chỉ sinh viên, học sinh mà cả cán bộ, công nhân viên
cũng đều ý thức được việc học tập để nâng cao trình độ chun mơn của
mình. Họ nhận ra rằng trong q trình hội nhập tồn cầu hơm nay việc
nâng cao kiến thức là rất quan trọng.
Đất nước ta bước vào thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố bên cạnh
những mặt tích cực của việc kế thừa phát huy đức tính cần cù, nhân dân ta
cần phat huy tính năng động sáng tạo, chống lại lối sống xa hoa, lãng phí
đua địi, thực dụng.
Tóm lại, cần cù là một trong giá trị văn hoá truyền thống đáng quý của
dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành từ rất sớm, được kế thừa và phát
huy trong lối sống của bao thế hệ đi trước.Ngày nay,trong cơng cuộc đổi
mới kinh tế, đức tính cần cù phải được mỗi cá nhân kê thừa và phát huy
trong xây dựng lối sống của mình để góp phần đưa đất nước nhanh chóng
tiến theo kịp sự phát triển của nhân loại.
11
2.2.3.
TBCN
Kế thừa những yếu tố tiến bộ của nền kinh tế
Khi thực hiện những tư tưởng chiến lược của Đảng cộng sản Việt
Nam, tiếp thu những thành tựu mà loài người đã đạt được trong CNTB,
thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và
thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, chủ động
hội nhập với thế giới, đã nảy sinh các khuynh hướng sai lầm:
Thứ nhất, chỉ ca ngợi một chiều không nhận thấy những khuyết
tật,những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được của CNTB, từ đó
đi đến sùng bái CNTB, khơng thấy sự cần thiết phải phủ định nó với tư
cách một chế độ xã hội.
Thứ hai, chỉ nhìn nhận CNTB một cách đơn giản coi nó như là một
cái gì đó lỗi thời, xấu xa nhất hoặc bao gồm những cái: “không thể chấp
nhận được”. Do đó, khồng thể phát hiện ra những yếu tố tích cự, hợp lý
cần phải kế thừa của CNTB.
Cả hai khuynh hương sai lầm đó đều trái với nguyên lý phát triển,
trái với quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác. Để khắc phục
những sai lầm mắc phải, theo tôi cần nhận thức rõ hơn về các vấn đề sau
đây:
Phải khẳng định CNTB đã phát triển đến đỉnh cao và chính
nó đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cho sự ra đời
của CNXH.
CNTB cũng chứa đựng những yếu tố tiến bộ so với các nước
chưa phát triển, đặc biệt là các nước chưa qua giai đoạn
CNTB khi tiến lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam.
Vì vậy, việc kế thừa những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đạt được là
một tất yếu khách quan, là một biện pháp quan trọng để các nước đó có
thể rút ngắn con đường phát triển của mình.Đối với những nước đang phát
triển khi lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
phải bao gôm cả việc loại trừ cái xấu, kế thừa những yếu tố hợp lý, tiên bộ
.Tuy nhiên, hai nhiệm vụ đó khơng ngang nhau. Cốt yếu cơ bản của q
trình đó chính là sự kế thừa, phát huy những thành tựu mà loài người đạt
được trong chủ nghĩa tư bản để tạo dựng xã hội mới.Điều đó phù hợp với
những tư tưởng của V.I.LêNin,cho rằng: phủ định biện chứng không phải
là phủ định sạch trơn, không phải là sự phủ định không suy nghĩ, không
phải là sự do dự, hay nghi ngờ.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chế đôax hội chủ nghĩa,khoa học –
công nghệ là tài sản của tồn nhân chỉ khơng phải của riêng một nhóm
người nào. Dưới chủ nghĩa tư bản, khoa học chịu sự chi phối, thao túng
của các nhà tư sản, tài phiệt.Vì thế, nó trở thành những cơng cụ làm giàu
12
cho thiểu số người giàu,co quyền lửctong xã hội, đồng thời, trở thành
phương tiện áp bức, bóc lột nhân dân lao động một cách ngày càng tinh
vi,xảo quyệt hơn. Ngược laị, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, tiến bộ của
khoa học – cơng nghệ hướng về con ngưịi bởi vì mục đích cao cả và đầy
tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội – là giải phóng con người, phát triển
con người toàn diện. Hơn nữa, xu thế toàn cầu hoá cùng với sức mạnh
như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật có tác dụng rút ngắn
khoảng cách ngoại giao.
Mặt khác, chúng ta cũng không hề phủ nhận những thành công trong
quản lý của chủ nghĩa tư bản, kể từ hoạt động quản lý vĩ mô của nhà
nước đến hoạt động quản trị doanh nghiệp. Tơi chỉ xin đưa ra một số vận
dụng điển hình trong hoạt động quản lý kinh doanh có hiệu quả cao:
Trong điều kiện hiện nay, để tồn tại và cạnh tranh có hiệu quả trên thị
trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh
nghiệp nói chung và các doanh ghiệp Việt Nam noi riêng đêu cần coi
trọng hoạt động quản trị nhân lực,hoạt động nay có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Quản trị kinh
doanh,xét cho cùng, cũng là quản trj con người. Con người chính là yếu tố
quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp và là
nguồn lực quý giá nhất của doanh nghệp đó. Phát huy có hiệu quả nguồn
lực này là yếu tố dẫn đến thành công của mọi doanh nghiệp.
Thật vậy,yếu tố giúp ta nhận biết được một doanh nghiệp có hoạt động
tốt hay khơng tốt, thành cơng hay khơng thành cơng chính là nguồn nhân
lực của doanh nghiệp đó,những con người có lịng nhiệt tình và óc sáng
tạo. Mọi thứ cịn lại : may moc,thiết bị, của cải, vật chất, cơng nghệ,kĩ
thuật…đều có thể mua được, học hỏi được,sao chép được,nhưng con
người thì khơng thể .
Trong những năm qua, công tác quản trị nhân lực đã được cac doanh
nghiệp Việt Nam quan tâm hơn trước. Mặc dù con nhiều bỡ ngỡ nhưng họ
đã đạt được một số tiến bộ đáng khích lệ. Tuy vậy, để có thể xây dựng
được một chiến lược quản trị nguồn nhân lực tối ưu, phù hợp với điều
kiện thực tiễn của một doanh thì việc tham khảo các mơ hình quản trị
nhân lực của các tập đồn lớn, những mơ hình đẫ đi vào lịch sử được coi
là nghệ thuật quản trị nhân lực của thế giới, là một việc làm hết sức cần
thiết. Vẫn biết rằng, khơng có mơ hình nào là hồn hảo và có thể áp dụng
thành công ở tất csr mọi doanh nghiệp nhưngcác doanh ngiệp Việt Nam
hồn tồn có thể thu thập những ưu điểm từ những mơ hình quản trị nhân
lực ấy, để từ đó xác định cho mình một hướng đi thích hợp. Việc áp dụng
có chọn lọc,có cải tiến một số phương pháp sao cho phù hợp nhất với tình
13
hình của doanh nghiệp mình có thể được xem là cách thức hữu hiệu nhất
khi các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu tiếp cận với nền kinh tế thị
trường.
Trong bài viêt này, tôi muôn giới thiệu kinh nghiệm của một mơ hình
quản trị nhân lực thành cơng,là mơ hình quản trị của tập đoàn nổi tiếng
General electrics trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
General electrics (GE) là một tập đoàn lớn của Hoa Kỳ. Trong năm liên
tiếp từ 1996 – 2001, GE luôn là công ty đứng đầu danh sách “ những cơng
ty được ngưỡng mộ nhất” do tạp chí Fortune bình chọn,đồng thời cũng
đứng đầu danh sách nay của tạp chí Financial Times trong 4 năm liên tiếp.
Có được thành tích đó có phần đóng góp khơng nhỏ của cơng tác quản trị
nhân sự vốn đã trở thành nghệ thuật của cơng ty này.
Nói đến nghệ thuật quản trị nhân sự của GE, không thể không nhắc đến
cựu Tổng giám đốc điều hành Jack Welch, người được coi là một trong
những CEO tai ba nhất thế giới. Trong hơn hai thập kỷ nắm giữ vai trò
CEO của GE, Welch đã làm tăng giá trị thị trường của GE từ 13tỷ USD
lên gần 500 tỷ,ơng cũng là người có cơng xây dựng những phương pháp
quản trị nhân lực mới và đã áp dụng rất thành cơng tại GE – một tập đồn
khổng lồ với hơn 300,000 ngàn nhân viên ở nhiều nước trên thế giới.
Nghệ thuật quản trị nhân sự của Jack Welch bắt đầu từ sự nhận biết
điểm khác biệt giữa các nhân viên . Theo ông, đây là điểm cơ bản trong
nghệ thuật quản trị nhân sự. Với việc nhận biết điểm khác biệt trong hoạt
độngu của các thành viên, cơng ty có thể khen thỏng nhưnngx người
giỏi, sa thải những người làm việc khơng có hiệu quả. chính điều này đã
giúp GE phát hiện những tài năngvà những tài năng này đã góp phần xây
dụng nênmột GE vĩ đại.
Welch đã dần biến GE thành một “ công ty của con người” theo cách
gọi của ông.Welch luôn mong muốn đưa con người trở thành trung tâm
của GE,ông coi đay là nguồn lực quý giá cua công ty. Việc đanh giá các
nhân viên của GE dược tiến hành hết sức nghiêm túc.
Ngồi ra, GE cũng là một cơng ty khơng ngừng khuyến khích các ý
tưởng mới từ phía nhân viên. Đối với một tập đoàn lớn, đa dạng như
GE ,ý tưởng mới là yếu tố đảm bảo sự thành công.Một châm ngôn của GE
là: “ mỗi người một ý kiến” .GE ln tạo cơ hội cho nhân viên được nói
lên tiếng nói của mình, lắng nghe,tơn trọng những ý kiến đó và sẵn sàng
biến bất kì những ý tưởng, giấc mơ nào có tính khả thi thành hiện thực.
14
GE cũng xây dựng trong tập đồn mình một mơi trường học tập không
biên giới. GGE tận dụng lợi thế về quy mô và sự phân tán trong các ngành
kinh doanh khác nhau như một nguồn không giới hạn cơ hội học tập, một
kho kiến thức ý tưởng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu mà khó một cơng ty
nào khác có thể có được.Trung tâm của mơi trường này là sự nhận thức
rõ ràng rằng, công ty luôn mong muốn học hỏi không ngừng và sẵn sàng
đưa ra các ý tưởng đó vào thực tiễn một cách mau chóng. Đây chính là lợi
thế cạnh tranh rất lớn của GE.GE ln khuyến khích mọi nguời nghĩ rằng,
ở đâu đó đang có một người có những ý tưởng hay hơn và họ phải tìm cho
ra người đó và đưa chúngvào thực hiện. Một cơng ty tồn cầu, kinh doanh
đa dạng tất nhiên có thể có nhiều kinh nghiệm cũng như ý tưởng; nhưng
những kinh nghiệm ,ý tưởng này chỉ có thể chuyển thành lợi thế cạnh
tranh quan trọng của công ty đó ln khao khát có được ý tưởng ,có trách
nhiệm chia sẻ chúng và nhanh chóng đua chúng vào thực hiện.
Có thể nói, quản trị nhân lực ln là một cơng việc hết scs khó khăn và
phức tạp của mọi nhà quản trị, bởi lẽ nó gắn vơi những con người cụ
thể ,với những hoành cảnh cụ thể, nguyện vọng,sở thích,năng lực và cảm
xúc riêng biệt. Muốn lơi cuốn, đọng viên và khai thác khả năng của những
con người nay,nhà quản lý phải tìm hiểu thế giới nội tâm của họ, phải
nhạy cảm và tế nhị trong giao tiếp, phải biết cách lắng nghe,biết đánh giá
con người một cách chính xác,khách quan và phải biết đối xử thật cơng
bằng.
Mơ hình quản trị của GE cho thấy, con người chính là nguồn lực quý
giá nhất của doanh nghiệp nói riêng, của đất nước nói chung.Vì vậy,
muốn xây dựng đát nước, đổi mới kinh tế trước hết cần quan tâm xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ,hội tụ đầy đủ những yếu tố cần
thiết như đã nêu trong Đại hội của ban chấp hành trung ương Đảng lần 5.
Trong vài năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam bước đầu đã quan
tâm đén hoạt động quản trị nhân lực. Tuy nhiên, để xây dựng được một
chiến lược quản trị nhân lực thì trước hết, các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải tiến hành cải cách chế độ tiền lương.Rất nhiều doang nghiệp, đặc biệt
là các doanh nghiệp nhà nước vẫn tănglương cho nhân viên của mình sau
một thời gian nhất định, theo một bảng lương quy định sẵn. Điều này, xét
ở một khía cạnh nào đó, khơng khác mấy so với “ mức tăng tiêu chuẩn”
của GE trong thập niên 60 mà Jack Welch đã phê phán. Chế độ tăng
lương như vậy đã phần nào làm giảm động cơ phấn đấu của nhân viên, vì
họ biết rằng sau một thời gian nhất định họ sẽ được tăng lươngnếu chỉ cần
đảm bảo thực hiện công việc theo đúng yêu cầu, cho dù có làm việc tốt
hơn thì họ cũng khơng thể có mức lương cao hơn trong bảng lương đã quy
15
định sẵn.Như vậy, vấn đề đặt ra là, các doanh ngiệp phải đưa tiền lương
thực sự trở thành động cơ làm việc của nhân viên. Muốn làm được điều
đó, tiênf lương nên được gắn liền với năng lực, với kết quả công việchơn
là thâm niên công tác hay quyền lực. Hệ thống tiền lương, tiền thưởngnên
được trình bày một cách rõ ràng, minh bạch, bảo đảm tất cả các nhân viên
có thể hiểu và nắm được những tiêu chuẩn để họ có thể phấn đấu đạt được
mức lương, mức thưởng đó.
Thứ hai là, các doang nghiệp cần khuyến khích phát huy tinh thần sáng
tạo của đội ngũ nhân viên, có chế đọ khen thưởng nhanh chóng, kịp thời,
điều này góp phần tạo dựng đựơc một môi truờng không ngừng phấn đấu
vươn lên trong công việc.Các doanh nghiệp cũng cần cung cấp cho nhân
viên mình những cơ hội học tập và rèn luyện để nâng cao hơn nữa kỹ
năng và kinh ngiệm của mình. Hiện nay, cơng tác đào tạo và đào tạo lại ở
các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Đa số
các doanh nghiệp,việc đào tạo nhân viên mới chỉ được tiên hành đối với
đội ngũ nhân viên mới, còn việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên
hiện có vẫn chưa được chú trọng. Trong các doanh ngiệp, các nhân viên
có tay nghề cao tuy vẫn chưa có ý thức truyền nghề cho những nhân viên
tay nghề thấp, song điều này vẫn chủ yếu mang tính tự phát, chưa được tổ
chức một cách có quy củ và hiệu quả. Việc nâng cao tay nghề của nhân
viên vẫn hầu hết là tự đào tạo. Trong điều kện của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ như hiện nay, việc coi nhẹ công tác đào tạo có thể khiến
các doanh nghiệp Việt Nam trở nên tụt hậu, khó có thể cạnh tranh một
cách có hiệu quả trên thị trường.
Thứ ba là, các doanh nghiệp cần chú ý đến cơng tác đào tạo cán bộ
quản trị. Có một thực tế ở các doanh nghiệp Việt Nam là, một số nhân
viên trong các bộ phận, đặc biệt là bộ phận sản xuất, sau một thời gian
công tác tốt được đề bạt làm quản lý, nhân viên này thường khơng có
những kiến thức về quản trị, nhưng lại khơng được qua một lớp bồi dưỡng
cán bộ quản lý nào. Và đương nhiên, sau một thời gian công tác, họ có thể
tự bổ túc kiến thức, tích luỹ thêm kinh nghiệm cho mình, nhưng điều này
cần nhiều thời gian và nhiêu khi không hiệu quả. Sẽ là tốt hơn, nếu các
doanh ngiệp quan tâm đào tạo những nhân viên này về mặt quản lý, điều
nay sẽ giúp họ nhanh chóng làm quen với các cơng việc mới cũng như
nhanh chóng xây dựng được nhưng phương pháp quản trị phù hợp với bộ
phận của mình. Nội dung đào tạo cũng nên được xây dựng phong phú,
không chỉ bao gồm những nội dung liên quan đến kỹ năng, rèn luyện tay
nghề, mà nên có cả những nội dung liên quan đến việc tạo dựng các mối
quan hệ, làm việc theo nnhóm sao cho có hiệu quả nhất…
16
Làm tốt cơng tác đào tạo cũng góp phần xây dựng một môi trường học
tập không ngừng trong doanh ngiệp, khuyến khích nhân viên liên tụcphấn
đấu vì lợi ích của doanh ngiệp và của chính bản thân họ.
Thứ tư là, các nhà quản trị cũng phải lưu ý rằng, mỗi con người là một
sự khác biệt. Nhận biết sự khác biệt đó để khai thác và phát triển có hiệu
quả là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của nhà quản trị. Tuy nhiên, làm thế
nào để nhận biêts được sự khác biệt ấy lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
như môi trường kinh doanh, đặc điểm doanh nghiệp, đặc điẻm và mối
quan hệ của nhân viên… và đặc biệt là tài năng của nhà quản trị. Nhà
quản trị phải như một nhạc rưởng biết phối hợp hoạt động của đội ngũ
nhân viên một cách hài hoà nhằm đem lại hiệu quả tối ưu.
Vấn đề đặt ra cho các doanh ngiệp Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt như hện naylà, phải thay đổi được quan niệm của mình về nguồn
nhân lực, xem đây thực sự là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp của
doanh ngiệp. Con người Việt Nam vốn chăm chỉ, cần cù sáng tạo. Bất kỳ
doanh nghiệp Việt Nam nào biết khai thác tốt những yếu tố này của con
người Việt Nam thì đều có cơ hội thành công rất cao không chỉ trên thị
trường nội địa, mà cả trên thị trường quốc tế. Điều quan trọng là, các
doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng được cho mình một chiến lược dài
hạn để có thể tìm ra những giải pháp phát triển nguồn nhân lực phf hợp
nhất với doanh nghiệp của mình. Có được một cái nhìn tồn diện sẽ giúp
các doanh nghiệp Việt Nam khơng chỉ riêng trong các hoạt động quản trị
nhân sự, mà trong tất cả các hoạt động khác của doanh nghiệp, giúp đảm
bảo sự thành công cho doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Không chỉ trong hoạt động của các doanh nghiệp, biết cách quản trị
nhân lực, biết phát huy nguồn lực con người sẽ giúp chúng ta vững vàng
tiến lên trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố và thành công
trong công cuộc đổi mới kinh tế hiện nay.
KẾT LUẬN
Thành tựu lý luận về nền kinh tế thị trường ở nước ta được kết tinh trong
văn kiện các Đại hội Đảng. Đó cũng là sự phản ánh thành tựu chung của
giới lý luận nước ta trong đổi mới kinh tế – vận dụng sáng tạo tính kế thừa
của phủ định biện chứng trong xây dựng các đường lối, chính sách kinh tế
– xã hội.
17
Tuy vậy, nhớ lại những năm đầu sau đổi mới, ngay trong giới lý luận
nước ta còn tranh luận về những vấn đề của kinh tế thị trường. Có thể nói,
chúng ta đã đặt chân vào nền kinh tế thị truờng, nhưng hiểu biết về nó và
hành động theo nó còn rất sơ khai, nhận thức còn chưa thống nhất. Chỉ
sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của chúng ta về nền
kinh tế thị trường mới rõ dần. Không thể học tập qua sách vở hoặc thơng
qua khảo sát kinh nghiệm của nước ngồi có thể đưa lại cho chúng ta nhận
thức đầy đủ và sâu sắc về nền kinh tế thị trường, chừng nào chúng ta cịn
chưa bắt tay vào tổ chức cơng tác thực tiễn về nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Lịch sử kinh tế, NXB Thống kê, Hà Nội – 2004.
2. Giáo trình: Triết học Mac – Lênin, NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội –
- 2003.
3. Trần Văn Giàu, “ giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
NXB Tp. Hồ Chí Minh,1993.
4.
Tạp chí cộng sản, số 16, năm 2004.
18
5.
Tạp chí cộng sản, số21, năm 2004.
6.
Tạp chí cộng sản, số24, năm 2004.
7.
Tạp chí cộng sản, số4, năm 2005.
8.
Tạp chí cộng sản, số6, năm 2005.
9.
Tạp chí khoa học – xã hội, số 2, năm2001.
10.
Tạp chí khoa học – xã hội, số 5, năm2001.
11.
Tạp chí khoa học – xã hội, số 4, năm2003.
12.
Tạp chí khoa học – xã hội, số 5, năm2004.
13.
Tạp chí khoa học – xã hội, số 3, năm2005.
14.
Tạp chí triết học, số11, năm 2004.
15.
Tạp chí triết học, số12, năm 2004.
16.
Tạp chí triết học, số3, năm 2005.
MỤC LỤC
STT
Nội dung
Mở đầu.
1.
Trang
...............................................................................................1
Phủ định biện chứng và tính kế thừa.
19
1.1. Phủ định biện chứng.......................................................3
1.2. Tính kế thừa của phủ định biện chứng............................3
2.
Vận dụng và phát huy tính kế thừa của phủ định
biện chứng trong đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Công cuộc đổi mới kinh tế ở việt Nam..........................4
2.1.1.Bối cảnh lịch sử............................................................4
2.1.2. Yêu cầu của đổi mới kinh tế........................................5
2.2.. Tính kế thừa của phủ định biện chứng với công cuộc đổi
mới kinh tế ở việt nam
2.2.1. Kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lí của cơ
chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung...................................................5
2.2.2.Kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức, văn hoá
truyền thống trong phát triển kinh tế mới......................7
2.2.3. Kế thừa những yếu tố tiến bộ của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa..................................................................................11
Kết luận
.............................................................................................17
Tài liệu tham khảo...................................................................................18
20