Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lớp 2 giúp học sinh tích cực luyện nói

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.46 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
------------

Mã SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MéT Sè BIÖN PH¸P CHØ ®¹O GI¸O VIªN líp 2
gióp häc sinh tÝch cùc luyÖn nãi

Lĩnh vực: Quản lý
Cấp học: Tiểu học

NĂM HỌC: 2015 - 2016

0/24


ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Lê nin đã từng nói: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của loài người”. Chúng ta ai cũng biết chức năng giao tiếp là chức năng quan
trọng nhất, chức năng trung tâm của ngôn ngữ. Mục tiêu dạy học Tiếng Việt
chính là hình thành và phát triển cho học sinh một công cụ giao tiếp từ đó phát
triển năng lực giao tiếp cho các em. Nó là sự tổng hòa các kiến thức, kĩ năng,
thái độ, là năng lực tích hợp sự hiểu biết và khả năng thực hành của học sinh thể
hiện trong giải quyết một nhiệm vụ nói chung hay một nhiệm vụ giao tiếp nói
riêng. Năng lực giao tiếp là năng lực biết khi nào nên nói, khi nào không, nói
điều gì, nói với ai, nói ở đâu, nói theo cách nào...
Tiếng Việt là công cụ tư duy và giao tiếp của người Việt. Việc giao tiếp
bằng Tiếng Việt được thực hiện thông qua hai dạng ngôn ngữ: lời nói và chữ


viết. Để có thể bày tỏ ý nghĩ, tình cảm của mình, người ta phải nói hoặc viết
được tiếng Việt trong cả 2 dạng ngôn ngữ : lời nói và chữ viết. Dạy sử dụng
tiếng Việt là dạy cách dùng tiếng Việt trong cả 2 dạng ngôn ngữ đó dạy cả bốn
kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết.
Trong thực tế, nhiều giáo viên chỉ chú trọng rèn cho học sinh hai kỹ năng
đọc và viết. Tuy nhiên xét về mặt phát triển tâm lí của học sinh tiểu học, ngôn ngữ
nói của các em chưa phải đã đạt đến mức hoàn thiện. Đặc biệt đối với học sinh
lớp 2, từ phát âm đến vốn từ, từ việc giao tiếp trong gia đình mở rộng ra đến giao
tiếp ở nhà trường và xã hội cũng nhiều hạn chế. Nhiều kỹ năng các em còn phải
học, phải được rèn luyện thường xuyên, đặc biệt là kĩ năng nói.
Để giúp giáo viên chủ động hơn trong các hoạt động dạy học ở trường
hướng tới việc rèn kĩ năng nói cho học sinh tôi xin đưa ra "Một số biện pháp
chỉ đạo giáo viên lớp 2 giúp học sinh tích cực luyện nói".
II. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng rèn kĩ năng nói của giáo viên lớp 2 cho học sinh để
từ đó đề ra biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học theo hướng
phát huy năng lực của học sinh.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Giáo viên và học sinh trường tiểu học …………… quận ………………..
IV. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu :
- Địa điểm nghiên cứu: Trường tiểu học ….., quận………………..
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016.
1/24


V. Phương pháp nghiên cứu :
- Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến dạy Tiếng Việt.
- Nghiên cứu SGK và SGV để tìm hiểu nội dung phương pháp dạy các
phân môn của môn Tiếng Việt và trên cơ sở đó đưa ra một số hình thức dạy học
phù hợp.

- Phương pháp quan sát: thông qua dự giờ
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp đàm thoại.
+ Trao đổi với giáo viên về khó khăn, thuận lợi khi dạy tập làm văn
+ Trao đổi với học sinh về những vướng mắc của các em trong khi học tập
làm văn nói chung.

2/24


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
* Cơ sở Triết học Mác - Lê nin là cơ sở phương pháp luận của phương
pháp dạy học Tiếng Việt, nó quyết định phương hướng chung của phương pháp
dạy học Tiếng Việt.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có
ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. Nếu ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, trao
đổi tư tưởng, tình cảm thì nghiên cứu nó phải nghiên cứu hệ thống hoạt động
chức năng. Mục đích nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường phải là để cho học
sinh có thể sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp, vì vậy phát
triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng trong nhà
trường. Tất cả các giờ dạy hay các hoạt động tổ chức trong trường học đều phải
đi theo khuynh hướng này.
Ngôn ngữ luôn gắn bó chặt chẽ với tư duy, ngôn ngữ là phương tiện của
nhận thức lôgic, lí tính. Tư duy của con người không thể phát triển nếu thiếu
ngôn ngữ. Vì vậy phương pháp dạy học cần dựa vào sự phát triển tương hỗ giữa
lời nói và tư duy.
* Cơ sở ngôn ngữ học :
Ngôn ngữ học nói chung, Tiếng Việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ Tiếng Việt tạo nên nền tảng của

môn học Tiếng Việt. Phương pháp dạy học Tiếng Việt phải phát hiện được
những quy luật riêng, đặc thù của dạy học tiếng Việt. Chính khoa học ngôn ngữ
quy định đặc thù này. Những hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ, của Tiếng Việt
có vai trò quan trọng trong việc định ra các nguyên tắc, nội dung và phương
pháp dạy học Tiếng Việt. Các bộ phận của ngôn ngữ học (bao gồm ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp, phong cách) có vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung
và phương pháp dạy học.
Tóm lại, ngôn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng quy định cả nội
dung dạy học, trình tự sắp xếp nội dung môn học và cả phương pháp làm việc
của thầy và trò trong giờ tiếng Việt
* Cơ sở giáo dục học :
Phương pháp dạy học Tiếng Việt có một số nguyên tắc cơ bản của lí luận
dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học, nguyên tắc vừa sức,
nguyên tắc khoa học ... Phương pháp dạy học Tiếng Việt có đặc trưng riêng của
mình. Nó gắn liền lí thuyết với thực hành. Trong đó nhiệm vụ phát triển lời nó
3/24


quy định việc xây dựng chương trình tiếng Việt mà tất cả các phân môn đều
hướng tới mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện
nguyên tắc trực quan trong giờ tiếng Việt không chỉ là sử dụng sơ đồ, biểu bảng,
dùng chữ viết sẵn, phim ảnh mà còn là "trực quan lời nói", bao gồm từ việc quan
sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa vào nội dung bài trong khi nghiên cứu về
ngữ âm, từ vựng, chính tả, .... Tài liệu trực quan cơ bản trong giờ học tiếng Việt
là tiếng Việt văn hoá, tiếng Việt trong những mẫu tốt nhất của nó như: văn học
dân gian, tác phẩm văn học Việt Nam cổ điển, những bài văn, bài thơ của những
tác giả hiện đại, ưu tú...
* Cơ sở tâm lí học và tâm lí ngữ học
Quan hệ của phương pháp dạy học tiếng Việt và tâm lí học, đặc biệt là
tâm lí học lứa tuổi rất chặt chẽ . Không có những hiểu biết về quá trình tâm lí ở

con người nói chung và ở trẻ em lứa tuổi tiểu học nói riêng thì không thể giảng
dạy tốt và phát triển lời nói cho học sinh. Phương pháp dạy học tiếng Việt vận
dụng rất nhiều kết quả của tâm lí học. Đó là quy luật hình thành kĩ năng, kỹ xảo.
Thầy giáo cần biết, sản phẩm của lời nói được hình thành như thế nào, quá trình
đọc được thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp được hình thành ở
trẻ ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy, kĩ năng nói viết được
hình thành như thế nào .... Những nghiên cứu tâm lí học cho phép xác định mức
độ vừa sức của tài liệu học tập .
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thuận lợi:
- Nội dung dạy học của SGK Tiếng Việt Tiểu học thể hiện quan điểm dạy
giao tiếp, theo hướng tích hợp nội dung và kĩ năng. Chương trình dạy học môn
Tiếng Việt lớp 2 đã có nhiều phân môn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh.
Trong các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn đã xuất hiện
nhiều dạng bài như tập gọi điện thoại, nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lời khẳng
định, phủ định, chia vui, nói lời chúc mừng, .....Các dạng bài tập này tạo ra
nhiều cơ hội cho học sinh luyện nói và rèn kĩ năng ngôn ngữ.
- Chương trình Tiếng Việt ở các lớp sau có sự lặp lại và nâng cao các kĩ
năng giao tiếp thể hiện tính hệ thống trong nội dung học tập, giúp học sinh nâng
cao kĩ năng nói của bản thân qua từng năm học.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, động viên giáo viên dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực cho học sinh, tạo môi trường học tập thân
thiện, hướng tới phát triển năng lực ở các em. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và
chú ý phát triển chất lượng đội ngũ.
4/24


- Nhiều giáo viên tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, ham học hỏi.
2. Khó khăn:
a. Về phía giáo viên:

- Một số giáo viên chưa chủ động trong việc xác định trọng tâm của giờ
học cũng như những kĩ năng còn yếu của học sinh đặc biệt là kĩ năng nói.
- Nhiều giáo viên chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói hiệu
quả hoặc việc kiểm soát kết quả luyện nói của học sinh chưa được triệt để nên
hoạt động luyện nói còn mang tính hình thức.
- Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp. Đối với
một số môn học chỉ chú trọng đến kĩ năng làm toán, đọc, viết, … Trong giờ học chưa
chú trọng đến rèn kĩ năng nói cho học sinh. Chính vì vậy số lượng học sinh tham
gia nói không được nhiều mà chỉ tập trung ở một vài em.
- Một số giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi
trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh
gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay
nói trả lời. Giáo viên không quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn
ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vô tình giáo viên
làm cho những học sinh rụt rè ngày càng nhút nhát hơn.
b. Về phía học sinh và phụ huynh:
- Nhiều em còn hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao
tiếp. Kĩ năng nói của các em còn kém so với đọc, viết. Các em chưa ý thức được
vai trò, mục tiêu của phát triển kĩ năng nói nên chưa chủ động, thiếu tự giác
trong luyện tập.
- Nhiều em chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực, khi trả lời thường không
đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời “có” hoặc “không” ,
còn ỷ lại nói theo bạn, chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời cho mình.
- Do học sinh lớp 2 còn nhỏ, nhiều em hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau
quên nên việc ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa vững chắc. Số học sinh trong các lớp
đông nên việc tổ chức các hình thức luyện nói còn gặp nhiều khó khăn.
- Một số phụ huynh chưa dành nhiều thời gian ngồi học, trò chuyện hoặc
dành thời gian cho các con đi chơi, thăm hỏi họ hàng, bạn bè tạo điều kiện để
các em giao tiếp với mọi người.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Chỉ đạo giáo viên nắm bắt thực tế khả năng nói của học sinh:
Ngay từ đầu năm nhận lớp, giáo viên cần trao đổi với giáo viên lớp dưới
và nghiên cứu kĩ sổ theo dõi chất lượng giáo dục năm trước để nắm bắt đặc điểm
5/24


từng học sinh. Trong thời gian đầu, giáo viên cần quan sát kĩ học sinh thông qua
lời phát biểu trong giờ học, qua lời nói của các em với mọi người xung quanh
mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên cũng cần tạo cho mình thói quen ghi chép những
điều quan sát được, tổng hợp để dễ dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng
học sinh trong lớp. Giáo viên có thể phân loại khả năng nói của học sinh theo
các nhóm sau:
- Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, rõ ràng, mạch lạc, biết thể hiện cảm
xúc trong giao tiếp.
- Nhóm học sinh nói tương đối lưu loát, rõ ràng nhưng chưa biết thể hiện
cảm xúc trong giao tiếp.
- Nhóm học sinh còn rụt rè, ngại giao tiếp, không thể hiện được biểu cảm
trong giao tiếp.
Nắm bắt được khả năng nói của học sinh giai đoạn đầu năm học là điều
vô cùng quan trọng, quyết định cho việc lựa chọn những biện pháp, hình thức
phù hợp trong quá trình rèn luyện học sinh.
2. Chỉ đạo giáo viên chú trọng rèn kĩ năng nói qua các phân môn của
môn Tiếng Việt
Học sinh lớp 2 được học các môn: Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên
và Xã hội, Thể dục, Nghệ thuật. Trong đó môn học giúp học sinh có nhiều cơ
hội rèn kĩ năng nói nhất là môn Tiếng Việt. Môn học này cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự
nhiên, con người và văn hóa Việt từ đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và quan trọng hơn cả là
hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,

đọc, viết) để học tập và giao tiếp.
Môn Tiếng Việt lớp 2 có rất nhiều phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính
tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn đều có mục tiêu rèn
kĩ năng đặc trưng riêng. Vì vậy trong quá trình lên lớp giáo viên cần nghiên cứu
kĩ từng phân môn, từng dạng bài hay từng bài dạy cụ thể để xác định mục tiêu
luyện nói cần đạt cho học sinh phù hợp.
2.1. Luyện phát âm cho học sinh qua các tiết tập đọc
Một trong những yêu cầu quan trọng của nói chuẩn là phải “tròn vành, rõ
tiếng”. Một người cho dù nội dung nói hay đến đâu mà nói ngọng cũng khiến
người nghe cảm thấy khó chịu, mất cảm tình.
Tập đọc là phân môn có nhiều điều kiện thời gian để giáo viên rèn kĩ năng
phát âm cho học sinh. Vì vậy giáo viên cần nắm chắc những học sinh phát âm
6/24


lệch chuẩn, phân loại những học sinh có cùng lỗi phát âm về vần, âm, thanh dấu
để có kế hoạch rèn phù hợp. Đối với những học sinh này, giáo viên cần phát âm
chuẩn để làm mẫu cho các em, yêu cầu các em quan sát khẩu hình khi giáo viên
hoặc bạn làm mẫu, giáo viên cần hướng dẫn cách phát âm cụ thể và tạo điều
kiện để các em thực hành theo. Trong các tiết học giáo viên cần tìm cơ hội để
uốn nắn các em thường xuyên (khi trong bài học có các tiếng chứa âm, vần,
thanh các em dễ đọc sai; khi các em trả lời câu hỏi hay phát biểu trước lớp,...).
Giáo viên cũng có thể khuyến khích học sinh tập đặt câu với từ có tiếng chứa
âm, vần, thanh dễ lẫn, tổ chức trò chơi luyện phát âm vào những thời điểm thích
hợp hoặc khuyến khích học sinh sưu tầm, ghi chép và học thuộc các bài thơ,
đoạn thơ, câu thơ có âm, vần, thanh dễ lẫn.
Một số câu thơ có các tiếng có âm đầu hoặc vần dễ lẫn:
a. Phân biệt l/n:
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.

b. Phân biệt dấu hỏi/dấu ngã:
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi.
c. Phân biệt r/d/gi:
Cánh diều no gió
Nhạc trời réo vang
Tiếng diều xanh lúa
Uốn cong tre làng.
Một trong những thành công của việc luyện phát âm cho học sinh là giáo
viên cần kiên trì, tạo không khí lớp học thân thiện, tạo cho học sinh trong lớp sự
cảm thông đối với những bạn có lỗi về phát âm để các bạn mạnh dạn, tự tin sửa lỗi.
2.2. Mở rộng vốn từ qua các tiết Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện
Các phân môn tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện thường được dạy theo
chủ đề vì thế qua các câu chuyện, các bài văn, thơ, giáo viên cần mở mang thêm
về vốn từ theo chủ đề cho học sinh. Việc tìm hiểu nội dung bài, phát hiện ra ý
nghĩa giáo dục sẽ giúp các em nói đúng trọng tâm, không lạc đề. Việc phát hiện
ra bố cục của bài đọc, của câu chuyện giúp các em biết nói, biết kể các câu văn
liền mạch, tạo thành bài nói có bố cục rõ ràng. Phần nêu cảm nghĩ đối với nội
dung bài hoặc nhân vật trong bài cũng giúp học sinh có cơ hội luyện nói tốt.
7/24


Bên cạnh đó trong tiết luyện từ và câu các em còn được cung cấp vốn từ
thuộc nhiều chủ đề rất phong phú, được học cách sử dụng từ qua nhiều dạng bài
tập như: đặt câu với từ đã cho, sắp xếp các từ đã cho để tạo thành câu, chọn từ
trong ngoặc điền vào chỗ trống,... qua đó giáo viên rèn học sinh nói đủ ý, sử
dụng dấu câu đúng ngữ pháp và phù hợp với nội dung góp phần không nhỏ giúp
các em biểu lộ được cảm xúc khi nói. (đối với câu có sử dụng dấu chấm than,

dấu hỏi chấm, ...)
* Ví dụ: Bài tập 2 - tuần 8 - trang 69 - Tiếng Việt 2 - tập 1.
Trả lời câu hỏi.
a. Cô giáo (thầy giáo) lớp 1 của em tên là gì ?
b. Tình cảm của cô (thầy) đối với học sinh như thế nào ?
c. Em nhớ nhất điều gì ở cô (thầy) ?
Trước khi làm bài tập này, học sinh đã được học nhiều bài tập đọc nói về
thầy cô giáo. Qua các bài tập đọc đó các em phần nào cảm nhận được sự yêu
thương, dịu dàng, quan tâm, lo lắng… của thầy cô giáo đối với học sinh. Qua
tiết luyện từ và câu trong tuần các em được tiếp cận với các câu văn nói về tình
cảm giữa thầy cô giáo và học sinh như:
- Cô giáo chúng em rất yêu thương, quý mến học sinh.
- Chúng em luôn kính trọng, biết ơn các thầy giáo, cô giáo.
Từ những kiến thức được cung cấp trên đã giúp các em rất nhiều trong quá
trình luyện nói. Các em không chỉ đơn thuần trả lời câu hỏi mà còn diễn đạt
thành nhiều câu văn hay có hình ảnh.
Một số bài văn nói của học sinh :
Cô Hằng là cô giáo dạy em năm lớp 1. Cô rất yêu thương và luôn chăm lo
cho chúng em. Em nhớ nhất bàn tay dịu dàng của cô uốn nắn cho em từng nét
chữ. Năm nay đã lên lớp 2, cô Hằng không còn dạy em nữa nhưng em luôn nhớ
mãi về cô.
(Bài viết của Quỳnh Anh - 2 A)
Cô giáo lớp 1 của em tên là Thanh Thuỷ. Cô rất yêu thương học sinh. Có lần
em quên vở tập viết ở nhà nhưng cô không mắng phạt mà chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng.
Em rất kính trọng và biết ơn cô. Em hứa sẽ học thật giỏi để cô vui lòng.
(Bài viết của Nguyễn Hương Dịu Ngân - 2A)

8/24



3. Chỉ đạo dạy tốt các dạng bài tập cơ bản để luyện nói trong phân môn
Tập làm văn
Tập làm văn là phân môn tổng hợp có thể rèn được nhiều kĩ năng cho học
sinh. Trong chương trình tập làm văn lớp 2 có rất nhiều dạng bài giúp học sinh
có nhiều cơ hội để luyện nói. Mỗi dạng bài tập đều hướng đến mục đích chung
là rèn kĩ năng nói cho học sinh. Tuy nhiên người giáo viên cần có cái nhìn khái
quát hơn có nghĩa là nắm chắc các dạng bài để tìm con đường ngắn nhất đạt
được mục đích đó. Cụ thể với từng dạng bài, giáo viên cần lưu ý sau:
a. Dạng bài tập hội thoại:
Một trong những thành công của chương trình sách giáo khoa hiện nay là
không quá thiên về cung cấp tri thức mà chú ý đến nhiều dạng bài tập rèn kĩ
năng cho học sinh đặc biệt kĩ năng sử dụng ngôn ngữ như các dạng bài tập:
- Tự giới thiệu, chào hỏi.
- Nói lời cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia buồn, an ủi, chia
vui, khen ngợi, ngạc nhiên, thích thú.
- Đáp lời cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, chia vui, khen ngợi, từ
chối, an ủi.
Các dạng bài tập hội thoại thường đưa ra dưới dạng tình huống giao tiếp.
Để giúp học sinh xử lí tốt các tình huống giao tiếp, trước hết giáo viên cần nắm
vững các thành tố hợp thành tình huống giao tiếp như: nhân vật giao tiếp, hoàn
cảnh giao tiếp, đích giao tiếp và ngôn ngữ giao tiếp. Các loại bài tập tình huống
giao tiếp kết hợp dùng chữ và hình để diễn tả tình huống giao tiếp. Vì vậy để
giúp học sinh luyện nói tốt, giáo viên nên tiến hành như sau:
 Sưu tầm , khai thác tranh ảnh có hiệu quả:
Tranh, ảnh được xem như là một đồ dùng dạy học hiệu quả nhất đối với
dạng bài tập hội thoại. Vì qua tranh ảnh học sinh sẽ hình dung ra tình huống giao
tiếp một cách nhanh nhất. Chính vì vậy giáo viên cần sưu tầm tranh ảnh và cần
khai thác triệt để nội dung tranh. Khi sử dụng tranh cần đưa ra đúng lúc, phù
hợp với tiến trình nhận thức của các em. Có những tranh kết hợp với chữ giúp
các em nhận ra nghi thức lời nói. Đối với các bài tập này giáo viên chỉ cần yêu

cầu học sinh sắm vai để nhắc lại lời nhân vật trong tranh. Có những tranh chỉ
diễn tả lời nhân vật trong tranh. Có những tranh chỉ diễn tả tình huống giao tiếp,
giáo viên cần dùng hệ thống câu hỏi giúp các em nắm được nội dung tranh.

9/24


* Ví dụ 1 : Bài tập 2 - Tuần 2 - trang 20- Sách Tiếng Việt lớp 2 tập 1.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh, tự trả lời câu hỏi:
- Tranh vẽ những ai?
- Bóng Nhựa, Bút Thép chào Mít và tự giới thiệu về họ như thế nào?
- Mít chào Bóng Nhựa, Bút Thép và tự giới thiệu về mình như thế nào?
- Ba bạn chào hỏi nhau với thái độ thế nào?
- Bút Thép và Bóng Nhựa tự giới thiệu những gì về họ?
- Mít tự giới thiệu những gì về mình?
Sau khi giúp học sinh nắm được nội dung tranh và yêu cầu của bài tập, giáo
viên cho học sinh sắm vai Bút Thép, Bóng Nhựa và Mít để nhắc lại lời các bạn
trong tranh. Lưu ý học sinh có thể thay đổi giọng nói của từng nhân vật và ghi
nhớ để thực hành cách chào hỏi, tự giới thiệu.
* Ví dụ 2 : Bài tập 1 - Tuần 4 - Trang 38 - Sách Tiếng Việt Lớp 2 tập 1.
Nói lời cảm ơn trong từng trường hợp cụ thể.

Sau khi đưa tranh giáo viên yêu cầu học sinh quan sát để nêu lại nội dung
từng tranh. Qua các bức tranh giáo viên giúp học sinh trả lời các câu hỏi:
- Ai cần phải nói lời cảm ơn?
- Em cần nói lời cảm ơn với ai?
- Vì sao cần nói lời cảm ơn?
Các câu trả lời trên giúp các em bước đầu nhận biết các nhân vật giao tiếp (em
và bạn, em và cô giáo, em và em bé), để từ đó đưa ra những lời cảm ơn cho phù
hợp, thể hiện thái độ lịch sự hay lễ phép của mình đối với đối tượng giao tiếp.

10/24


+ Nếu là bạn bè (cùng lứa tuổi), lời cảm ơn cần thể hiện thái độ chân
thành, thân mật.
Ví dụ : Mình cảm ơn bạn.
+ Nếu là người lớn (cao tuổi hơn) lời cảm ơn cần thể hiện thái độ lễ phép,
kính trọng.
Ví dụ : Cháu cảm ơn bác ạ.
+ Nếu là người dưới (nhỏ tuổi hơn) lời cảm ơn cần thể hiện thái độ chân
thành, yêu mến.
Ví dụ : Chị cảm ơn em.
Trên cơ sở học sinh đã biết cách nói lời cảm ơn, giáo viên yêu cầu học sinh
thực hành nói lời cảm ơn trong từng trường hợp cụ thể, động viên các em tìm
được nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Ví dụ: Lời cảm ơn em nhỏ :
+ Cảm ơn em.
+ Cảm ơn em nhé !
+ Anh (chị) cảm ơn em.
+ Chị cảm ơn. Em ngoan quá!
- Sau khi học sinh đã nắm chắc yêu cầu của bài tập, giáo viên tiến hành
cho các em luyện nói. Động viên, khuyến khích học sinh nói bằng nhiều cách
khác nhau. Chú ý cho học sinh khi nói lời an ủi với người trên, cần tỏ thái độ ân
cần nhưng lễ phép (thể hiện qua giọng nói và cách xưng hô).
b. Kể ngắn về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè (chị, em), cô giáo, con
vật, cây cối, Bác Hồ.
Đây là dạng bài tập mà khả năng nói của các em thể hiện rõ nhất. Chính vì vậy
nhiều em đã bộc lộ điểm yếu của mình như : diễn đạt kém, dùng từ sai, bài nói rời
rạc, lạc chủ đề. Một trong những nguyên nhân còn làm cho học sinh thiếu tập trung
và lớp học buồn tẻ là do việc đặt câu hỏi của giáo viên. Hệ thống câu hỏi nghèo nàn,

vụn vặt, mờ nhạt không đúng trọng tâm làm tăng tính thụ động của học sinh không
phù hợp với đổi mới trong dạy học. Trong giờ tập làm văn luyện nói nếu giáo viên
biết đặt câu hỏi có hiệu quả chắc chắn học sinh sẽ tích cực hơn nhiều. Vì vậy giáo
viên cần chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh vận dụng vốn từ, vốn
hiểu biết về chủ đề để tích cực luyện nói và nói đạt hiệu quả.
Việc chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài học đòi hỏi giáo
viên phải bỏ nhiều công sức. Trước khi biên soạn hệ thống câu hỏi, giáo viên
phải đặt mình là học sinh để dự kiến trước những câu trả lời. Từ đó lựa chọn câu
hỏi cho phù hợp với đa số học sinh trong lớp. Để phát huy hết khả năng của các
em trong lớp, giáo viên nên dành riêng cho từng đối tượng học sinh những câu
hỏi phù hợp.
* Ví dụ : Bài tập 3 - tuần 25 - trang 67 - Tiếng Việt 2 - tập 2.
Quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
11/24


Câu hỏi trong SGK
a. Tranh vẽ cảnh gì?

Dự kiến câu trả lời của học sinh
+ Tranh vẽ mấy chiếc thuyền.
+ Tranh vẽ cảnh ông mặt trời và những đám mây.
+ Tranh vẽ những chú chim hải âu đang chao lượn.

b. Sóng biển như thế nào?

+ Sóng biển nhấp nhô.(Sóng biển màu trắng)

c. Trên mặt biển có những gì? + Trên mặt biển có những con thuyền.
d. Trên bầu trời có những gì?


+ Trên bầu trời có ông mặt trời, những đám
mây và rất nhiều chim.

Bài tập đưa ra một bức tranh và 4 câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời. Nếu giáo
viên chỉ bám vào 4 câu hỏi đó để yêu cầu học sinh trả lời thì các em sẽ khó khăn
trong khâu luyện nói. Các câu trả lời đúng nhưng chưa có hình ảnh.
Với các câu hỏi trên, đa số các em chỉ có thể trả lời bằng cách liệt kê những
gì các em nhìn thấy trong tranh. Vì vậy giáo viên cần gợi ý và đưa thêm một số
câu hỏi phụ để kích thích trí tưởng tượng, sự hứng thú của các em.
Gợi ý của giáo viên
Câu trả lời của học sinh sau khi được
giáo viên gợi ý
a.
- Con chú ý quan sát và giới thiệu
quang cảnh chung của bức tranh.
+ Tranh vẽ cảnh gì? Vào lúc nào?
+ Tranh vẽ cảnh biển buổi sáng.
- Hãy giới thiệu vẻ đẹp của cảnh biển + Tranh vẽ cảnh biển buổi sáng thật đẹp!
buổi sáng và cảm nghĩ của em về + Cảnh biển buổi sáng mới đẹp làm sao!
cảnh biển.
b. Những con sóng nhấp nhô, nhấp + Những con sóng nhấp nhô nối đuôi
nhô từng đợt giống hình ảnh gì?
nhau vào bờ.
+ Những con sóng như đang chơi trò
đuổi bắt.
c. Những con thuyền buồm có màu + Những con thuyền buồm đang lướt
sắc ra sao? Chúng đang làm gì?
sóng ra khơi.
+ Những con thuyền buồm màu sắc sặc

sỡ đang ra khơi đánh cá. (hoặc đang
chở cá về bờ, …)
d.- Ông mặt trời có màu sắc thế nào? - Ông mặt trời đỏ hồng đang từ từ nhô lên.
- Những đám mây trôi lững lờ.
- Những đám mây ra sao?
- Mấy chú chim hải âu đang chao lượn
- Chim gì thường bay trên mặt biển? trên mặt biển.
12/24


Từ hệ thống câu hỏi phụ trên đây, nhiều học sinh đã được phát huy năng
lực nói của mình. Các em được nói, được tự chữa cho nhau và được giáo viên
chữa về lỗi dùng từ, cách diễn đạt, làm hoàn thiện hơn bài nói của mình. Vì vậy
giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi không những gợi được kiến thức phù
hợp mà còn phát triển được khả năng ngôn ngữ ở các em. Không nên sử dụng
nhiều câu hỏi mà câu trả lời là “Có” hoặc “Không” vì nếu sử dụng nhiều câu hỏi
dạng này sẽ làm hạn chế tư duy ngôn ngữ của học sinh.
c. Quan sát tranh và trả lời câu hỏi.
Tranh ảnh gồm hình chụp hay tranh vẽ đều được thể hiện trên một mặt
phẳng, nó chỉ giúp ta quan sát một chiều nên mang tính chất thống kê sự vật
nhiều hơn. Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh quan sát giáo viên lưu ý các em quan
sát kĩ theo trình tự: quan sát từ gần đến xa, từ bao quát đến chi tiết. Nếu tranh
ảnh diễn tả một hành động, chuyển động nào đó thì phải tưởng tượng xem trong
thực tế nó đang diễn ra như thế nào. Việc ứng dụng CNTT hiện nay cũng rất cần
thiết. Giáo viên có thể sưu tầm những đoạn clip ngắn, hoặc ghi hình các đoạn
hội thoại với nhiều đối tượng tham gia,...chỉnh sửa cho phù hợp với thời lượng
sử dụng trong một tiết để minh họa nội dung bài học. Điều này giúp cho tiết học
trở nên sinh động, gần với thực tế hơn.
Một điều rất quan trọng nữa là giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát có
mục đích có nghĩa là hướng việc quan sát vào nội dung các câu hỏi. Chính vì vậy

việc gợi mở khi học sinh quan sát cũng rất cần thiết. Nếu chỉ dừng lại ở trả lời được
các câu hỏi thôi chưa đủ giáo viên cần hướng dẫn các em nói được những câu văn
hay, có hình ảnh. Vì vậy hệ thống câu hỏi cần trọng tâm, không lan man.
Tranh ảnh có thể được sử dụng trong tất cả các bước của quá trình dạy
học. Tùy theo mục đích sử dụng mà giáo viên chuẩn bị các tranh ảnh với kích
thước khác nhau. Nếu dạy học toàn lớp yêu cầu tranh ảnh phải được phóng to,
đậm màu để học sinh dễ quan sát. Nếu dùng để thảo luận nhóm thì dùng tranh
vừa, còn học cá nhân thì có thể dùng tranh ảnh nhỏ hơn.
d. Nghe kể chuyện - trả lời câu hỏi.
Khác với dạng bài trên, để trả lời được hệ thống câu hỏi học sinh cần phải
nghe, hiểu nội dung một câu chuyện. Vậy việc nắm nội dung truyện là mục tiêu
ban đầu làm tiền đề cho hoạt động luyện nói của học sinh. Những câu chuyện ở
dạng bài tập này thường không dài nhưng để giúp học sinh ghi nhớ nhanh, giáo
viên cần kể thật hấp dẫn, chú ý kể đủ các nội dung, chi tiết chính. Kể chuyện kết
hợp cử chỉ, điệu bộ phù hợp cũng làm tăng khả năng ghi nhớ nhanh và nhớ lâu
của học sinh. Với dạng bài này giáo viên cũng nên phát huy những học sinh có
13/24


năng khiếu kể chuyện. Tổ chức cho những học sinh này kể thay giáo viên ở lần
2 cũng làm phong phú hình thức dạy học giúp học sinh trong lớp không cảm
thấy nhàm chán.
Con đường dẫn đến mục tiêu chính của hai dạng bài trên tuy khác nhau,
dạng bài nào cũng rèn luyện được nhiều kĩ năng như kĩ năng quan sát, nghe, nói
hay kĩ năng tổng hợp…Mỗi dạng bài thường được tổ chức hai hoạt động do đó
giáo viên cần phân bố thời gian phù hợp, chú trọng dành thời gian cho hoạt động
chính là rèn luyện kĩ năng nói cho các em.
4. Lựa chọn phương pháp, hình thức học tập phù hợp nhằm phát huy
tối đa năng lực diễn đạt của học sinh
Mỗi môn học có rất nhiều phương pháp để áp dụng tuy nhiên thời lượng

của một tiết dạy trên lớp chỉ diễn ra khoảng 35 đến 40 phút. Vậy để phát huy tối
đa tính tích cực, chủ động của học sinh người giáo viên cần biết lựa chọn những
phương pháp, hình thức học tập phù hợp. Các biện pháp cần khéo léo huy động
vốn kiến thức, kĩ năng đã có của học sinh liên quan đến nội dung bài học giúp
học sinh tự thấy có nhu cầu bộc lộ “điều muốn nói” ở các em.
Học sinh tiểu học nói chung hay học sinh lớp 2 nói riêng đều ưa hoạt động
nên một trong những phương pháp mà giáo viên áp dụng dễ dẫn đến thành công
là phương pháp trò chơi học tập. Thông qua các trò chơi, học sinh được luyện tập
làm việc cá nhân, làm việc trong nhóm hoặc lớp theo sự phân công với tinh thần
hợp tác. Cùng với những hình thức học tập khác, trò chơi tạo cơ hội để học sinh
được hoạt động, củng cố kiến thức và hoàn thiện kĩ năng.
Trong các giờ tập làm văn luyện nói điểm yếu nhất của học sinh là các em
ngại nói. Bên cạnh những giải pháp đã áp dụng ở trên, giáo viên cần giúp các em
tự tin bằng những lời khích lệ, động viên, bằng những tràng pháo tay cổ vũ của
các bạn. Dần dần học sinh thấy thích thú hơn và tập làm văn trở thành giờ học
yêu thích của các em. Để thay đổi hứng thú học tập, giáo viên nên áp dụng một
số trò chơi góp phần làm cho tiết học vui vẻ, hiệu quả hơn. Những trò chơi có
thể đưa vào đầu giờ, giữa giờ hoặc cuối giờ.
* Trò chơi sắm vai
Đối với các dạng bài kể ngắn giáo viên tổ chức cho các em chơi trò này.
* Ví dụ 1 : Khi dạy bài " Kể về gia đình " có thể cho các em sắm vai như sau.
Một học sinh đến thăm nhà bạn. Trong cuộc nói chuyện, cả hai cùng kể cho
nhau nghe về gia đình của mình. Bạn học sinh sắm vai chủ nhà có thể dùng ảnh
của gia đình để giới thiệu về từng thành viên. Giáo viên cần lưu ý các em về
14/24


cách xưng hô với bạn: Xưng tôi (hoặc tớ, mình). Trong cuộc nói chuyện các em
có thể hỏi thêm những điều mình muốn biết về gia đình của bạn.
Nhóm nào được lên sắm vai chắc chắn các em sẽ rất hứng thú và thu hút được

sự tập trung của những học sinh ngồi dưới khiến cho lớp học không còn tẻ nhạt nữa.
* Ví dụ 2 : Bài tập 3 - trang 132 - tuần 33.
Hãy kể một việc tốt của em (hoặc của bạn em).
Giáo viên có thể cho các em sắm vai một phóng viên đến trường phỏng vấn.
Nhân dịp mùng 8/3 báo Nhi Đồng cử một phóng viên tới thăm trường Tiểu
học ….. để tìm hiểu một số tấm gương " Người tốt - việc tốt ". Sau đó sẽ lựa
chọn những học sinh tiêu biểu chụp hình, đăng báo.
Học sinh nào sắm vai phóng viên sẽ tự giới thiệu về mình sau đó yêu cầu
các em trong lớp hãy kể một việc làm tốt của mình hoặc của bạn em.
Lần thứ nhất giáo viên nên sắm vai làm phóng viên để các em biết cách
chơi, dùng hệ thống câu hỏi phỏng vấn các em.
+ Việc tốt của em (hoặc của bạn em) diễn ra vào lúc nào ?
+ Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt ấy ra sao ?
+ Kết quả của việc tốt ấy là gì ?
Các câu hỏi này có thể viết ra bảng phụ làm điểm tựa để em nào lên sắm
vai cũng có thể phỏng vấn một cách dễ dàng.
* Trò chơi: Thử tài đối đáp
Mục đích: Luyện cho học sinh biết sử dụng các câu nói phù hợp trong các tình
huống giao tiếp, rèn kĩ năng ứng xử nhanh, sử dụng lời nói văn minh, lịch sự.
Cách chơi: Giáo viên đưa ra một số chủ đề học sinh đã được học và lựa
chọn nội dung yêu cầu trò chuyện về chủ đề đó như:
Chủ đề

Nội dung trò chuyện

Học tập

Giới thiệu về lớp của mình

Bạn bè


Trò chuyện về một bạn trong lớp

Vật nuôi

Giới thiệu một con vật nuôi con thích

Nghề nghiệp

Hỏi nhau về nghề nghiệp của bố, mẹ,...

Cách tiến hành: Học sinh chơi theo từng cặp, đối đáp phù hợp với chủ đề.
Cặp nào đối đáp được lâu, hỏi – đáp được nhiều nội dung nhất, sử dụng câu
đúng, được bình chọn cặp đối đáp giỏi, là cặp thắng cuộc.
Ví dụ: Hỏi nhau về nghề nghiệp của bố, mẹ

15/24


A: Mẹ cậu làm nghề gì?
B: Mẹ tớ là cô giáo. Thế còn mẹ cậu làm nghề gì?
A: Mẹ tớ là thợ may.
B: Công việc hàng ngày của mẹ cậu là gì?
A: Hàng ngày mẹ tớ may quần, áo cho khách. Mẹ còn may cho tớ nhiều cái
váy rất xinh. Thế mẹ cậu dạy học ở đâu?
B: Mẹ tớ dạy các anh chị sinh viên cơ.
..........
Việc sử dụng trò chơi trong tiết tập làm văn luyện nói nhằm làm cho
việc rèn kỹ năng bớt đi vẻ khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn học
sinh. Vì vậy trò chơi cần đáp ứng được các yêu cầu sau:

- Trò chơi phải thể hiện rõ mục đích hướng vào việc củng cố kiến thức, rèn
luyện kĩ năng ở từng bài.
- Hình thức trò chơi phải đa dạng giúp học sinh luôn được thay đổi cách
thức hoạt động, phối hợp được nhiều cơ quan vận động và các giác quan để gây
hứng thú cho các em.
- Cách chơi cần đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần thu hút nhiều
em được tham gia. Tránh lạm dụng trò chơi quá nhiều trong tiết học, giáo viên
cần kết hợp với nhiều phương pháp dạy khác.
Ngoài việc tổ chức trò chơi học tập, việc lựa chọn hình thức học tập phù
hợp cũng đem lại hiệu quả cho các tiết học nói chung và đặc biệt là hoạt động
luyện nói. Chương trình tập làm văn lớp 2 có rất nhiều bài tập hội thoại vì vậy
hình thức học tập đem lại hiệu quả cao chính là tổ chức học nhóm.
 Tổ chức tốt hình thức học nhóm.
Một tình huống giao tiếp không thể thực hiện được nếu chỉ có một người.
Chính vì vậy để các em hoàn thành tốt dạng bài tập hội thoại giáo viên nên cho
các em thực hành trong nhóm. Hình thức này sẽ đem lại hiệu quả cao nếu giáo
viên biết tổ chức. Một bài tập hội thoại thông thường nên cho các em thảo luận
trong nhóm 2 để tránh những học sinh "chầu rìa" bao gồm những em không tích
cực tham gia cùng nhóm hoặc nghịch ngợm làm ảnh hưởng đến hoạt động của
nhóm. Bên cạnh đó giáo viên cũng cần giao nhiệm vụ học tập rõ ràng cho các
nhóm và nội dung phải phù hợp với trình độ của các em.
* Ví dụ : Bài tập 2 - Tuần 25 - trang 66 - Sách Tiếng Việt 2 - Tập II.
a. Hương cho tớ mượn cái tẩy nhé ?
- Ừ.
- ….
16/24


b. Em cho anh chạy thử cái tàu thuỷ của em nhé ?
- Vâng.

- ….
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu từng đoạn hội thoại dựa vào các câu hỏi sau:
+ Người hỏi muốn đề nghị điều gì?
+ Câu trả lời là đồng ý hay không đồng ý?
+ Khi được đồng ý cần đáp lại như thế nào?
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận trong nhóm 2. Mỗi em sắm một vai
rồi đổi ngược lại để em nào cũng được thực hành nói lời đáp trong nhóm. Sau
khi đã được luyện nói trong nhóm, giáo viên tổ chức cho các em luyện nói trước
lớp. Giáo viên cùng với các bạn trong lớp nhận xét và sửa lại cho học sinh lời
đáp ở từng tình huống, động viên các em nói nhiều lời đáp khác nhau.
Nhiều em đã có những lời đáp đạt yêu cầu như:
a. + Cảm ơn bạn.
+ Cảm ơn Hương. Mình sẽ trả cậu ngay.
+ May quá, mình cảm ơn cậu.
……..
b. + Anh cảm ơn em.
+ Em ngoan quá!
+ Em tốt quá! Anh em mình cùng chơi đi.
………
Như vậy, qua thực hành trong nhóm lại được giáo viên uốn nắn, sửa chữa,
khuyến khích nói những lời đáp phong phú, các em đã biết đáp lời đồng ý, tránh
trả lời cộc lốc, lời đáp đúng mực thể hiện thái độ lịch sự, chân thành khi được ai
đó đồng ý, giúp đỡ và vận dụng phù hợp với từng tình huống.
5. Chú trọng luyện nói cùng với luyện kĩ năng nghe
Nghe – nói – đọc – viết là bốn kĩ năng cần hình thành ở học sinh. Chúng
không những không tách rời mà còn hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Đặc biệt thể hiện
rõ trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Các phân môn đều có sự hỗ trợ nhau
trong rèn luyện kĩ năng. Kĩ năng nói liên quan chặt chẽ với kĩ năng nghe. Muốn
nói và viết tốt người nói cần có kỹ năng tiếp nhận thông tin (nghe). Những kĩ
năng này luôn đi cùng nhau và hỗ trợ cho nhau. Vì thế theo nguyên tắc giao tiếp

người ta thường đồng thời rèn luyện chúng.
Luyện nói trong nhà trường giúp học sinh có thói quen nói trong những môi
trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống theo những
chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày,
17/24


đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời, mạch lạc, liên
kết, các hình thức lời nói, các quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng, sức
hấp dẫn....). Để nói tốt, học sinh phải có kĩ năng nghe. Lắng nghe không đơn
giản là nghe lời người khác nói. Đó là sự tiếp thu, chia sẻ những gì người đối
diện nói với mình. Lắng nghe là một công cụ hữu hiệu để phát triển giao tiếp bởi
khi lắng nghe tốt chúng ta sẽ xây dựng được lòng tin nơi người đối thoại với
mình. Bạn càng lắng nghe người khác nói, họ càng tin tưởng bạn và giao tiếp
nhiều với bạn hơn.
Chính vì vậy trong các tiết dạy giáo viên cần chú trọng rèn kĩ năng nghe
cho học sinh. Để rèn được kĩ năng này, giáo viên cần có khả năng thu hút trẻ.
Khả năng chú ý của học sinh lớp 2 chưa bền vững, các em thường nhanh chán
Đây chính là lúc giáo viên cần vận dụng nghệ thuật sư phạm của mình. Việc
thay đổi âm lượng lời nói, những lời động viên thường xuyên, hay một chút hài
hước,… đều có thể gây sự chú ý tạm thời ở các em. Ngoài ra, để thu hút được sự
chú ý của các em lâu dài, xuyên suốt cả tiết học giáo viên cần có sự chuẩn bị bài
thật chu đáo, tổ chức các hoạt động học tập dưới nhiều hình thức phong phú,
làm cho tiết học đạt được mục đích với đúng nghĩa của câu nói “ Học mà chơi Chơi mà học”.
6. Tạo môi trường thực hành kĩ năng nói
Việc dạy và rèn kĩ năng nói trong trường học chỉ thực sự có hiệu quả khi
học sinh thể hiện khả năng nói của mình trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy giáo viên
cần tạo được môi trường thực hành kĩ năng cho học sinh.
6.1. Tổ chức tốt các tiết Sinh hoạt tập thể theo chủ đề của lớp, trường.
Trong chương trình của học sinh lớp 2, hàng tuần các em đều được giáo

viên tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể theo chủ đề. Các chủ đề sinh hoạt rất gần
gũi với các em như:
- Tháng 9, 10: Truyền thống nhà trường.
- Tháng 11: Kính yêu thầy cô giáo.
- Tháng 12: Cháu yêu chú bộ đội.
- Tháng 1, 2: Giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc.
- Tháng 3: Yêu quý mẹ và cô.
- Tháng 4: Hòa bình và hữu nghị.
- Tháng 5: Kính yêu Bác Hồ.
Mỗi tiết sinh hoạt theo chủ đề thường được thiết kế dưới các hình thức
như hái hoa dân chủ, trò chơi học tập hay văn nghệ, vẽ tranh, tô màu,...
18/24


Với tính cách ưa hoạt động, đa số học sinh đều thích tham gia các tiết sinh
hoạt tập thể. Vì vậy giáo viên cần tận dụng cơ hội để rèn kĩ năng nói cho các em.
Trong mỗi tiết học, giáo viên nên rèn cho các em dẫn chương trình ở từng hoạt
động. Giáo viên cũng cần dành cơ hội cho nhiều em khác được tham gia tránh
chỉ tập trung vào một số em. Việc lựa chọn nội dung các hoạt động cũng cần
phải đầu tư suy nghĩ. Tuy chủ điểm sinh hoạt xuyên suốt cả tháng nhưng mỗi
tiết sinh hoạt giáo viên nên lựa chọn nội dung cho từng hoạt động khác nhau.
Mỗi nội dung hoạt động cần có mục tiêu cụ thể và luôn gắn với yêu cầu về luyện
nói cho học sinh.
Ví dụ: Trong một tiết sinh hoạt tập thể tháng 3 với chủ đề “Yêu quý mẹ và
cô”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tô màu các bông hoa để tạo thành một
bức tranh. Ngoài việc nhận xét những bức tranh đẹp giáo viên cần tạo cơ hội để
học sinh nói lên suy nghĩ, tình cảm của mình đối với bà, mẹ và cô giáo. Với
những học sinh có khả năng, giáo viên có thể gợi mở để các em nói lên suy nghĩ
của mình. Đối với những em còn hạn chế về khả năng nói, giáo viên có thể gợi
mở dần bằng những câu hỏi như:

+ Bức tranh này con sẽ tặng ai?
+ Khi tặng bức tranh này con sẽ nói gì với bà (mẹ hoặc cô)?
+ Ngoài món quà này con còn làm gì để bà (mẹ hoặc cô) vui lòng?
Điều quan trọng để đạt được mục đích là mỗi giáo viên cần tạo được
không khí tích cực cho mỗi buổi sinh hoạt. Có như vậy phần lớn học sinh trong
lớp sẽ cảm thấy được động viên mà mạnh dạn, tự tin tham gia vào hoạt động.
Hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi thể hiện ở không khí sôi nổi, hào hứng, thái độ
hợp tác của học sinh với giáo viên, của học sinh với học sinh… Đây không chỉ
là vấn đề tạo cho người học hoàn cảnh giao tiếp tốt mà còn là điều kiện cho tiết
học thành công.
Để làm được điều đó, giáo viên cần khơi gợi không khí học tập, động viên
khuyến khích học sinh bộc lộ lời nói, tránh tạo khoảng cách xa giữa thầy và trò,
tránh những phê bình, áp đặt khiến học sinh hẫng hụt, không muốn bộc lộ. Vấn
đề này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực sư phạm và quan trọng hơn cả là cái
tâm của người dạy học.
6.2. Lồng ghép việc luyện nói cho học sinh trong các môn học
Học sinh lớp 2 còn nhỏ, mau quên nên việc lặp đi lặp lại các nội dung
giáo dục đối với các em là cần thiết. Các môn học trong chương trình lớp 2 đều
được tổ chức dưới dạng các hoạt động. Mỗi tiết học đều áp dụng nhiều phương
pháp dạy học khác nhau tuy nhiên phương pháp chủ đạo có thể áp dụng trong
19/24


bất kì tiết học nào chính là đàm thoại. Vì vậy, giáo viên cần tận dụng cơ hội khi
áp dụng biện pháp đó để luyện nói cho học sinh trong các môn học, bài học.
Trong mỗi hoạt động của mình, giáo viên cần chú trọng đến từng đối tượng
học sinh để tăng cường rèn kĩ năng nói cho các em. Đối với nhiều học sinh cần tăng
cường hỏi để các em trả lời. Có nhiều câu trả lời chắc chắn không được như mong
muốn nhưng đối với các em đó là cả một sự cố gắng lớn.
Từ năm học 2014 - 2015, giáo viên đã tích cực hưởng ứng TT30/2014BGD&ĐT trong việc nhận xét, đánh giá học sinh. Thông tư khuyến khích nhiều đối

tượng tham gia đánh giá học sinh trong đó có học sinh nhận xét lẫn nhau. Việc làm
này ngoài mục đích giúp cho học sinh được nhận xét nhận ra những điểm mạnh,
những mặt cần khắc phục của bản thân nó còn giúp cho khả năng diễn đạt của học
sinh tham gia nhận xét bạn được nâng lên rõ rệt. Vì vậy trong mỗi tiết học, giáo viên
cần tích cực gọi học sinh nhận xét lẫn nhau. Cùng với sự động viên kịp thời của giáo
viên các em sẽ tự tin, mạnh dạn hơn nhiều khi nhận xét bạn.
6.3. Động viên học sinh tích cực tham gia các buổi tham quan ngoại khóa
Tham quan ngoại khóa là hoạt động thường niên của mỗi nhà trường.
Trong những năm học qua, nhà trường đã tổ chức những buổi tham quan phong
phú như: tham quan các di tích lịch sử Hai Bà Trưng, Đền Đô, Đền Sóc,.. chăm
sóc tượng đài Liệt sĩ Phòng không – Không quân, tham gia các hoạt động trải
nghiệm ở trang trại, … Đó chính là cơ hội tốt để kĩ năng ở các em phát triển
trong đó có kĩ năng nói. Những buổi tham quan ngoại khóa có thể giải tỏa những
căng thẳng, mệt mỏi, lấy lại hứng thú học tập cho học sinh. Tác dụng lớn nhất và
dễ dàng nhận thấy khi cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa đó là
mang đến một cuộc sống vui tươi cho trẻ. Các hoạt động tập thể giúp các em
hiểu nhau hơn.
Mặt khác khi tiếp xúc với những người bạn năng động, giỏi giang học sinh
cũng sẽ trở nên linh hoạt hơn. Những trẻ có nhiều bạn bè sẽ ít có biểu hiện trầm cảm,
lo lắng, ngôn ngữ phát triển, do đó các em sẽ dễ hòa nhập và thích nghi với những
hoàn cảnh mới. Chính vì vậy tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại
khóa giúp các em có thể tự lập và trưởng thành hơn rất nhiều.
Hoạt động ngoại khóa là cơ hội để các em khám phá thế giới. Những sân
chơi lành mạnh này giúp trẻ thỏa sức thể hiện bản thân, vui đùa, sống đúng với
lứa tuổi của mình. Ngoài ra để trẻ phát triển trong môi trường tự nhiên, thường
xuyên tiếp xúc cọ sát với thế giới xung quanh giúp trẻ phát triển nhiều mặt, học
được cách thích nghi với nhiều hoàn cảnh khác nhau.
20/24



Tuy không phải là môn học, nhưng các hoạt động ngoại khóa là sự tổng
hòa các hoạt động thể chất, giao tiếp và kỹ năng sống. Thường xuyên tham gia
các hoạt động ngoại khóa do nhà trường tổ chức trẻ sẽ rèn luyện được ý thức tự
lập, ý thức tập thể để phát triển toàn diện bản thân về cả Văn-Trí-Thể-Mỹ. Vì vậy
giáo viên cần động viên phụ huynh tạo điều kiện cho các con tham gia các hoạt
động ngoại khóa và động viên học sinh mạnh dạn tham gia các hoạt động này.
6.4. Phát huy tác dụng của môi trường giáo dục gia đình
Một môi trường quan trọng đem lại hiệu quả cao trong việc phát triển kĩ năng
nói cho học sinh là môi trường gia đình. Gia đình là môi trường xã hội quan trọng
bậc nhất của cá nhân - đặc biệt là khi còn nhỏ, bởi đây là nhóm xã hội đầu tiên và
gắn bó suốt đời của mỗi người. Tại gia đình, các em được nuôi dưỡng, chăm sóc và
được dạy bảo những điều đầu tiên, sơ đẳng để sống làm người.
Giáo dục gia đình có vai trò quyết định đối với việc hình thành nhân cách
cá nhân. Mỗi cá nhân là một sản phẩm của sự giáo dục trong gia đình. Những
điều trẻ em lĩnh hội được ở gia đình trong những năm đầu đời sẽ hình thành
những nền tảng của nhân cách. Ngay cả những điều mà cha mẹ không chủ ý
truyền dạy cho con, nhưng trẻ quan sát được hàng ngày thì cũng sẽ tự nhiên
ngấm vào trẻ và được chúng lặp lại, học theo. Dấu ấn gia đình, vì thế, rất đậm
nét và khó xoá bỏ trong nhân cách mỗi cá nhân, vì những gì được xây dựng ban
đầu thường rất bền vững.
Ngay từ đầu năm học, mỗi giáo viên cần có kế hoạch tuyên truyền giúp
phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của môi trường giáo dục gia đình.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, đặc biệt là buổi họp đầu năm, giới thiệu cho
phụ huynh chương trình học lớp 2 trong đó có môn Tiếng Việt với những phân
môn, nội dung liên quan đến rèn kĩ năng nói cho học sinh. Từ đó động viên phụ
huynh tạo điều kiện cho các con có môi trường để thực hành nội dung bài học
giúp việc vận dụng nội dung bài học có hiệu quả, gắn với thực tế của các em. Cụ
thể như sau:
- Với các dạng bài thực hành nghi thức lời nói: chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin
lỗi, mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia vui, chúc mừng, từ chối, đáp lời cảm ơn, đáp lời

xin lỗi, đáp lời đồng ý,…yêu cầu phụ huynh thường xuyên sử dụng những lời nói đó
trong cuộc sống hàng ngày, qua giao tiếp trong gia đình, theo dõi việc vận dụng của
các con ở nhà, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời, thường xuyên.
- Với dạng bài kể ngắn về vật nuôi, về bốn mùa, về loài chim, thú, cảnh
biển, người thân, Bác Hồ,…yêu cầu phụ huynh cần tạo điều kiện để các con có
vốn sống thực tế bằng nhiều hình thức như cho con đi thăm vườn bách thú, đi du
21/24


lịch, thăm hỏi họ hàng, thăm Lăng Bác Hồ, … Những kiến thức thực tế thu
lượm được không những làm giàu vốn hiểu biết của các con mà còn giúp cho
việc rèn luyện kĩ năng nói của trẻ đạt nhiều hiệu quả.
- Với các dạng bài như thực hành gọi điện thoại, viết tin nhắn, viết bưu
thiếp,… phụ huynh cần dành thời gian thực hành bài học cùng con vì như vậy
các con mới thấy được những nội dung học trên lớp là thiết thực.
Để việc rèn kĩ năng nói thực sự có hiệu quả, giáo viên và phụ huynh cần
phối hợp thường xuyên. Phụ huynh nên trao đổi, nhận xét với giáo viên về việc
thực hành nội dung bài học của con để giáo viên kịp thời động viên, nhắc nhở
con trên lớp. Điều quan trọng nhất là cả giáo viên và phụ huynh phải là những
tấm gương mẫu mực từ lời ăn, tiếng nói ở mọi lúc, mọi nơi để học sinh noi theo.
IV. KẾT QUẢ
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp chỉ đạo giáo viên giúp học sinh
tích cực luyện nói, bước đầu đã đạt được một số kết quả sau:
Giáo viên, phụ huynh và học sinh đã có những nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của việc rèn kĩ năng nói cho học sinh. Qua khảo sát từ phía giáo viên
cho thấy phụ huynh đã quan tâm hơn đến con em mình, nhiều phụ huynh đã chủ
động rèn luyện kĩ năng nói cho con ở nhà. Giáo viên xác định được vai trò của
mình trong quá trình hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. Từ
đó, tích cực đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, nâng cao ý thức chuẩn
bị chu đáo cho tiết dạy, có đầy đủ kế hoạch bài dạy trước khi lên lớp. Kế hoạch

thể hiện rõ mục tiêu chung của tiết dạy, mục tiêu riêng cho hoạt động luyện nói.
Khả năng giao tiếp của học sinh lớp 2 có nhiều tiến bộ hơn. Tỉ lệ học sinh
nói rõ ràng, mạch lạc được nâng lên. Nhiều học sinh mạnh dạn, tự tin, các em
không còn e dè, ngại ngùng mà sẵn sàng bộc lộ suy nghĩ của bản thân. Không
chỉ kĩ năng nói được phát triển mà các kĩ năng nghe, đọc, viết cũng khả quan
hơn. Trong các tiết dự giờ, thăm lớp, khi BGH nhà trường hoặc trường khác lên
giao lưu, các con đã mạnh dạn, tự tin giao tiếp hơn rất nhiều.
Dưới đây là bảng kết quả khảo sát chất lượng kĩ năng giao tiếp của học sinh
trước và sau khi áp dụng các biện pháp chỉ đạo giáo viên lớp 2 rèn kĩ năng nói cho
học sinh ở trường tiểu học……

22/24


Trước khi áp dụng

Lớp

Sĩ số

Rụt rè,
ngại giao tiếp,
không thể hiện
cảm xúc khi nói

Sau khi áp dụng

Nói lưu loát,
mạnh dạn,
thể hiện biểu

cảm khi nói

Rụt rè,
ngại giao tiếp,
không thể hiện
cảm xúc khi nói

Nói lưu loát,
mạnh dạn,
thể hiện biểu
cảm khi nói

SL

Tỉ lệ
(%)

SL

Tỉ lệ
(%)

SL

Tỉ lệ (%)

SL

Tỉ lệ
(%)


2A

54

38

70

16

30

15

27,7

39

72,3

2B

56

32

57,1

24


42,9

12

21,4

44

78,6

2C

55

38

69,1

17

30,9

11

20

44

80


2D

53

29

54,7

24

45,3

10

18,8

43

81,2

2E

52

31

59,6

21


40,4

14

26,9

38

73,1

2G

57

33

57,9

24

42,1

14

24,6

43

75,4


2H

55

30

56,6

25

43,3

15

27,2

40

71,8

Tổng

382

231

60,5

151


39,5

91

23,8

291

76,2

Số liệu trong bảng kết quả đã thể hiện phần nào hiệu quả của việc áp dụng
các biện pháp chỉ đạo trong công tác quản lí. Kết quả chưa được như mong
muốn song trong những năm học tới, tôi sẽ tiếp tục áp dụng và bổ sung thêm
những biện pháp mới để kết quả đạt được cao hơn.

23/24


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Một trong những năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh tiểu học
là giao tiếp. Năng lực đó được biểu hiện bằng những hành động rất cụ thể của các
em như biết trình bày ngắn gọn, rõ ràng, nói đúng nội dung cần trao đổi hay ngôn
ngữ phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp, biết ứng xử thân thiện, chia sẻ với
mọi người, lắng nhe người khác…. Sau một thời gian áp dụng biện pháp chỉ đạo
giáo viên giúp học sinh lớp 2 tích cực luyện nói bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất
định. Để kĩ năng nói của các em ngày càng phát triển tiến tới hình thành được năng
lực giao tiếp ở mỗi học sinh mỗi giáo viên cần đảm bảo một số điều kiện sau đây:
- Lựa chọn chủ đề luyện nói phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí lứa

tuổi HS tiểu học ở mỗi giai đoạn. Phối hợp nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa
khác để phát triển kỹ năng nói.
- Hình thức tổ chức hoạt động học tập phải linh hoạt. - Phối hợp nhịp
nhàng các hoạt động ngoại khóa khác để phát triển kỹ năng nói.
- Khi học sinh tham gia vào hoạt động nhóm, giáo viên cần theo dõi và không
bỏ sót trẻ nào khi yêu cầu trẻ trả lời câu hỏi, chứ không chỉ chú ý đến những trẻ hay
giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói
trước lớp. Chính vì vậy, việc phân nhóm nhỏ để tập nói là rất cần thiết.
- Thường xuyên động viên, khuyến khích học sinh tham gia giao tiếp.
Giáo viên phải luôn hòa mình với trẻ, là bạn của trẻ, làm cho các em tin tưởng
để các em có thể nói chuyện, chia sẻ với cô giáo ngoài giờ học như với người
thân trong gia đình. Từ đó trẻ sẽ bộc lộ bản thân, dám nói cho dù diễn đạt chưa
gã gọn thì đó cũng là những thành công lớn của người thầy.
- Khuyến khích phụ huynh giúp con mình phát triển kỹ năng ngôn ngữ tại nhà.
2. Khuyến nghị:
Sở GD&ĐT Hà Nội và phòng GD&ĐT quân Thanh Xuân tiếp tục mở các
lớp bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn, các buổi trao đổi chuyên đề theo hướng
chú trọng rèn các kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh tiểu học
nói chung cho cán bộ quản lí và giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong công tác chỉ đạo giáo
viên ở trường tiểu học.Trong một thời gian ngắn áp dụng, sáng kiến không tránh
khỏi những hạn chế. Tôi rất mong nhận được những ý kiến quý báu của các cấp
lãnh đạo cùng các bạn đồng nghiệp để tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm quản lý
cho bản thân góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép của người khác
24/24



×