Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Triết học trung quốc cổ đại mạc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.18 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ đại là một trong những cái nôi của nền văn minh
nhân loại. Đây là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nh ất trên
thế giới có hàng triệu năm phát triển liên tục với nhiều thành t ựu vĩ đ ại
trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tiến trình phát triển rực r ỡ ấy, văn
minh Trung Hoa là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học, đ ược coi là
cái nôi của nền triết học phương Đông, cũng là cơ s ở đ ể so sánh gi ữa hai
nền triết học Đông - Tây.
Măc gia là một trong các học thuyết chính trị xã hội l ớn ở Trung Qu ốc
(Nho gia, Đạo gia, Pháp gia). Ra đời vào thời Xuân thu chi ến qu ốc, th ời kỳ
lịch sử đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm h ữu nô l ệ chuy ển sang ch ế đ ộ
phong kiến, mâu thuẫn xã hội sâu sắc, nội chiến kéo dài liên miên, làm cho
đời sống nhân dân khổ cực.
Học thuyết "Mặc Tử" đã nêu lên gồm 10 chủ trương lớn (có thể nói là
mười cương lĩnh chính trị của ông), nội dung được chia thành mười loại:
Thượng Hiền, Thượng Đồng, Tiết dụng, Tiết táng, Phi lạc, Phi mệnh, Thiên chí,
Minh quỹ, Kiêm ái, Phi công. Trong tiểu luận này chỉ đi sâu tìm hiểu về học
thuyết Kiêm ái để thấy được tư tưởng của ông về tình yêu thương đồng cùng với
người dân trong thời buổi loạn lạc lúc bấy giờ.
Việt Nam là một quốc gia láng giềng với Trung Quốc nên những tư tưởng
triết học có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng, quan điểm của người Việt. Tìm hiểu
học thuyết kiêm ái của Mặc gia cũng là tìm hiểu về ý nghĩa phương pháp luận và
ảnh hưởng của nó đối với đời sống chính trị xã hội của Việt Nam trong tiến trình
lịch sử cũng như trong sự nghiêp đổi mới hiện nay.
1


Tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 phẩn:
Phần 1: Khái quát hoàn cảnh lịch sử ra đời của Mặc gia
Phần 2: Một số tư tưởng chủ yếu của Mặc gia
Phần 3: Ý nghĩa phương pháp luận và và ảnh hưởng của t ư t ưởng


Mặc tử đối với xã hội Việt Nam.

NỘI DUNG
1.

Khái quát hoàn cảnh lịch sử ra đời của Mặc gia

1.1. Đặc điểm chính trị - xã hội Trung Hoa cổ - trung đại.
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đ ời t ừ cuối
thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN v ới s ự kiện T ần Th ủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong h ơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 th ời kỳ l ớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến
cuối thế kỷ III tr. CN.
Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây
Chu. Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN, đánh
dấu sự mở dầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng n ửa đầu
thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc Th ương là Thành Thang đã l ật
đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam hiện nay). Đ ến
thế kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà Th ương còn g ọi là nhà
Ân. Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân l ập
2


ra nhà Chu ( giai đoạn đầu là Tây Chu), đưa ch ế đ ộ nô lệ ở Trung Hoa lên
đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm
ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quy ền quản
lý của vua nhà Chu . Đồng thời, thành lập nh ững đô th ị l ớn t ạo nên s ự đ ối
lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy

tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những t ư t ưởng tri ết h ọc
đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã g ắn ch ặt
thần quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính
trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xu ất hi ện nh ững
quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào s ự quan sát v ận
hành của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của n ước sông và quy lu ật
sinh trưởng của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Ch u (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu Chiến quốc).
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại cũng là lúc xã
hội Trung Quốc bước vào thời Xuân thu - Chiến quốc, thời kỳ tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên. S ự phát triển
của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình th ức sở h ữu ruộng đ ất và
kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đ ất đai thu ộc s ở h ữu
của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ sở h ữu t ư
nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn d ựa trên c ơ s ở
tài sản xuất hiện. Các nước chư hầu của nhà Chu không ch ịu ph ục tùng
vương mệnh nữa, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn nhau, t ự
xưng là bá vương (“vương đạo suy vi”); tầng lớp địa ch ủ mới lên ngày càng
giàu có, lấn át quý tộc, thị tộc cũ (“trên yếu dưới mạnh”), thậm chí còn
chiếm cả chính quyền như họ quý thị ở nước Lỗ, ho Trần ở nước Tề. Đây
3


chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ th ị tộc nhà Chu, hình
thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng,
xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng l ực l ượng s ản xu ất, m ở
đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hi ện nh ững
tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về tr ật t ự xã

hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong t ương lai. L ịch s ử gọi
đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm th ầy), "Bách gia tranh
minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra nh ững
nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết h ọc khá hoàn
chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy con người và xã h ội làm
trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là gi ải quy ết nh ững v ấn
đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Theo L ưu Hâm (đ ời Tây Hán),
Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính (g ọi là C ửu l ưu
hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp
gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo đ ược du nh ập t ừ ấn
Độ sau này, các trường phái triết học được hình thành vào th ời kỳ này đ ược
bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới th ời kỳ
cận đại.
1.2

Sự ra đời của Mặc gia.

Mặc Tử (khoảng 478 - 392 trước CN), chào đời sau khi Khổng Tử qua
đời 11 năm, người nước Tống, có thuyết cho là người n ước Lỗ. T ừng làm
thợ đóng xe, sau được thăng lên giới “sĩ”, Mặc T ử có lúc làm quan Ð ại phu.
Thuở còn trẻ ông từng theo học Nho gia, sau đó bỏ Nho rồi đ ề x ướng M ặc
học, đối đầu gay gắt với Nho học. Các đệ tử của Mặc T ử phần lớn xuất
thân từ hạ tầng xã hội, toàn những người khắc kh ổ và gan dạ, cùng theo
ông sinh hoạt thành đoàn thể hơn một trăm người. Họ chủ trương sống t ự
túc bằng lao động và cho rằng “không lao đ ộng mà h ưởng th ụ là b ất nhân
4


phi nghĩa”. Về sau, các đệ tử ghi lại lời của thầy làm thành bộ Mặc T ử gồm
71 thiên. Mặc tử là người sáng lập Mặc gia - một trong sáu hệ phái triết học lớn

của Trung Hoa cổ đại, nổi sáng ở thời Chiến Quốc, sang đến đời Hán thì chấm
dứt, nhưng đến cuối đời Minh, đầu đời Thanh lại được phục hưng. Ông là người
thuộc tầng lớp bình dân, sản xuất nhỏ. Từ chỗ cảm thông và lo âu với lớp dân
nghèo khốn khổ, ông chủ trương theo Hạ Lễ, kêu gọi thực hành thuyết “kiêm
ái”, xem đó là phương sách cứu cánh xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến
Quốc từ hỗn loạn, suy vong đến thái bình thịnh trị. Thuyết “kiêm ái”- chủ thuyết
đạo đức cơ bản của Mặc Tử, với tư tưởng chủ đạo là khởi xướng và xây dựng
tình yêu thương con người, tình đồng loại, hàm chứa những giá trị nhân bản sâu
sắc, quyện bền vào tâm thức của con người từ nhiều thế hệ.
Mặc Tử phê phán kịch liệt những nội hàm đạo đức và xã hội trong t ư
tưởng của Khổng Tử, dựa trên cơ sở rằng Khổng Tử khích lệ mối quan tâm
cá biệt cho gia đình, thân tộc của mỗi người, gây nhiều th ương t ổn cho
cảm giác phổ quát của loài người về thiện chí. Mặc Tử tuyên bố rằng lòng
trung thành ưu tiên cho gia tộc - thân thân: thân yêu người thân - là c ội r ễ
của cái ác. Ông tìm cách thay thế nó bằng quan đi ểm xã h ội hòa h ợp d ựa
trên “kiêm ái: yêu hết thảy mọi người”, một học thuyết làm n ảy sinh cảm
giác thiết thực về phúc lợi của toàn thể xã hội.
Là một tư tưởng gia vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, t ự nhiên M ặc
Địch cũng có chủ trương tư tưởng chính thể, đó thể hiện phân tán ở các
thiên Kiêm ái (yêu tất cả mọi người), Thượng hiền (coi trọng người hiền),
Phi công (phản đối chiến tranh), Phi nhạc (phản đối âm nh ạc thái quá),
Tiết dụng (tiết kiệm trong tiêu dùng), Tiết táng (tiết kiệm trong lễ tang),
Thiện chí (bàn về chí của trời), Minh quỷ (làm rõ lễ thờ quỷ thần)... chỉ rõ
tính cách của giai cấp tiểu sinh sản vì vậy mà Mặc Địch tr ở thành nhà đ ại
biểu tư tưởng và phát ngôn viên cho tầng lớp nhân dân lao đ ộng trong xã
hội.
5


2.


Môt số tư tưởng chủ yếu của Mặc gia

2.1 Quan điểm chính trị xã hội
Mặc tử cho rằng muốn cho thế giời hòa bình và nhân dân khang lạc thì
chúng ta không những cần có thượng đế trên trời mà còn cần có th ượng đế
ở trần gian. Mặc Tử phê phán kịch liệt những nội hàm đạo đ ức và xã h ội
trong tư tưởng của Khổng Tử, dựa trên cơ sở rằng Kh ổng T ử khích lệ mối
quan tâm cá biệt cho gia đình, thân tộc của mỗi người, gây nhi ều th ương
tổn cho cảm giác phổ quát của loài người về thiện chí. M ặc T ử tuyên b ố
rằng lòng trung thành ưu tiên cho gia tộc - thân thân: thân yêu ng ười thân là cội rễ của cái ác. Ông tìm cách thay thế nó bằng quan đi ểm xã h ội hòa
hợp dựa trên “kiêm ái: yêu hết thảy mọi người”, một học thuy ết làm n ảy
sinh cảm giác thiết thực về phúc lợi của toàn thể xã hội.
Trong khi Khổng Tử kỳ vọng người dân sống thuận theo tôn ti tr ật t ự
của xã hội, Mặc Tử muốn họ tránh hết những th ứ đó vì chúng gây bất l ợi
cho người khác. Mặc Tử đề ra một hình thức nhân ái khác v ới Kh ổng T ử.
Khổng Tử dạy rằng “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: Ðiều gì mình không
muốn ai làm cho mình thì mình đừng làm cho ai”, còn M ặc T ử d ạy r ằng “Ái
nhân nhược ái kỳ thân: yêu người như yêu thân mình”, và “Vi bỉ do vi k ỷ dã:
Vì người khác cũng như vì mình”. Ông cổ vũ con ng ười nên hành đ ộng đ ể
tạo phúc lợi cho xã hội như một toàn bộ và rằng điều đó có hàm ý m ọi
người nên giúp đỡ nhau trong tinh thần vô phân biệt.
Về chính trị, Mặc Tử tin rằng ta chỉ nên đề cử vào vai trò cai tr ị nh ững
kẻ biết và hiểu rõ người dân thường. Về mặt thực tiễn, Mặc T ử chủ
trương lối sống tiết kiệm, cực kỳ thanh đạm, gần như khắc kh ổ; ông đ ặc
biệt phê phán việc hoang phí tài nguyên cho các nghi lễ ma chay t ống táng.
Ðáp lại chủ trương ấy, Nho gia tuyên bố rằng nếu không có qu ốc ch ủ và
không có phụ mẫu tức là loài người trở lại như chim muông thu ở h ồng
6



hoang, và rằng ta phải yêu thương kẻ ở sát bên ta trước khi có th ể phát
triển tình yêu thương đó tới những kẻ ở quá xa ta.
Trên bình diện triết học chính trị, Mặc Tử đã đưa vào một số nguyên tắc
quan trọng nhằm tạo thế cân bằng giữa hai cực đoan gây ra b ởi Nho giáo
truyền thống chủ nghĩa và Ðạo giáo cá nhân chủ nghĩa. Ở đây, Mặc T ử thiết
lập cơ sở cho thể chế dân chủ, kinh tế thị trường tự do và ch ủ nghĩa thiết
thực. Ðặc điểm cốt tủy trong tư duy của Mặc Tử là niềm xác tín rằng ng ười
dân thật sự hiểu rõ cái gì tối ưu cho họ, và ta không cần ph ải nh ờ vào
truyền thống mới có thể phát hiện những gì được dân chúng chấp nhận
công khai.
2.2 Thuyết kiêm ái
Về chính trị, Mặc Tử tin rằng ta chỉ nên đề cử vào vai trò cai tr ị
những kẻ biết và hiểu rõ người dân thường. Về mặt thực tiễn, Mặc T ử chủ
trương lối sống tiết kiệm, cực kỳ thanh đạm, gần như khắc kh ổ; ông đ ặc
biệt phê phán việc hoang phí tài nguyên cho các nghi lễ ma chay t ống táng.
Ðáp lại chủ trương ấy, Nho gia tuyên bố rằng nếu không có qu ốc ch ủ và
không có phụ mẫu tức là loài người trở lại như chim muông thu ở h ồng
hoang, và rằng ta phải yêu thương kẻ ở sát bên ta trước khi có th ể phát
triển tình yêu thương đó tới những kẻ ở quá xa ta.
Mặc Tử còn phê phán Khổng Tử về việc không tin vào quỉ th ần, tiêu
phí tiền bạc vào cúng tế và ủng hộ tôn ti trật tự. Ông muốn đặt sang m ột
bên cái gọi là tôn trọng cổ truyền và thế giá để bắt đầu nhìn vào xã h ội
trên căn bản lý trí. Về tri thức luận, Mặc Tử là người duy nghi ệm ch ủ
nghĩa. Dường như ông cũng có ý tưởng nào đó về m ột đ ấng t ối cao có c ứu
cánh tính và ý chí, được biểu lộ trong tri giác về trật tự xã hội. Ông lập lu ận
rằng vì mọi người đều bình đẳng trong con m ắt của tr ời, do đó chúng ta

7



nên yêu thương nhau một cách bình đẳng. Lập luận đó về sau bị Mạnh T ử
cho là xúc phạm tới toàn bộ cảm xúc nhân tính.
Mặc Tử cũng lập luận rằng người dân hiểu rõ cái gì có l ợi cho h ọ và
cái gì có hại cho họ. Vì thế, điều chân chính phải làm chính là đi ều đáp ứng
được cái thiện chung. Do đó, ông cho rằng trong xã h ội, s ự thăng ti ến c ủa
người dân nên đặt cơ sở trên công trạng của họ ch ứ không nên tùy thu ộc
vào dòng dõi của họ. Và nên lấy các thiện ích chung cùng s ự đ ồng thu ận
của xã hội về chúng làm nguyên tắc cai trị đất nước.
Theo Mặc Tử, thiên hạ trị hay loạn, xã tắc yên hay nguy đều từ nguồn gốc
sâu xa là có hay không việc thực hành “kiêm ái”. Có thể nói, “kiêm ái” là chủ
thuyết trung tâm của Mặc Tử, các luận thuyết khác đều từ đây suy toả ra, cũng
như vun đắp vào.
Sách Mặc Tử có ba thiên bàn về “kiêm ái” (Kiêm ái thượng, trung, hạ).
Theo Mặc Tử, “kiêm” là gồm gộp lại hết thảy cho nhau, trái với “biệt” là chia rẽ,
phân biệt nhau. Còn “ái” là lòng yêu thương con người, trái với “ố” là sự thù
ghét lẫn nhau. Theo đó, “kiêm ái” trước hết là gồm yêu hết thảy mọi người. Nếu
như Khổng Tử chủ trương “yêu thương người thân, quý trọng người sang”, thì
sự yêu thương của Mặc Tử đã vượt qua giới hạn phân chia giai cấp, phân biệt
mình - người, thân - sơ, quý - tiện. Không chỉ trong tư tưởng, mà chính hành
động nghĩa hiệp trong suốt cuộc đời của ông đã nói lên điều đó.
Vì sao phải yêu thương nhau? Theo Mặc Tử, căn nguyên của sự chiến
tranh hỗn loạn là do không yêu thương nhau, hiềm thù nhau mà ra. Mặc Tử nói:
“Thử xét loạn ở đâu ra? ở chỗ không biết yêu nhau mà ra. Tôi con không hiếu
với vua cha, gọi thế là loạn. Con chỉ yêu mình không yêu cha, cho nên mới làm
thiệt cha để lợi cho mình, em chỉ yêu mình không yêu anh, cho nên mới làm
thiệt anh để lợi cho mình. Bề tôi chỉ yêu mình không yêu vua, cho nên mới làm
thiệt vua để lợi cho mình, thế gọi là loạn. Dẫu đến cha không thương con, anh
không thương em, vua không thương bề tôi, cũng là những điều thiên hạ vẫn gọi
8



là loạn. Cha chỉ yêu mình không yêu con, cho nên mới làm thiệt con để lợi cho
mình; anh chỉ yêu mình không yêu em, cho nên mới làm thiệt em để lợi cho
mình; vua chỉ yêu mình không yêu bề tôi, cho nên mới làm thiệt bề tôi để lợi
cho mình. Dẫu đến kẻ trộm giặc thiên hạ cũng vậy. Kẻ ăn trộm chỉ yêu nhà mình
không yêu nhà khác, cho nên mới ăn trộm nhà khác để làm lợi cho nhà mình; kẻ
làm giặc chỉ yêu thân mình mà không yêu thân người, cho nên mới hại người
khác để làm lợi cho thân mình… Dẫu đến các quan đại phu làm loạn nhà nhau,
các nước chư hầu đánh lẫn nước nhau cũng vậy. Các quan đại phu đều yêu nhà
mình không yêu nhà khác, cho nên mới làm loạn nhà khác để làm lợi nhà mình;
các nước hầu đều yêu nước mình không yêu nước khác, cho nên mới đánh nước
khác để làm lợi cho nước mình. Các vật gây loạn cho thiên hạ đều thế thôi”[5, tr
83, 84].
Vậy nên, theo Mặc Tử, để giải cứu cho cảnh hỗn loạn của xã tắc, sự tranh
cướp nhau, làm hại nhau, bắt nạt nhau, khinh rẻ nhau, lừa phỉnh nhau thì con
người phải từ bỏ cái “biệt”, cấm chỉ thù ghét nhau, khuyến khích yêu thương
nhau. ở thiên Kiêm ái thượng, Mặc Tử nói: “Nếu như thiên hạ gồm cùng yêu
nhau, ai ai cũng yêu cha anh và vua như yêu thân mình, ghét làm những điều bất
hiếu, coi con em và bề tôi như yêu thân mình, ghét làm những điều bất từ, thì sự
bất hiếu, bất từ sẽ không còn nữa. Còn có trộm giặc nữa chăng? Đã coi nhà
người như nhà mình, thì ai ăn trộm? Đã coi thân người như thân mình, thì ai làm
giặc? Đã coi nước người như nước mình thì ai đánh nhau? Cho nên cái nạn làm
loạn nhà nhau, chư hầu đánh lẫn nước nhau sẽ không còn nữa. Nếu như thiên hạ
đã gồm yêu nhau, nước nọ với nước kia không đánh lẫn nhau, nhà nọ với nhà
kia không làm loạn nhau, trộm giặc không có, vua tôi cha con đều hiếu từ, như
thế thì thiên hạ trị. Cho nên, thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ, không thể
không cấm chỉ sự ghét nhau và khuyến khích sự yêu nhau”[5, tr88, 89].
Cốt lõi của “kiêm ái” là yêu thương nhau. Vậy nên, “kiêm ái" cũng có
nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa là người thực hiện kiêm ái, tức là người

9


có lòng nhân nghĩa, ngăn cản mọi sự căm ghét, hóa giải thù hằn nhau, khuyên
con người yêu thương lẫn nhau.
Theo thuyết “kiêm ái”, sự yêu thương nhau sẽ loại trừ tai họa cho thiên
hạ, vì khi thương yêu nhau, họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ lẫn nhau, làm lợi cho
nhau. Ví như kẻ sĩ thực hành “kiêm ái” trở thành cao sĩ trong thiên hạ là “vì thân
bạn như thân mình”, họ “thấy bạn đói thì cho ăn, rét thì cho mặc, ốm đau thì
thăm nuôi, chết thì chôn cất”. Hoặc, vua thực hành kiêm ái “trước phải vì thân
muôn dân, sau mới vì đến thân mình… là bậc minh quân trong thiên hạ. Bậc
minh quân đó thấy dân đói thì cho ăn, rét thì cho mặc, đau ốm thì thăm nuôi,
chết mất thì chôn cất”. Thực hành “kiêm ái” còn làm cho “những người già nua
không vợ con, có kẻ hầu nuôi cho trọn tuổi thọ, những kẻ nhỏ yếu mồ côi không
cha mẹ, có chỗ nương tựa cho lớn cái thân”… Từ đó, có thể thấy, ngoài nhân
nghĩa, “kiêm ái” còn có nội dung “lợi”. “Kiêm ái” mang lại cái lợi cho người
thực hành nó và cho người khác, cho xã hội, đó là công lợi – “làm lợi cho hết
thảy mọi người như nhau” và cuối cùng, cái lợi lớn nhất là quốc thái dân an,
thiên hạ thái bình thịnh vượng. “Kiêm ái” phải vì công lợi và công lợi chính là
tiêu chí để xét xã hội có thực sự “kiêm ái” hay không. Đó chính là chủ trương
dùng “kiêm tương ái, giao tương lợi” thay thế cho “biệt tương ố, giao tương tặc”
của Mặc Tử.
Yêu thương, làm lợi cho cả thiên hạ - lý tưởng mà “kiêm ái” vạch ra - quả
là có ý nghĩa và công dụng to lớn, nhưng liệu nó có thực hành được chăng trong
cái xã hội tranh đoạt khốc liệt từng ngày “đánh nhau giành đất thây chết đầy đất,
đánh nhau giành thành thây chất đầy thành” thời ông? Người đời bảo rằng khó
thực hiện lắm, chẳng khác nào như xách núi Thái Sơn nhảy qua sông Hoàng,
sông Tế. Mặc Tử biện thuyết rằng: Nâng núi Thái Sơn vượt Hoàng Hà, Tế Thủy
phải mất bao nhiêu là sức lực! Xưa nay chưa ai làm nổi! Việc yêu thương giúp
đỡ lẫn nhau hoàn toàn khác cái đó. Tứ vị thánh nhân xưa như Hạ Vũ, Thang

Thương, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương đều đã từng làm, cho nên yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau không phải là không làm được. Ví như vua Vũ nhà Hạ tự thân
10


cầm sọt, cuốc, dẫn dân chúng đi chống lũ, khơi thông sông ngòi, nối liền các
sông ngòi. Ông đã vượt trăm sông nghìn núi, mưa gió dầm dề, gió thổi dựng tóc,
đi đến mức teo hết các cơ đùi, lông chân trơ trụi hết. Hoặc như Thang vương
khấn cầu Thượng đế miễn trừ tai họa cho chúng sinh, xin nhận hết tội lỗi về thân
mình… Ở đây, Mặc Tử đã khôn khéo viện dẫn hình ảnh của các bậc hiền quân
xưa để làm tấm gương minh chứng.
Theo Mặc Tử, thực hành “kiêm ái” không có gì khó cả, vấn đề là ở chỗ
các bậc bề trên, bậc quân vương có muốn, có thích làm hay không. Ông nói:
“Ngay cả đánh nhau giành thành, tự giết mình để giữ danh tiếng, đó là việc làm
trăm họ đều cho là khó nhưng khi vua đã muốn thì bề tôi vẫn làm được, huống
hồ thương yêu nhau, làm lợi cho nhau chẳng giống đánh thành, giết mình. Yêu
người thì người yêu lại mình. Làm lợi cho người thì người làm lợi cho mình. Cái
đó đâu có khó. Chỉ vì các bậc bề trên không muốn đưa nó thành việc chính sự,
kẻ sĩ không muốn đưa nó thành một đức hạnh nên mới không thực hiện được mà
thôi”[5, tr96]. Ở đây, theo Mặc Tử, “kiêm ái” phải trở thành đạo lý trước hết của
bậc thánh nhân, vì nó quyết định đến trị hay loạn của thiên hạ. Đây là tư tưởng
rất hay của Mặc Tử, thông qua các bậc quân vương, mượn chính trị làm phương
tiện để truyền bá và thực hành “kiêm ái”. Với ông, vua càng nhân từ thì tôi càng
trung và ngược lại, cha càng hiền thì con càng hiếu và ngược lại, con người càng
yêu thương nhau thì hiềm thù, tranh đoạt nhau và hậu quả của nó càng bị loại
bỏ.
Có thể nói, “kiêm ái” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả cuộc đời và tư tưởng của
Mặc Tử. Chính nó đã đem lại sự nổi tiếng cho bản thân Mặc Tử và học phái Mặc
gia. Người đương thời nườm nượp đổ về theo Mặc Tử. Mạnh Tử, người kế tục
và cổ súy xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử, đã phải lo lắng thốt lên rằng: “Ngày

nay những kẻ nói đạo trong thiên hạ chẳng theo về với họ Dương (tức Dương
Chu, thuộc phái Đạo gia) thì cũng theo về với họ Mặc… Thuyết của họ Dương
và họ Mặc mà không tắt thì đạo của Khổng Tử chẳng được sáng tỏ” (Mạnh Tử,
Đằng Văn Công hạ). Hàn Phi Tử, đại biểu xuất sắc của Pháp gia nhận định:
11


“Những học giả nổi tiếng trên đời, thì có bọn Nho và bọn Mặc. Bọn Nho cao
nhất là Khổng Khâu, bọn Mặc cao nhất là Mặc Địch”. Đội ngũ học trò Mặc Tử
có đức hạnh và lòng quả cảm, sẵn sàng nhảy vào lửa, đạp chân lên lưỡi dao, chết
mà không quay gót, xả thân vì nghĩa. Tại sao Mặc gia có thể nổi tiếng và ảnh
hưởng đến vậy? Lý do đơn giản là, chủ thuyết “kiêm ái” đã mang trong mình
những giá trị nhân bản sâu sắc, mang hoài vọng của đông đảo nhân dân tầng lớp
dưới của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. “Kiêm ái” đã lấy tình yêu thương để
thức tỉnh lương tri, xoa dịu lòng người, phản đối bạo lực phi nghĩa, tranh đoạt
nhau tàn khốc…
Kiêm ái – tình yêu thương giữa con người, đồng loại với nhau là một chân
lý trường tồn trong xã hội. Tình yêu thương con người chính là gốc rễ của đức
và đức lấy đó làm kế sách lâu dài để cảm biến lòng người, thâu phục nhân tâm,
hóa giải hận thù tranh đoạt nhau. Đó chính là ý nghĩa nhân bản và tiến bộ của
thuyết “kiêm ái”.
Tất nhiên, cả Trung Hoa cổ đại và nhân loại ngày nay đều cần đến “kiêm
ái”, nhưng xét trong toàn cục lịch sử tư tưởng Trung Quốc thì vị thế Mặc học
quá ư mờ nhạt là một thực tế. Nguyên do rất đơn giản, đó là lý tưởng “kiêm ái”
thiếu thuyết phục, mang tính phi giai cấp, không thiết thực, không tưởng. Khi
thiên hạ đã từ công hữu sang tư hữu, xã hội phân hoá thứ bậc quý - tiện, sang hèn, của cải và quyền lực dồn tụ vào trong tay một thiểu số người là không thể
nào ngăn cản được, thì làm sao có thể thực hành “kiêm ái”, làm sao bậc vương
công, quý tộc có thể quý trọng, yêu thương đám tiện dân như chính bản thân
mình được? Chắc chắn là rất khó, khó như xách núi Thái Sơn nhảy qua sông
Hoàng, sông Tế; khó như sức cày của một nông dân làm sao cứu đói được thiên

hạ; khó như sức dệt của một người đàn bà làm sao cứu được rét cho thiên hạ;
khó như chính mỗi một Mặc Tử cố gắng làm việc nghĩa để cứu đỗi cho cả thiên
hạ bất nghĩa… Hoặc tỷ như, cố gắng của Mặc Tử dẫu có giúp cho các bậc thánh
vương đặt thành “luật kiêm ái” đi chăng nữa thì cũng chỉ có thể là những điều
luật nằm trên giấy mà thôi trong bối cảnh bấy giờ. Khi xã hội đã xuất hiện tư
12


hữu thì nó đồng thời tiềm ẩn và phát sinh sự tranh đoạt nhau, đó là điều tất yếu.
Do vậy, chỉ với “kiêm ái”, Mặc Tử khó có thể “phi công – phản đối chiến tranh”.
Có thể nói, học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử chỉ là giải pháp cho phần ngọn,
chứ không cho phần gốc.
Không chỉ có vậy, do “kiêm ái” cũng như Mặc học không dung nạp vào
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nên trong suốt thời kỳ chuyên chế, chúng
luôn bị cấm đoán, bài xích; bị cho là “quái dị”, “phi thánh vô pháp”… Ngay cả
“kiêm ái” cũng bị xem là tội trạng lớn, tội bất trung, bất hiếu. á thánh Mạnh Tử
với phong thái tao nhã, dung dị, song cũng cho rằng: “Dương Chu, Mặc Địch ăn
nói bừa bãi, thiên hạ thường nghe theo Dương Chu hoặc Mặc Địch, thuyết vị
ngã của Dương Chu còn biết đến quân vương, thuyết kiêm ái của Mặc Địch
không còn biết đến thân phụ nữa, kẻ vô quân vô phụ chính là cầm thú vậy”. Sự
thật, trong chế độ phong kiến chuyên chế, dưới nhãn quan của giai cấp thống trị
thì chỉ có vương Đạo, còn dân làm gì có đạo. Do đó, dân Đạo của Mặc Tử không
những không là công cụ tinh thần đắc lực cho các thế lực thống trị đương thời,
trở nên lạc điệu, không hợp tiết tấu với mọi triều đại chuyên chế, mà thậm chí
còn trở nên nguy hiểm, nên không những chưa bao giờ trở thành tư tưởng chính
thống mà Mặc đạo còn luôn bị phỉ báng là tà đạo, Mặc tặc hoặc Mặc phỉ. Đó có
lẽ là nguyên nhân chính khiến cho Mặc học sớm bị lu mờ và đi vào quên lãng.
Một sự quên lãng tàn nhẫn đến nỗi người đời không còn lưu tâm chính xác đến
năm sinh, năm mất và nơi ông sinh ra.
2.3 Quan điểm về thiên mệnh quỷ thần

Mặc Tử còn phê phán Khổng Tử về việc không tin vào quỉ th ần, tiêu
phí tiền bạc vào cúng tế và ủng hộ tôn ti trật tự. Ông muốn đặt sang m ột
bên cái gọi là tôn trọng cổ truyền và thế giá để bắt đầu nhìn vào xã h ội
trên căn bản lý trí. Về tri thức luận, Mặc Tử là người duy nghi ệm ch ủ
nghĩa. Dường như ông cũng có ý tưởng nào đó về m ột đ ấng t ối cao có c ứu
cánh tính và ý chí, được biểu lộ trong tri giác về trật tự xã hội. Ông lập lu ận
13


rằng vì mọi người đều bình đẳng trong con m ắt của tr ời, do đó chúng ta
nên yêu thương nhau một cách bình đẳng. Lập luận đó về sau bị Mạnh T ử
cho là xúc phạm tới toàn bộ cảm xúc nhân tính.
Mặc Tử cũng lập luận rằng người dân hiểu rõ cái gì có l ợi cho h ọ và
cái gì có hại cho họ. Vì thế, điều chân chính phải làm chính là đi ều đáp ứng
được cái thiện chung. Do đó, ông cho rằng trong xã h ội, s ự thăng ti ến c ủa
người dân nên đặt cơ sở trên công trạng của họ ch ứ không nên tùy thu ộc
vào dòng dõi của họ. Và nên lấy các thiện ích chung cùng s ự đ ồng thu ận
của xã hội về chúng làm nguyên tắc cai trị đất nước.
3. Ý nghĩa phương pháp luận và ảnh hưởng của tư tưởng Măc tử
đối với xã hội Việt Nam.
3.1. Ý nghĩa phương pháp luận
Kiêm ái là tư tưởng trung tâm trong học thuyết của Mặc tử. Kiêm ái có
nghĩa là tình yêu thương bao la giữa con người với nhau không phân biệt đẳng
cấp, tầng lớp.
Có Kiêm ái thì những người dù không phải anh em của nhau cũng thương
yêu nhau như ruột thịt, con người không chỉ có hiếu nghĩa với cha mẹ gia đình
mình mà yêu thương hiếu nghĩa với cả cha mẹ của người khác, không những
người trong nước với nhau mà cả những người nước khác cũng yêu thương vì
lợi ích chung của nhau. Như vậy thì ai ai trong xã hội cũng được hưởng hạnh
phúc yên bình, cùng được yêu thương chăm sóc.

Kiêm ái của Mặc tử chú trọng tới một tình yêu thương bình đẳng, khác
với Nhân ái của Khổng tử, là một tình yêu thương có tầng lớp, có đẳng cấp.
Sở dĩ Khổng tử xây dựng một tình thương yêu giữa con người với nhau
nhưng đặt trên cơ sở phân biệt đẳng cấp, thân sơ là vì Khổng giáo quan trọng
đến chữ Tín, đến sự tìn tưởng giữa con người với nhau. Trong xã hội tình
14


thương yêu giữa con người với con người không chỉ là xuất phát từ bản chất của
con người mà còn vì mối quan hệ cùng có lợi với nhau. Do đó, để tình yêu
thương đó có cơ sở thì phải được thiết đặt trên những quan hệ thân thiết, thân
thuộc. Tùy vào mức độ thân sơ, tùy vào mức độ tin tưởng mà có mức độ tình
cảm quan tâm khác nhau.
Tuy rằng việc phân biệt đối tượng và phân biệt cách yêu thương, mức độ
yêu thương là cách phù hợp để ứng xử trong những tình huống cụ thể. Nhờ dựa
trên mức độ tin tưởng để yêu thương mà tình yêu thương đó sẽ được đền đáp
một cách thích đáng.
Thế nhưng điều này vô tình làm tình yêu thương của con người bị bó hẹp
lại, mang tính động cơ nhiều hơn. Nó sẽ dẫn đến sự chia rẽ những gia tộc khác
nhau, những dân tộc khác nhau, quốc gia khác nhau. Giữa con người đã vô tình
hình thành lên những giới hạn phân cách.
Vì thế Kiêm ái của Mặc tử dù rằng trong những tình huống cụ thể có thể
nó không đạt được hiệu quả cao, và cần kiểm nghiệm hiệu quả trong một thời
gian dài, phạm vi rộng. Nhưng nhờ có Kiêm ái mà sợi dây gắn kết con người
trong xã hội sẽ ngày càng bền chặt hơn, tình thương của con người với con
người sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.
Như vậy, tư tưởng Kiêm ái của Mặc Tử là sự thể hiện tinh thần dân chủ
bình đẳng sơ khai và chủ nghĩa vị tha trong triết học của ông. Nó phản ánh sâu
sắc ước mơ của đại đa số nhân dân lao động nước Tàu thời bấy giờ. Chính vì thế
mà Triết học Mặc Tử không được coi là công cụ tinh thần đắc lực của kẻ thống

trị, không được giới thống trị ủng hộ, nên dần dần chìm vào quên lãng
3.2. Ảnh hưởng tư tưởng Mặc gia đối với xã hội Vi ệt Nam hi ện nay
Trong xã hội phong kiến, Việt nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa
Trung hoa. Cùng với sự du nhập của chữ Hán, sự đồng hóa văn hóa Hán, những
15


luồng tư tưởng từ Trung quốc cũng được truyền bá vào Việt nam. Tuy trong chế
độ "độc tôn Nho học" các học thuyết khác đều bị lu mờ trong luận đàm của các
trí sĩ xưa, học thuyết của Mặc tử cũng như vậy. Có điều khác là do tư tưởng
nhân ái tương thân của Mặc tử tìm được nét đồng điệu với tâm thức của người
Việt nên nó đã ăn rễ sâu vào cách sống cách nghĩ của người Việt suốt mấy ngàn
năm nay.
Hồ Chí Minh khi còn sống cũng đã tự nhận mình chịu ảnh hưởng của các
triết gia Trung quốc trong đó có Mặc tử. Tuy Người cũng không phát biểu một
bài viết nào liên quan đến Mặc tử song trong cuộc sống của người, các bài báo
và tư tưởng Bác ái của người ta có thể thấy một nét tương đồng với tư tưởng
Kiêm ái của Mặc tử.
Trong hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã đi khắp năm châu bốn biển,
tiếp xúc sống và làm bạn với người da đen da trắng da vàng... Người nhận ra
rằng ở nơi đâu cũng có những con người đáng thương bị bóc lột cần được giúp
đỡ, cần giải phóng, và dù là người Trung quốc, người Nga, người Pháp, người
Đức, người Anh người Mĩ... đều có nhiều người tốt sẵn sàng làm bạn, sẵn sàng
giúp đỡ.
Từ đó Người rút ra một kết luận rằng lòng nhân ái là vô biên giới, khi
những con người yêu thương và sống vì người khác, không phân biệt thân sơ,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, không phân biệt màu da sắc tộc... thì tình
yêu thương bác ái ấy sẽ có một sức mạnh lớn lao nó sẽ thay đổi thế giới để mang
đến những hạnh phúc yên bình cho tất cả mọi người.
Cả cuộc đời của Người, mỗi nơi in dấu chân người, mỗi hành động mỗi

lời nói của Người luôn thể hiện một tình bác ái vô biên.Với dân tộc Việt nam,
người đã hi sinh bản thân mình chỉ để thực hiện một ước mong đó là nước nhà
độc lập, dân tộc giải phóng khỏi ách nô lệ, bóc lột thực dân.

16


Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu
lớn, mặt trái của kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rộ rõ và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đạo đức xã hội, gây cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững
cũng như sự hình thành, phát triển các chuẩn mực đạo đức mới xã hội chủ nghĩa
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang hướng đến. Theo chúng tôi, thuyết
“kiêm ái” của Mặc Tử có những giá trị nhất định có thể góp phần vào việc khắc
phục mặt trái về đạo đức xã hội của nền kinh tế thị trường. Bởi, nó có những giá
trị gần gũi với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, như tinh thần
tương thân, tương ái, vị tha,, khoan dung; v.v..
“Kiêm ái” cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Với dân tộc ta, nhân nghĩa đã trở
thành truyền thống đạo lý cao thượng. Đặc biệt, tinh thần đại nghĩa của dân tộc
ta đã khiến cho bạn bè năm châu kính phục, cảm hoá được những kẻ thù hung ác
nhất, giúp “ăn năn hối lỗi”, “cải tà quy chánh” những người lầm đường lạc lối.
Rõ ràng, từ lòng vị tha, khoan dung trong cư xử của mỗi con người Việt Nam
đến chính sách khoan hồng của Đảng ta đều ẩn chứa nội dung của “kiêm ái”.
“Kiêm ái” với giá trị nhân nghĩa của nó còn có ý nghĩa lớn trong bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Không thể phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách bền vững nếu nó không được đặt
trên cái gốc của đạo đức, của nhân nghĩa. Phát triển kinh tế bền vững phải gắn
liền với tiến bộ xã hội, văn minh cho con người và cho cả nhân loại, chứ không
thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, bất chấp tất cả, đánh đổi cả nhân nghĩa, tình
yêu thương con người. Phát triển phải mang ý nghĩa nhân văn, đó mới là ý nghĩa
tiến bộ, cao cả của nó, phát triển vì sự phát triển của con người và nhân loại.

“Kiêm ái” không chỉ gắn liền với vấn đề nhân nghĩa, mà còn gắn liền với
vấn đề lợi, công lợi. Nội dung này của học thuyết “kiêm ái” cũng có những giá
trị nhất định đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đối với nước ta là rất lớn, nên
thoát nghèo là một trong những mục tiêu hàng đầu của công cuộc cách mạng ở
nước ta hiện nay. Nếu không hướng đến cái lợi, không vươn lên giàu mạnh về
17


kinh tế để sánh vai với các cường quốc năm châu, thì Việt Nam sẽ khó có được
sự bình đẳng, khó giữ được độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cái lợi mà mỗi chủ thể kinh tế thường quan
tâm hướng đến là tư lợi, lợi ích cá nhân và do đó, nhiều khi nó mâu thuẫn, đi
ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích quốc tế. Đó không phải là cái lợi mang nội dung
“kiêm ái”, càng không phải là cái lợi mang ý nghĩa phổ quát trong mục tiêu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Ngày nay khi mà nền kinh tế thị trường len lỏi vào mọi ngõ ngách
của cuộc sống, con người dường như quên hết những giá trị nhân văn c ủa
mình, nhất là với tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay, thì vi ệc nghiên c ứu
thuyết “kiêm ái” nó có ý nghĩa thực tiễn rất. Thuy ết "kiêm ái" mà Mặc tử
đề ra là "yêu người như yêu chính bản thân mình". Khi đã yêu người thì sẽ vì
người (vị tha), mọi nỗ lực trong mọi công việc là để phục vụ cho... người mình
yêu (tức mọi người), và nếu mọi người đều học được đức "yêu người" như thế,
thì bản thân ta cũng sẽ được người phục vụ như thế. Một thế giới như vậy sẽ
không có tranh giành, xung đột, không tham sân si, kiêu mạn, ganh tị... không
hại lẫn nhau, đó là một thế giới hòa bình, an lạc, hạnh phúc..., chính là Thiên
đàng hay Niết bàn tại thế vậy (theo đức Phật thì khi hết tham sân si là Niết bàn).
Đấy là cái đích đến của loài người. Lý lẽ này luôn luôn đúng (tuy rằng rất khó,
quá lý tưởng) bất kể thời gian xưa, nay, ngày sau, bất kể không gian đông hay

tây, nam hay bắc, bất kể chủng tộc, nên có thể gọi là... chân lý.
Như vậy, trong một bối cảnh bi đát, chiến tranh triền miên và mất hết hy
vọng, qua thuyết Kiêm ái, Mặc tử đã nói lên ước mơ của ông cũng như của dân
chúng thời ấy về một thế giới đại đồng. Ông cũng nói đến cách thức cụ thể để
biến ước mơ về một thế giới đại đồng trở thành hiện thực. Đó là con người hãy
yêu thương người khác như yêu chính mình và xem trọng mọi sự của người
khác cũng như mình xem trong mọi sự của mình. Khi đó, con người sẽ sống
18


trong một thế giới ngập tràn yêu thương, chăm sóc và bổ trợ cho nhau. Tuy
nhiên, với một bối cảnh xã hội như thời ấy, Mặc tử chưa đề ra được con đường
và phương pháp đi đến cái đích mà mình mong muốn do hạn chế của thời đại,
nhưng những giá trị đóng góp của ông với lịch sử triết học vẫn nguyên giá trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

GS.TS Nguyễn Hùng Hậu, Triết học phần 1, dành cho học viên cao
học, nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nhàng triết học, Nxb Chính

2.
3.

trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.
Hỏi đáp triết học, Nxb chính trị - hành chính, Hà Nội 2009.
Nguyễn Văn Hiên, Thuyết “Kiêm ái”: nội dung giá trị và ý nghĩa đối

4.
5.


với việc xây dựng đạo đức ở nước ta, Tạp chí Triết học 2010.
Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Thanh niên, 2002.
Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, Lê Anh Minh dịch

6.
7.

8/2005.
Ngô Tất Tố. Mặc Tử. Khai Trí, Sài Gòn, 1959
Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
2003.

19



×