Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Noi dung de an chính sách kinh tế mới của leenin và thực tiễn áp dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.63 KB, 50 trang )

A : PHẦN MỞ ĐẦU

Trong những năm trở lại đây nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thay
đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Là một đất nước nhỏ, điểm xuất phát
về kinh tế thấp lại chịu hậu quả của chiến tranh, muốn khắc phục yếu kém,
đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân và để có
được cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn không còn con đường nào
khác là phải xác định cho được một cơ chế kinh tế hợp lý tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn
lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo cho nhịp độ tăng
trưởng nhanh và ổn định,giải quyết các vấn đề cơ bản về kinh tế xã hội bức
bách, mỗi quốc gia phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại và ứng dụng rộng rãi các phương thức sản xuất tiên tiến.
Trong lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, chính
sách kinh tế kinh tế mới (NEP) của Lê-nin xuất hiện vào những năm đầu tiên,
ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó, mỗi khi quá trình cách
mạng gặp khó khăn, hay khi một nước giành được chính quyền, bước vào
chặng đường đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì những người
cách mạng lại nhớ tới chính sách kinh tế mới của Lê-nin.
Suốt nhiều thập kỷ qua, cũng là thời gian các nước chủ nghĩa xã hội tiếp cận
NEP của Lê-nin ở các trình độ phát triển khác nhau trong nững hoàn cảnh
khác nhau.Từ thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nảy sinh nhu cầu nhận
thức sâu sắc NEP của Lê-nin không những như là một chiến lược tình thế mà
còn là chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ thực hiện NEP ở Liên Xô xa cách chúng ta về mặt thời gian,
nhưng nhiều vấn đề kinh tế -xã hội mà NEP đã giải quyết thành công lúc bấy
giờ lại rất gần gũi với những vấn đề hiện chúng ta đang tập chung sự suy

1



nghĩ giải quyết ở nước ta.Cố nhiên trong điều kiện lịch sử cụ thể của Liên Xô
lúc đó, cũng như tình hình quốc tế thời kỳ đó không giống với điều kiện nước
ta và hoàn cảnh hiện đại thời nay. Tính đến sự khác nhau ấy trong việc vận
dụng NEP vào nước ta là rất quan trọng và cần thiết.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ,
chính sách kinh tế mới của Lê-nin là mẫu mực về một giải pháp tình thế, và
còn là một đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng cơ sở lý
luận về con đường gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực hiện
chính sách kinh tế mới ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ
ích cho đất nước chúng ta trong bối cảch hiện nay.(1)
Đất nước đang trong công cuộc xây dựng và đổi mới từng
ngày theo nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưỏng cơ bản trong chính
sách kinh tế mới của Lê -nin về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước; thi hành chính sách chế độ hợp tác xã, cho phép tự
do buôn bán tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên
cơ sở điều tiết của nhà nước vẫn có giá trị và có ý nghĩa lớn
lao trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Để nghiên cứu các vấn đề trên nên em chọn đề tài là: "Chính sách kinh tế
mới của Lê - nin và vận dụng nó vào Việt Nam ". Em hi vọng rằng sau bài
viết này em sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về chính sách kinh tế mới (NEP) và quá
trình vận dụng nó vào Việt Nam, sau này huy vọng đóng góp một phần sức
lực nhỏ bé của mình vào sự phát triển của đất nước.

2


B: PHẦN NỘI DUNG

1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VỚI CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến
thiết trong hoà bình. Do đó, chính sách "Kinh tế cộng sản thời chiến" đã làm
xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép nó đi xa hơn
nữa, vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế cộng sản
thời chiến (thể hiện rõ ở cuộc bạo loạn Cron-Xtat gần Lêningát); khối liên
minh công nông có nguy cơ tan vỡ. Cho nên phải cần thiết phải trở lại thực
hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918, phải trở
lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa
thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó, đại hội X của Đảng cộng sản
Bôn sêvich Nga (họp từ 8 đến 16-3-1921) đã chủ trương thay chính sách
"Kinh tế cộng sản thời chiến" bằng chính sách "Kinh tế mới" - NEP (2)
1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT CHÍNH SÁCH
MỚI.
Trong qúa trình chiến đấu và chiến thắng của nhà nước Xô -viết suốt
bảy thập kỷ qua, mùa xuân năm 1921 đã đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử chủ
nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và Nhà nước Xôviết trẻ tuổi ban hành chính sách "Kinh tế mới".
Cuối năm 1920 tình hình kinh tế bị chi phối bởi một mạng lưới dày đặc các
quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại
trong nông thôn (dân số nông thôn chiếm 82,4% dân số, kinh tế nông nghiệp

3


chiếm 51,4% thu nhập quốc dân) đặc điểm này được Lê-nin rất chú ýphân
tích khi Người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết cuộc khủng hoảng và
chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông
dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết
định đến bảo vệ những thành quả của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã

hội.
Trước đây, chính quyền Xô -viết đứng vững được trong nội chiến và sự can
thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hy sinh của nhân dân, trước hết là giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân. Nhiệt tình cách mạng của quần chúng là
động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng.
Sau chiến tranh, giai cấp nông dân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước,
đời sống của họ lại đang thiếu thốn, khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình
cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại nếu làm
mất lòng tin của họ thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ được
lòng tin lúc này có nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kỳ xây dựng. Xuất
phát từ sự phân tích đó, Lê- nin đã chỉ ra rằng: Phải bắt đầu từ nông dân và
nông nghiệp, phải cải thiện đời sống của người lao động trên cơ sở xây dựng
quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp và công nghiệp, củng cố liên
minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ
vào việc xây dựng đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có một chính sách
như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa. Tư tưởng của Lê-nin đã đóng vai trò quyết định trong việc đưa lý luận
mác-xít về thời kỳ quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý
luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời
kỳ đó.
Sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần không không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất
mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lừa dối quần
chúng, tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô-viết non trẻ

4


Những sai lầm chủ quan của người cộng sản cũng là một thực
tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quết mâu thuẫn khách

quan. Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng "chính
sách cộng sản thời chiến " đã hình thành về quan niệm khả
năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương
chính sách sai lầm bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn
chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đã làm cho thành phần
kinh tế chủ nghĩa xã hội sa sút. Lực lượng sản xuất hiện có
không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo
dần. Nhiều chủ trương biện pháp quá đáng ra đời từ quan
niệm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng.
2

BIẾN CHUYỂN VỀ KINH TẾ VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA
NEP

2.1 SỰ THAY ĐỔI VỀ KINH TẾ TRƯỚC VÀ SAU KHI BAN HÀNH
NEP
Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp quá đáng (trước
khi thực hiện ), do không đếm xỉa đến đặc điểm và điều kiện lịch sử - cụ thể
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, do sự chi phối quan niệm chuyển
trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội nên tình trạng khủng hoảng ngày càng trở nên
nghiêm trọng, sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ
cung cấp của nhà nước theo tăng nhanh hơn trong khi mức lương cung cấp
ngày càng ít, thấp hơn nhiều so với mức sống cần thiết. Các chỉ tiêu thu mua
trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng
tăng, càng phải in và phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền ngày càng
giảm. Số lượng của giai cấp công nhân đã giảm hơn 1/2, trong đó một bộ
phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với chính

5



sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính
trị nặng nề: Liên minh trong giai cấp công nông đứng trước nguy cơ tan rã,
chuyên chính vô sản không được củng cố, vaỉ trò lãnh đạo của Đảng yếu
đi.Tình trạng an ninh chính trị an toàn xã hội ngày càng xấu.
Trái ngược với tình trạng trên đây, tình hình kinh tế và chính trị được cải thiện
nhanh chóng sau khi ban hành NEP vào tháng 3-1921. Ngay sau đó, vụ thuế
lương thực đầu tiên đạt 96%(mặc dù tỷ suất thuế đã hạ thấp và năm 1921 là
năm bị hạn hán ghê gớm và nạn đói kinh khủng). Thắng lợi đầu tiên ấy chứng
tỏ NEP là còn đuờng đi đúng đắn. Còn sau đó, giữa năm 1922 đến năm 1925,
nông nghiệp phát triển mạnh, trong đó sản xuất lương thực từ 56,3 triệu tấn
tăng lên 74,7 triệu tấn. Nông thôn hoạt động sôi nổi. Nông nghiệp được khôi
phục và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thương nghiệp. Đời
sống nhân dân lao động được ổn định trở lại sau một năm thi hành chính sách
kinh tế mới. Lê-nin nói:"Nông dân ấy làm hài lòng với tình hình của họ hiện
nay. Chúng tôi có thể mạnh dạn khẳng định như thế ". Sau khi thi hành NEP,
nước Nga Xô -viết không chỉ khắc phục được hậu quả của chiến tranh và nạn
đói, mà sản xuất còn vượt mức trước chiến tranh .
Tính chất đúng đắn của NEP đã được lịch sử chứng minh. Ngày nay, muốn
vận dụng NEP có kết quả cần phải đi sâu vào nội dung cơ bản của NEP.
2.2 NỘI DUNG CƠ BẢN, CHỦ YẾU CỦA NEP.
Theo quan điểm của Lê- nin, khủng hoảng là một quá trình tích tụ và làm
gay gắt thêm những mâu thuẫn trên tất cả những lĩnh vực quan trọng của đời
sống xã hội. Sự phân tích sâu sắc của Lê nin và chiến lược giải quyết một
cách thắng lợi cuộc khủng hoảng năm 1921 chính là ở chỗ vạch ra và làm
sáng tỏ mối quan hệ qua lại các lĩnh vực quan trọng nhất: Chính trị - xã hộikinh tế . Vì vậy tiếp cận nội dung của NEP trước hết phải theo quan điểm hệ
thống , cho phép nhìn rõ được tất cả những mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau.

6



Tách riêng từng nội dung, vấn đề trong hệ thống các biện pháp đó thì không
nhận thức đầy đủ thậm chí hiểu sai NEP.
Trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng, thì nhân tố đầu tiên là chính
sách chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của nguời lao động trước hết là nông
dân trong điều kiện họ đã mệt mỏi do chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn đói,thiếu
công việc làm và thiếu điều kiện bình thường về trật tự an toàn xã hội.
Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy cuộc khủng hoảng,
được Lê-Nin chỉ ra là "những quá lạm quan liêu của bộ máy
chúng ta", xuất hiên sự thoái hoá trong bộ máy nhà nước.
Hiện tượng một bộ phận cán bộ, nhân viên, kể cả một số người
lãnh đạo xa rời quần chúng, thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng
càng phát triển thì càng gây thêm mất lòng tin và bất mãn
trong quần chúng.
Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng Lê-nin đã chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu cuộc khủng hoảng là nguyên nhân bên trong - những sai
lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết là chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế.Vì vậy,
những nội dung chủ yếu của NEP về thực chất không phải là một số biện pháp
hay tổng thể một số biên pháp, mà là một cơ chế kinh tế. Mục tiêu trước mắt
và cấp bách mà cơ chế kinh tế trong NEP thể hiện là ổn định và cải thiện đời
sống những người lao động(kể cả biện pháp cấp bách xuất 10 triệu rúp vàng
để nhập lương thực và hàng tiêu dùng) và các biện pháp nhằm bảo vệ và củng
cố chính quyền Xô - viết được coi là mục tiêu hàng đầu.
Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn liên
hoàn, có mối liên hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu
nào.Tất cả các khâu tạo thành cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó
khăn, điều hành sự vận động kinh tế - xã hội.
2.2.1 THUẾ LƯƠNG THỰC.


7


Có thể coi đây là khâu đầu, là bước quá độ từ trạng thái hỗn
loạn sang cơ chế kinh tế mới.
Vì trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là
nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phải phụ thuộc vào nông
nghiệp. Khó khăn rất lớn mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói
nam 1921càng làm tăng khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trục tiếp của thuế
lương thực là một trong những "biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết
nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của
họ". Thực hiện thuế luơng thực, xoá bỏ chế độ trung thu lưong thực thừa có
nghĩa là chuyển từ biện pháp thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương
thực có vai trò của buớc quá độ đó.
Nhà nước vô sản trước hết lại cải thiện đời sống của người nông dân chứ
không phải là của công nhân. Vì muốn cải thiện đời sống của công nhân thì
phải có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc
dân của chúng ta mà nói thì hiện nay, "trở ngại" lớn nhất là ở đó, thế mà
chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dụ trữ
và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đòi sống của nông dân, bằng cách
nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ nông dân. Người nào
không hiểu điều đó , người nào có ý coi vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế
là một sự "từ bỏ" chuyên chính vô sản hoặc tương tự như vậy, thì " chẳng qua
chỉ là người đó không chịu suy nghĩ kỹ càn g về vấn đề đó và bị lời nói trống
rỗng chi phối … Người vô sản nào hoặc người đại diện nào của giai cấp vô
sản muốn cải thiện đời sốn của công dân bằng những con đưòng khác thì thực
tế chỉ là những kẻ trợ lực cho kẻ bách vệ và bọn tư bản mà thôi.Vì đi theo một
con đường khác có nghĩa là đặt lợi ích phường hội của công nhân lên trên lợi
ích giai cấp của họ".
Để cải thiện đời sống nông dân thì mức thuế lương thực phải thấp và tác dụng

kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải
thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã được

8


giảm thấp hơn mức trưng thu gần 1/2, thủ tục thu thuế được đơn giản hoá từ
tháng 5 năm 1923 thực hiện thống nhất thuế hình thức hỗn hợp bằng tiền tệ
hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924, hình thức
tiền tệ là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt với các bộ phận của nông dân : đối
với bần nông thì thu thuế bằng 1,2 % thu nhập , trung nông thu 3,5% thu
nhập, còn phú nông thu 5,6% .Như vậy nhà nước làm thế nào để đủ số luơng
thực cần thiết.
Do mức thuế thấp nên năm 1921 nhà nước thu được 240 triệu pút so với 423
triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất,
mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản
khác tăng lên . Nhà nuớc qua con đường trao đổi có được khối lượng lương
thực nhiều hơn. Ngoài ra, do mức thuế ổn định, người nông dân nào cũng biết
đuợc số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt qua mức đó. Nhà nước thu
thuế rõ ràng, thuận lợi .
Thuế lương thực là đòn mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến
tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục
kinh tế, bởi vì :" thuế luơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông
dân. Bấy giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, và đó chính là
điều chủ yếu .
2.2.2

KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

TRONG NÔNG NGHIỆP THÔNG QUA TRAO ĐỔI SẢN PHẨM

GIỮA NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền
nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào
nền nông nghiệp hàng hoá. Trong thời kỳ áp dụng " chính sách cộng sản thời
chiến " xu hướng hiện vật hoá nền nông nghiệp được duy trì và tăng lên, xu
hưóng kinh tế hàng hoá bị kìm hãm. ý nghĩa và tác dụng cần có thuế lương

9


thực không phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông
sản thừa tăng lên ở mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng
kích thích. Do đó " thuế lưong thực là một bước quá độ từ chế độ cộng sản
thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường về sản phẩm "
Như vậy quan điểm cơ bản của Lê-nin "bắt đầu từ nông dân " đuợc cụ thể hoá
trong hai chính sách liên hệ, gắn bó không thể tách rời nhau là: thuế lương
thực và trao đổi hàng hoá.
Chính sách thuế lương thực của Lê -nin còn bao hàm ý tưởng chuyển
sang kinh doanh lương thực, được coi như đòn bẩy quan trọng cho sự phát
triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo hướng đó,
nhà nước đã đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kỹ thuật cho nông dân.
Nhờ có quán triệt đầy đủ quan điểm Lê- nin trong chính sách lương thực, nên
đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt đến truóc chiến tranh
(1913), trong khi các nước tư bản chủ nghĩa tham gia chiến tranh thế giới lần
thứ nhất phải trải qua 10 năm, kể từ hiệp ước Véc - xây, mới khôi phục xong
sản xuất nông nghiệp.
Phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm
giữa nông nghiệp và công nghiệp trong cơ chế NEP đã cho thấy được thực
tiễn là lấy hàng công nghiệp ở đâu và xu hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng Lênin đã cho thấy sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là một
sự phát triển không tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, khi cần

khôi phục kinh tế nông nghiệp, công nghiệp. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự
phát triển đó là có hại cho cách mạng."Chính sách ấy là một sự dại dột và tự
sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế,
chính sách ấy là không thể nào thực hiện được: tự sát vì những đảng nào định
thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản. Nhưng không đựợc
coi thường buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng
tư bản chủ nghĩa, nhất là đấu tranh chống nạn đầu cơ. Muốn vậy phải sử dụng
hình thức kinh tế "chủ nghĩa tư bản nhà nước ", Lê nin nói : " chủ nghĩa tư

10


bản nhà nước không đáng sợ, mà đáng mong đợi . Học tập chủ nghĩa tư bản
nhà nước "
Vì lợi ích chủ nghĩa xã hội phải phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước và tự do
buôn bán để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và chống
tệ nạn quan liêu. Nhưng tất cả đều ở mức độ và với những điều kiện nhất
định. Mức độ đó ở đâu thì thực tiễn và kinh nghiệm sẽ chúng tỏ, còn điều kiện
thì là hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự củng cố khu vục nhà nước
có hiệu quả.
2.2.3

KHÔI PHỤC VÀ TỔ CHỨC LẠI NỀN SẢN XUẤT CÔNG

NGHIỆP PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ
NÔNG DÂN.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng
công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Nhưng trong lúc này,
sản xuất công nghiệp đang sa sút vì thiếu lương thực và nguyên liệu.Vì vậy
phải xem xét một cách thiết thực yêu cầu và khả năng khôi phục công

nghiệp .
Theo tư tưởng của Lê- Nin, khôi phục sản xuất công nghiệp có hai yêu cầu
quan trọng: một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông
nghiệp. Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán và thiếu việc
làm, củng cố kỷ luật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để
phát huy được vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân.
Do vậy cần tìm tòi những khả năng thực tế ; một là phải sắp xếp lại, lựa chọn
những nghành công nghiệp phục vụ trực tiếp nông nghiệp, đặc biệt chú ý đến
phát triển tiểu thủ công nghiệp là thứ công nghiệp không đòi hỏi đầu tư lớn,
dễ tìm nguyên liệu. Hai là nhà nước phải để dành một số vốn đầu tư nhất
định.

11


Trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, khôi phục sản xuất sản xuất công
nghiệp trên cơ sở trang bị kỹ thuật cũ là một tất yếu về hai phương diện kinh
tế và xã hội. Bởi vì nhà nước có rất ít vốn để đầu tư cho công nghiệp và thu
hút được cán bộ, công nhân trở về xí nghiệp cũ, tạo thêm công việc làm, nhờ
đó củng cố kỷ luật lao động, tập hợp lại gia cấp công nhân, nhanh chóng ổn
định sản xuất. Không những thế phạm vi phạm vi khôi phục sản xuất nông
nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Đến cuối năm
1922, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc hữu hoá
trước kia, số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô
nhượng. Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy, nên đã đẩy nhanh việc khôi phục
các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng
suất lao động. Kết quả là trong thời gian 1921-1924, tổng sản phẩm công
nghiệp quốc doanh đã tăng hơn 2 lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền
kinh tế. Do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà
nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp. Đây không phải

là sự tập trung hoá tạo ra tạo ra xí nghiệp lớn mới , mà là sự tập trung trên cơ
sở đã đảm bảo được nguyên liệu, dự trữ vật chất và tài chính. Đó là những xí
nghiệp trong kế hoạch nhà nước được cung ứng toàn bộ hay một phần các
điều kiện sản xuất. Tập trung sản xuất như vậy cho phép tạo ra sản phẩm
thặng dư, dù chỉ là một bộ phận công nghiệp và tạo điều kiện cho hoạch toán
kinh tế.
Theo quyết định ngày 12 - 8 - 1921 của hội đồng lao động quốc phòng, các xí
nghiệp lớn được trang bị kỹ thuật tốt, được đảm bảo nguyên liệu,vật tư, lực
lượng lao động thì liên hợp lại thành các tơ- rớt nhằm tạo ra tích luỹ cho nhà
nước. Các tơ - rớt được quyền vạch kế hoạch phân phối các phương tiện, sắp
xếp lại cán bộ, tổ chức các dịch vụ thưong nghiệp giữa các tơ- rớt trên thị
trường tự do.
Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng tích
luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền công nghiệp được khôi phục theo

12


bước đi như sau: Trước hết là khôi phục công nghệp nhẹ và công nghiệp thực
phẩm, là những nghành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản
phẩm.Tiếp đó là khôi phục công nghiệp than.
Các nghành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần
lớn đuợc nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Công nghiệp dầu
khí được khôi phục và cải tạo cơ bản, cùng với các cơ sở năng lưọng khác.
Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp. Trong những
năm đầu thục hiện NEP, nhà nước Xô - viết đã sử dụng có kết quả cơ cấu
nhiều thành phần trong công nghiệp. Quan hệ tỷ lệ giữa công nghiệp quốc
doanh và công nghiệp tư nhân đã diễn ra sự thay đổi. Một mặt kinh tế tư nhân
trong công nghiệp được khôi phục, một phần là do nhà nước trả lại xí nghiệp
cho chủ cũ, một phần các tư nhân thuê xí nghhiệp cuả nhà nuóc để kinh

doanh. Các nhà nước tư nhân tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp nhẹ có quy
mô trung bình khoảng 50 công nhân và chiếm 1/3 tổng sản phẩm khu vực đó.
Nhiều xí nghiệp còn sử dụng kỹ thuật thủ công như xay bột, công nghiệp bơ,
công nghiệp bia. Trong công nghiệp nặng chỉ có một xí nghiệp tư nhân về
luyện kim đen. Trong NEP còn có hình thức hợp đồng tô nhượng. Nhưng hình
thức này không phát triển mấy.
Mặt khác nhà nuớc sử dụng cơ cấu công nghiệp nhiều thành
phần có kết quả là vì công nghiệp quốc doanh được khôi phục
và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Vì vậy, tuy
công nghiệp tư nhân tiếp tục phát triển và tăng khối luọng sản
phẩm cho đến năm 1926, nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng
sản phẩm công nghiệp không ngừng giảm xuống. Bằng sức
mạnh kinh tế là chủ yếu, công nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày
càng làm cho khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc vào mình. Đó
là cơ sở bảo đảm cho nhà nuớc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần có kết quả.

13


Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
là những hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhưọng trong
công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thúc tư
nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nuớc cho tư
nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng, khu đất … Thực chất của các hình
thức đó là"những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước
chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ".
Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hoạch toán
kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện thực hiện NEP,
công nghiệp không thể tiếp tục sống dựa vào ngân sách nhà nước, không thể

quản lý tập trung bằng mệnh lệnh như trước. Phương pháp quản lý bằng chỉ
thị thẳng được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phưong pháp hành chính với
phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm
mấy nội dung chủ yếu sau:
Quá độ sang hạch toán kinh tế ở xí nghiệp.
Theo chỉ thị Hội đồng dân uỷ, từ tháng 8- 1921 chuyển công nghiệp sang
hạch toán kinh tế. Đơn vị hoạch toán đầu tiên trong công nghiệp Xô - viết là
tơ - rớt. Các xí nghiệp hoạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng,
quyền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Từ tháng 9- 1921 bắt đầu
chuyển từ chế độ bình quân bằng hiện vật của thời kỳ "cộng sản thời chiến "
sang chế độ tiềng lương dựa vào số lượngvà chất lượng lao động của mỗi
người, thực hiện chế độ trả lương khoán. Ngoài ra, còn thực hiện sự thay đổi
chế độ tiền thưởng. Sắc lệnh của hội đồng dân uỷ ngày 7- 4-1921" về tặng
thuởng bằng hiện vật cho công nhân" đã tiến hành làm tăng luỹ tiền trả bằng
hiện vật cho lao động có năng suất cao. Thực hiện quyền tự chủ về sản xuất
và tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả, mà vấn đề then chốt của chính
sách này là quan hệ tỷ giá hàng công nghiệp và nông sản. Cuộc khủng hoảng
tiền tệ xảy ra vào mùa thu năm 1923 đã lộ ra tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng giữa các nghành công nghiệp với các ngành kinh tế quốc dân, nhất là

14


nông nghiệp. Quan hệ tỷ giá giữa hàng công nghiệp với hàng nông sản bị xấu
đi do việc hạ thấp giá thu mua các nông sản quan trọng nhất và do các tơ -rớt
công nghiệp nâng giá bán ra. Trong tình hình lúc ấy, nhân tố quan trọng nhất
để chiếm lĩnh thị trường nông thôn là chính sách điều tiết giá cả tích cực.
Chính sách điều tiết giá cả theo hai hướng. Một là, các xí nghiệp thưong
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã giảm giá bán hàng cho nông thôn (do đó kéo
theo sự giảm giá của kinh tế tư nhân),đồng thời nhà nước giảm giá mua đáng

kể những nông sản quan trọng nhất. Hai là, thực hiện nhiều biện pháp để giảm
giá bán hàng công nghiệp. Cuộc đấu tranh để giảm giá bán ra của công nghiệp
gắn chặt khăng khít với nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động, bàng các cuộc
vận động củng cố kỷ luật lao động, tiết kiệm nguyên liệu vật tư, chống lại
cách làm ăn phi kinh tế. Kết quả là nhịp độ tăng năng suất lao động bắt đầu
vuợt quá mức tăng tiền lương. Đó là một trong những nhân tố chủ yếu để phát
triển hơn nữa các cơ sở hoạch toán kinh tế.
Trong quá trình phấn đấu để thiết lập quan hệ kinh tế và tỷ giá hợp lý giữa hai
nghành là những biện pháp bảo đảm cho kinh tế hai ngành tác động lẫn nhau,
bổ sung cho nhau trong sự phát triển, chứ không phải kìm hãm nhau. Tuỳ theo
khâu yếu trong sự phát triển cân đối giữa nông nghiệp với công nghiệp mà
xác định biện pháp chủ yếu từng thời gian. Nhờ các biện pháp tác động qua
lại giữa hai nghành nên đã củng cố quan hệ kinh tế giữa công nghiệp quốc
doanh với nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá.
Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp.
Chế độ quản lý tập trung quá đáng ở cấp trung ương (thông qua các tổng cục)
gây mâu thuẫn với hoạch toán kinh tế ở cơ sở. Khi các xí nghiệp quá độ sang
hoạch toán kinh tế sử dụng ngày càng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ,
sớm nhất là các nghành công nghiệp nhẹ, thì vấn đề đổi mới cơ chế vĩ mô đặt
ra gay gắt. Cuộc thảo luận toàn diện về nguyên nhân của "khủng hoảng tiêu
thụ " do các cơ quan kinh tế trung ương tiến hành, dưới sự lãnh đạo của trung
ương Đảng, đã đi đến kết luận :" cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang phải

15


chịu đựng nêu bật sự cần thiết phải tăng cường công tác phối hợp các ngành
kinh tế quốc dân độc lập, tăng cường cơ sở kế hoạch trong công tác của các
cơ quan kinh tế nhà nước.Trong một mức độ rất lớn so với trước đây, Đảng
phải học tập phối hợp các yếu tố kinh tế quốc doanh trong sự tác động qua lại

giữa chúng với nhau, cũng như với thị trường".Trong quá trình thực hiện
NEP, nhiều hình thức phong phú đã được phát hiện và vận dụng. Sự thay đổi
trong các hình thức quản lý gắn liền với sự thay đổi trong nền kinh tế nhiều
thành phần, với sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội . Chính là
khuynh hướng hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng các nguyên tắc quản
lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân
chủ. Do đó, việc cải tiến quản lý công nghiệp đòi hỏi xoá bỏ hình thức quản
lý tất cả xí nghiệp theo nghành sản xuất. Còn quản lý xí nghiệp kiểu tờ - rớt
thì liên kết lại thành nhóm các xí nghiệp cùng loại theo lãnh thổ. Đổi mới cơ
chế quản lý vĩ mô, về thực chất là tăng cường công tác phối hợp (phân công
và hợp tác)giữa các nghành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt
hiệu quả kinh tế tối ưu. Do đó vai trò của công tác kế hoạch hoá trong điều
kiện nền kinh tế nhiều thành phần được củng cố, chứ không phải là xoá bỏ.
Lê- nin đã chỉ rõ :" Chính sách kinh tế mới không làm thay đổi kế hoạch kinh
tế thống nhất của nhà nước và không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó,
nhưng thay đổi biện pháp thực hiện kế hoạch đó".
Dân chủ hóa quản lý kinh tế.
Một trong những đặc trưng cơ bản là cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý
thời kỳ NEP là sự tham gia của quần chúng vào hoạt động quản lý. Hình
thành tư tưởng dân chủ hóa quản lý kinh tế là kết quả của sụ thay đổi tận gốc
quan niệm về những vấn đề cơ bản của sự phát triển xã hội và kinh tế. Trong
đó, bao gồm sự phê phán quan điểm chuyển trực tiếp sang phương pháp sản
xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông, phương pháp
thuần tuý dùng pháp lệnh của bên trên dội xuống hòng cải biến kinh tế xã hội
bao gồm sự khẳng định nguyên tắc kết hợp nhiệt tình cách mạng với quan tâm

16


đến lợi ích vật chất, nguyên tắc kích thích về kinh tế, hướng người lao đọng vì

lợi ích vật chất mà quan tâm đến kết quả lao động của mình, nguyên tắc phân
phối thu nhập dựa vào khối lượng và chất lượng lao động trong quá trình thiết
lập các quan hệ kinh tế và xã hội mới…Tất cả đều được thể hiện rõ ở các mặt.
Tổ chức hội nghị sản xuất với sự tham gia của đại diện công đoàn và chính
quyền để giải quyết các vấn đề cụ thể về cải tiến sản xuất và quản lý.
Thực hiện chế độ phân phối theo lao động, xoá bỏ dần tình trạng bình quân
hoá trong thu nhập, đi đôi với củng cố kỷ luật lao động, phát triển phong trào
thi đua…
Hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo - quản lý.
Lê - nin đòi hỏi " phải tổ chức rộng rãi, có kế hoạch, thường xuyên và công
khai việc lựa chọn những cán bộ khá nhất cho công cuộc xây dựng kinh tế,
những cán bộ hành chính và cán bộ tổ chức, trên quy mô chung và chuyên
môn, địa phương và toàn quốc". Trong việc lựa chọn cán bộ quản lý các cấp.
Lê - nin quan tâm đặc biệt đến những người có tài, trung thục và không phân
biệt là đảng viên hay ngoài đảng viênvà đặ vấn đề" duy trì sự kiểm soát và sự
lãnh đạo của những người cộng sản. Mặt khác những người ngoài đảng cũng
kiểm soát các đảng viên".
Thực hiện nguyên tắc và sự kiểm soát công nhân trong quá trình cỉa tạo xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế.
Quan điểm dân chủ hoá trong quản lý kinh tế xuất phát từ tư tưởng " cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng" được vận dụng vào lĩnh vực kinh tế. Lênin cho rằng : " Và lần này muốn giành được thắng lợi thì phải dựa vào cái
nguồn lực lượng cuối cùng. Nguồn lực lượng cuối cùng đó là quần chúng
công nông, là trình độ giác ngộ và tổ chức của họ".
2.2.4

TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG THEO QUAN

ĐIỂM NEP.

17



Vào mùa thu năm 1921, trong báo cáo tại Đại hội II các cơ quan giáo dục
chính trị toàn Nga, tại Hội nghị Đảng bộ tỉnh Mát - xcơ- va lần thứ VII, trong
bài báo "Về tác dụng của vàng…", Lê-nin đã nêu lên những chứ năng mới của
nhà nước vô sản trong lĩnh vực kinh tế như :
Điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền giấy.
Tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn và bán lẻ.
ổn định các quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế nhà nước.
Sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ giữa thành thị và nông thôn.
Phát triển các quan hệ tín dụng.
Người vạch rõ nhiệm vụ của bộ máy quản lý kinh tế :" chúng ta phải học tập
những quan hệ điều tiết buôn bán trên phạm vi cả nước, đó là một nhiệm vụ
khó khăn, nhung quyết không phải là không thể làm được".
Theo tư tưởng đó, Hội nghị Đảng laanf thứ XI tháng 12 năm 1921 đã nêu ra
phương hướng quản lý lĩnh vực lưu thông là" Căn cứ vào thị trường hiện có
và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trường và bằng những
biện pháp kinh tế thường xuyên, có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm
kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường và
lưu thông tiền tệ".
Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển
nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang trạng thái quỹ đạo tái sản xuất bình
thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó nội
thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây chuyền quản
lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Lê - nin đã chỉ cho toàn Đảng thấy
rằng :" Thương nghiệp đó là cái "mắt xích " trong cái dây xích những sự biến
lịch sử, trong những hình thức của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của
chúng ta vào những năm 1921-1922, đó là "mắt xích" mà chúng ta , chính
quyền của nhà nước vô sản, mà chúng ta, đảng cộng sản đang nắm quyền lãnh
đạo,- "chúng ta phải đem toàn lực ra nắm lấy".Nếu ngày nay chúng ta "nắm"

được khá chặt mắt xích đó, thì chắc chắn là trong một ngày rất gần đây, chúng

18


ta sẽ làm chủ được toàn bộ cái dây xích. Bằng không, chúng ta sẽ không làm
chủ được toàn bộ cái dây xích, chúng ta sẽ không đặt được nền móng những
mối quan hệ kinh tế và xã hội trong xã hội chủ nghĩa".
Mục đích cao nhất của NEP ở bước ngoặt cách mạng là thiết lập liên minh
kinh tế giữa hai gia cấp là công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp
lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có
giữa hàng triệu tiểu nông với giai cấp vô sản,là điều kiện để cho công nghiệp
và nông nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động
thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và
lưu thông.
Trong thời gian đầu, vì thương nghiệp xã hội chủ yếu thiếu vốn, thiếu dự trữ
hàng hoá, nhất là bộ máy kinh doanh kém nên bị thương nghiệp tư nhân lấn
áp. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa lấy lại
vị trí của mình, nhờ củng cố nghành này theo quan điểm NEP. Một trong
những vấn đề quan trọng nhất của NEP là phải chiếm các vị trí chỉ huy trong
thương nghiệp khi triển khai quá trình lưu chuyển hàng hoá đồng thời hướng
quá trình lưu thông đó đi thẳng tới nhu cầu của nông thôn và thành thị.
Để nắm chắc các vị trí chỉ huy thương hiệp và làm chủ thị trường, nhà nước
chú ý đặc biệt đến củng cố mối liên hệ chặt chẽ đến công nghiệp quốc doanh
với thương nghiệp quốc doanh, giữa tiểu thủ công nghiệp với thương nghiệp
quốc doanh và thương nghiệp tập thể, để nắm vững quỹ hàng hoá công nghiệp
dùng làm phương tiện điều tiết thị trường.
Để hướng tới quá trình lưu thông hàng hoá đi thẳng tới nhu cầu, nhà nước đã
sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu thương nghiệp đảm
bảo phát huy vai trò của thương nghiệp nhà nước.

Trong lĩnh vực thương nghiệp bán lẻ, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ngay
buổi đầu thực hiện NEP, tư bản thương nghiệp đã chiếm ưu thế. Trên thị
trường bán lẻ đã diễn ra cuộc đấu tranh căng thẳng. Nhà nước sử dụng một hệ
thống thương nghiệp bán lẻ gồm thương nghiệp quốc doanh, hệ thống hợp tác

19


xã tiêu thụ rộng khắp, hình thức hội chợ và sử dụng tư thương làm đại lý cho
nhà nước, để đấu tranh bằng cạnh tranh với tư bản thương nghiệp như thu hút
phần lớn hàng hoá vào tay, bán ra với giá thấp hơn. Trong quá trình đó, hệ
thống hợp tác xã tiêu thụ đã đóng vai trò quan trọng trên thị trường bán lẻ.
Hình thức kinh doanh của hợp tác xã tiêu thụ, cùng với hình thức hội chợ đã
góp phần quan trọng vào cuộc khôi phục và thiết lập mối quan hệ kinh tế giữa
các địa phương riêng biệt, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển.
Trong suốt quá trình khôi phục kinh tế, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày
càng thể hiện đầy đủ vai trò của chiếc cầu nối nông nghiệp với công nghiệp.
Để đem toàn lực ra nắm mắt xích này nhà nước không những chăm lo thường
xuyên củng cố nghành thương nghiệp, mà còn huy động sự giúp sức có hiệu
quả của cơ quan ngân hàng, tài chính cho thương nghiệp, bằng cách tạo điều
kiện thuận lợi cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa kinh doanh và thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản thương nghiệp (như nộp thuế cao,
giảm tín dụng của tư thương ..v..v..).
Trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá theo tinh thần NEP, nhà nước Xô
- viết đã nắm vững tính quy luật liên kết giữa thương nghiệp với tài chính và
ngân hàng như một chỉnh thể. Lô- gic của sự vật khách quan là,việc đẩy mạnh
chu chuyển nội thương làm cho nhu cầu tiền mặt tăng lên là việc có lợi cho
việc củng cố đồng rúp. Sự phát triển của thương nghiệp đã kích thích mọi lực
lượng sản xuất phát triển, tạo ra nguồn thu cho ngân sách. Theo Lê- nin, việc
xây dựng nền tài chính quốc gia, thiết lập cân đối ngân sách phụ thuộc nhiều

vào việc giải quyết nhiệm vụ thương nghiệp và tính ổn định của đồng rúp.
Khi thành lập Ngân hàng nhà nước(4-10-1921). Lê - nin đã hướng cơ quan tín
dụng đó gắn liền với hoạt động sản xuất, trước hết là thương nghiệp. Trong
điều kiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, có khả năng thuận lợi liên kết ngân

20


hàng với thương nghiệp. Lê- nin đòi hỏi Ngân hàng nhà nước xã hội chủ
nghĩa phải gắn chặt với thuơng nghiệp nhiều hơn gấp 100 lần các ngân hàng
tư bản, để thúc đẩy toàn bộ lưu thông hàng hoá.
Tổ chức quá trình lưu thông, khi nền kinh tế chuyển sang quỹ đạo NEP ngoài
thương nghiệp ra, giao thông vận tải là khâu quan trọng . Khi tổng sản lượng
tăng kên nhanh chóng thì khối lượng vận chuyển tăng lên nhiều và đa dạng.
Nên do vậy Nhà nước đầu tư khôi phục lại giao thông vận tải và chủ trương
cải thiện lại tài chính của nghành này bằng cách chuyển sang hạch toán kinh
tế.

21


2.2.5

CHẤN CHỈNH, CỦNG CỐ NỀN TÀI CHÍNH XÔ - VIẾT

VÀ ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ
Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện kinh tế thuận lợi
cho việc giả quyết các vấn đề tài chính, tiền tệ. Các xí nghiệp đi vào hoạch
toán kinh tế không đòi hỏi kinh phí từ ngân sách nhà nước, đồng thời lại nộp
lại một phần lợi nhuận vào ngân sách. Hoạt động ngoại thương được phục

hồi, bắt đầu bổ xung dự trữ vàng cho nhà nước Xô - viết. Nhưng các hoạt
động sản xuất và lưu thông càng mở rộng, kinh tế hàng hóa phục hồi và phát
triển thì càng đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tài chính, tiền tệ một cách cấp
bách.
Bước vào khôi phục kinh tế ngân sách trong tình trạng lạm phát nặng nề, ngân
sách bội chi ngày càng lớn, đồng rúp mất giá. Nhà nước đứng trước hai vấn
đề cực kỳ khó khăn : chấn chỉnh công tác tài chính và ổn định đồng tiền. Hai
vấn đề liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau trong quá trình
cải cách lĩnh vực quan trọng này.
2.2.5.1 CHẤN CHỈNH, CỦNG CỐ NỀN TÀI CHÍNH.
Quan điểm tài chính dựa trên nền kinh tế hàng hoá của Lê - nin là nhất quán.
Ngay trong thời kỳ thực hiện " chính sách cộng sản thời chiến ", khi có nhiều
ý kiến cho rằng không cần dùng đến tiền tệ, đến hình thức hàng tiền, thì Lênin đã chỉ ra rằng trong thời đại chuyên chính vô sản và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, tài chính nhà nước phải trực tiếp dụa trên cơ sở lưu thông của
một bộ phận thu nhập nhất định của các độc quyền nhà nước. Sự cân đối thu
chi chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở tổ chức việc thực hiện trao đổi hàng
hoá đúng đắn.

22


Đó là quan điểm tài chính trong cơ chế NEP. Quan điểm đó hoàn toàn phù
hợp với quy luật tái sản xuất và các quy luật khác của kinh tế hàng hoá, được
thục hiện trong điều kiện chuyên chính vô sản.
Quan điểm tài chính trong cơ chế NEP là sự vận dụng các quan điểm tài chính
xã hội chủ nghĩa mà Lê-nin đã chỉ ra từ năm 1918. Lê - nin đã nêu ra những
quan điểm về nguyên tắc cơ bản của tài chính xã hội chủ nghĩa như sau.
Vai trò của chính sách tài chính có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc
cải tạo và xây dựng trong thời kỳ quá độ." Bất kể thế nào, chúng ta cũng phải
thực hiện bằng được những cải cách vững chắc về mặt tài chính, nhưng ta nên

nhớ rằng nếu chính tài chính của chúng ta không thu được thắng lợi thì mọi
cải cách triệt để của chúng ta cũng sẽ thất bại". "Phải có một chính sách tài
chính thống nhất được quy định thật rõ ràng, và các quy tắc phải đuợc chấp
hành từ trên xuống dưới".
Chính sách tài chính quốc gia thống nhất dựa trên quan điểm tập trung tài
chính, tập trung lực lượng của quốc gia cho cuộc cải cách vì lợi ích của người
lao động. Ngay trong điều kiện kinh tế kém phát triển Lê-nin đã xác định rõ
bản chất của chế độ tập trung tài chính, " tôi coi chế độ tập trung tài chính là
một đảm bảo tối thiểu nhất địnhcho quần chúng lao động ". Muốn tập trung
tài chính phải khắc phục xu hướng không muốn tập trung.
Đến khi thực hiện NEP, Lê-nin còn chỉ ra những nguyên tắc về tài chính, tín
dụng khác. Đó là :
Nguyên tắc tách tài chính của các tờ - rớt, các xí nghiệp ra khỏi tài chính nhà
nước. Đó là đòi hỏi của hạch toán kinh tế và kinh doanh theo nguyên tắc xí
nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về mặt tài chính đối với kết quả hoạt động
kinh tế của mình. Đây là cơ sở để đi tới nguyên tắc tự hoàn vốn và tự chủ tài
chính.
Nguyên tắc cân đối ngân sách phụ thuộc vào việc giải quyết thành công
nhiệm vụ thương nghiệp và tính ổn định của đồng tiền. Công tác tài chính gắn
với công tác ngân hàng và thương nghiệp.

23


Nguyên tắc về sự kiểm tra của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động tài
chính của xí nghiệp.
Bên cạnh các nguyên tắc đó thì chính quyền Xô- viết còn thi hành các biện
pháp để giảm chi. Giảm biên chế nhà nước, thi hành quy định về các khoản
chi tiêu ở mức tối thiểu và cắt giảm nhưng khâu chi tiêu không cần thiết,
không cấp ngân sách cho các xí nghiệp ..v..v…

Từ khi thực hiện chính sách kinh tế mới việc lập ngân sách quốc gia và cuộc
đấu tranh để thực hiện chủ trương đó trở thành hình thức quan trọng nhất của
công tác kế hoạch. Để tăng thu, đã thực hiện các biện pháp chủ yếu sau đây:
Các cơ sở kinh tế nhà nước chuyển sang hạch toán kinh tế, phải trích nộp lợi
nhuận và khấu hao cho ngân sách.
Xây dựng lại hệ thống theo quan điểm NEP, nhằm điều tiết thu nhập các tầng
lớp dân cư, trong đó có những thuế chủ yếu như.
Thuế công thương nghiệp, dựa vào doanh thu của xí nghiệp.
Thuế thu nhập, áp dụng cho các xí nghiệp quốc doang và hợp tác xã dựa
vào thu nhập thuần tuý. Bên cạnh đó còn thuế hàng hoá.
Thuế tài sản nhằm đánh vào các hộ tư sản mua sắm tài sản cất giữ hoặc
kinh doanh tài sản(đến năm 1921 bỏ thuế này).
Thuế nông nghiệp thay mọi thứ thuế nông nghiệp khác trước đây như thuế
lương thực, thuế vận tải và các khảon đóng góp khác của dân.
Nhà nước thi hành chế độ trả tiền đối với tất cả các loại hình dịch vụ (vận
tải, thông tin, kinh tế công cộng… )
Phát hành công trái và tín phiếu như công trái lúa mì, công trái đường, công
trái bàng tiền và công trái đặc biệt..
Ngoài ra, sự phục hồi của ngoại thương càng bỏ xung được một số dự trữ
vàng cho nhà nước.
Các chính sách tài chính mới theo quan điểm NEP đã giành được nhiều thắng
lợi quan trọng bên cạnh đó đã củng cố đuợc kỷ luật tài chính trong tất cả các

24


khâu của bộ máy. Đồng thời củng cố ngân sách địa phương theo quan điểm
NEP, góp phần giảm thâm hụt ngân sách cải thiện cân đối thu chi quốc gia.

2.2.5.2


ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ.

Đại hội lần thứ IV Quốc tế Cộng sản ngày 15-10 -1922, Lê-nin đã nhấn mạnh
rằng :"Điều thật sự quan trọng, chính là việc củng cố đồng rúp. Hiện nay
chúng tôi, những lực lượng yêu tú của chúng tôi đang giải quyết vấn đề ấy, và
chúng tôi coi nhiệm vụ ấy là có tầm quan trọng quyết định. Nếu chúng tôi ổn
định được đồng rúp trong một thời gian dài, và sau đó, ổn định nó một cách
vĩnh viễn thì chúng tôi sẽ thắng cuộc…Lúc đó, chúng tôi có thể đặt nền kinh
tế của chúng tôi trên một cơ sở vững chắc,và tiếp tục phát triển nền kinh tế lên
trên một cơ sở vững chắc.
Như vậy, trong hệ thống các biện pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng, từ
thuế lương thực đến trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, thì
việc ổn định đồng tiền trở thành khâu cuối cùng, có tác dụng quyết định củng
cố toàn bộ hệ thống, chuyển hẳn nền kinh tế quốc dân sang quy đạo mới và
bước vào một giai đoạn phát triển ổn định vững chắc.
Việc ổn định tiền tệ lúc này có ý nghĩa là phải tiến hành có kết quả cuộc sống
lạm phát đã vô cùng nghiêm trọng,"đồng rúp của Nga nổi tiếng, có lẽ chỉ là,
vì hiện nay con số đồng rúp đã vượt quá con số nghìn triệu… thật là con số
thiên văn học ". Lê-nin đã nhận định về đồng rúp như vậy. Cơ chế NEP đứng
trước một thử thách có lẽ là khó nhất nhưng cần phải vượt qua.
Như vậy, theo Lê-nin, nhân tố bảo đảm thắng lợi của công cuộc cải cách tiền
tệ là ở chỗ hiểu được những điều kiện để ổn định đồng tiền. Bài học kinh
nghiệm của việc chống lạm phát, ổn định tiền tệ trong cơ chế NEP là những

25


×