Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Chuyên đề nghiên cứu: PHÁP LUẬT VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI LĨNH VỰC XĂNG DẦU : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.24 KB, 19 trang )

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LẬP PHÁP

Chuyên đề nghiên cứu:
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
XĂNG DẦU : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
(Phục vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về
Dự án Luật Thuế bảo vệ môi trường (sửa đổi))

Hà Nội, tháng 10 năm 2017


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... 3
NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
1. Khái niệm, vai trò của thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu
trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam ................................................................ 4
2. Những bất cập của pháp luật thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 8
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế bảo vệ môi trường đối
với lĩnh vực xăng dầu tại Việt Nam ................................................................ 11
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 18

1


LỜI MỞ ĐẦU



Nhằm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, giảm thiểu
ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, chính phủ các nước đang
nỗ lực điều chỉnh chính sách thuế hướng tới nền kinh tế xanh. Nhiều nước trên
thế giới đã có những điều chỉnh để từng bước hoàn thiện các chính sách thuế,
phí theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch,
tiết kiệm năng lượng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và hỗ trợ việc thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
Tại Việt Nam nhiều chính sách và biện pháp thiết thực góp phần thay đổi
nhận thức và hành động trong việc bảo vệ môi trường sống xanh, sạch, đẹp đã
được ban hành, trong đó chính sách thuế Bảo vệ môi trường (BVMT) là một
trong những giải pháp được đánh giá cao về sự tiến bộ và hiệu quả trên phương
diện thực hiện mục tiêu BVMT và thu ngân sách nhà nước. Thuế bảo vệ môi
trường đối với xăng dầu đã được áp dụng ở Việt Nam từ 1/1/2012 trên cơ sở
luật Thuế bảo vệ môi trường 2010 với mục đích điều tiết hành vi tiêu dùng, kinh
doanh xăng dầu để góp phần bảo vệ môi trường và xây dựng nền kinh tế xanh ở
Việt Nam đồng thời tăng thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sau hơn 4
năm thực hiện, các quy định pháp luật về thuế bảo vệ môi trường đối với xăng
dầu chưa phát huy được hiệu quả trong bảo vệ môi trường
Nhằm cung cấp thêm thông tin cho các vị đại biểu Quốc hội trong quá
trình xem xét, cho ý kiến về Dự thảo Luật Thuế bảo vệ môi trường (sửa đổi),
Viện Nghiên cứu lập pháp xin gửi đến các vị đại biểu Quốc hội chuyên đề
nghiên cứu: “Pháp luật về thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu:
Thực trạng và giải pháp”.

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BVMT

:

Bảo vệ môi trường

EUROSTAT

:

Cơ quan thống kê Châu Âu

ASEAN

:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

IEA

:

Cơ quan năng lượng quốc tế

3


NỘI DUNG
1. Khái niệm, vai trò của thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu
trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam

a. Khái niệm
Ý tưởng sử dụng công cụ thuế để khắc phục những tác động ngoại ứng
có hại tới môi trường đã được Pigou1 đưa ra từ năm 1920 trong tác phẩm “Kinh
tế học phúc lợi” nên thuế bảo vệ môi trường còn có tên là thuế Pigou. Trên thực
tế, thuế bảo vệ môi trường còn được gọi tắt là thuế môi trường. Pigou đã nêu ra
nguyên tắc đánh thuế là : “Mức thuế ô nhiễm (mức thuế môi trường) tính cho
mỗi đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm có giá trị bằng chi phí ngoại ứng do đơn vị
sản phẩm gây ô nhiễm gây ra tại mức sản lượng tối ưu xã hội 2”. Có thể thấy, về
bản chất, thuế Pigou đánh trực tiếp vào người tạo ra ảnh hưởng xấu tới môi
trường, làm tăng chi phí tạo ra ảnh hưởng của họ. Đồng thời, nguồn thu từ thuế
được sử dụng vào việc khắc phục những hậu quả do ảnh hưởng xấu đó tạo ra.
Nhìn chung, lý thuyết về thuế môi trường tương đối đơn giản, tuy nhiên
trong thực tế, việc định nghĩa, phân biệt và phân loại thuế, phí môi trường cũng
chưa có sự thống nhất trên phạm vi quốc tế. Hiện nay, thay vì cố gắng đưa ra
một định nghĩa chính thức về thuế môi trường, người ta có khuynh hướng tập
trung vào những căn cứ tính thuế có liên quan đặc biệt đến môi trường và coi
như những loại thuế như vậy là thuế môi trường. Trong một số trường hợp, căn
cứ tính thuế là sự đo lường hay ước lượng số lượng phát thải của những chất
gây ô nhiễm, như Nox hay SO2.
Dựa trên quan điểm này, Cơ quan thống kê châu Âu (EUROSTAT) đã
đưa ra một định nghĩa về thuế môi trường theo cách tiếp cận thống kê như sau:
“Một loại thuế được xếp vào loại thuế môi trường nếu căn cứ tính thuế là một

Arthur C.Pigou (1877 – 1959) là giáo sư kinh tế chính trị tại trường đại học Cambridge từ 1908 – 1944. Ý
tưởng về thuế ô nhiễm của ông được đề cập lần đầu năm 1920 trong tác phẩm “ Kinh tế học phúc lợi”
2
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh (2003), Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB
Thống kê, tr.100.
1


4


đơn vị vật chất (hoặc đại diện cho nó) của một vật gì đó đã được chứng minh sẽ
gây ra một tác động có hại đặc biệt đến môi trường3”.
Khoản 1, Điều 2, Luật Thuế BVMT 2010 quy định: “Thuế bảo vệ môi
trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa (sau đây gọi chung là
hàng hóa) khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”. Thuế BVMT được
coi là một trong những công cụ kinh tế mang lại hiệu quả cao trong quản lý bảo
vệ môi trường. Thuế BVMT được xây dựng trên hai nguyên tắc cơ bản đã được
quốc tế thừa nhận là “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và “người hưởng thụ
phải trả tiền”.
Thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu là một loại thuế gián
thu, thu vào sản xuất xăng dầu nhằm mục đích với mục đích điều tiết hành vi
tiêu dùng, kinh doanh xăng dầu để góp phần bảo vệ môi trường và xây dựng
nền kinh tế xanh ở Việt Nam đồng thời tăng thu cho ngân sách nhà nước.
b. Vai trò của thuế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực xăng dầu
- Góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đời sống của người dân được nâng cao
rõ rệt. Số liệu thống kê cho thấy, “GDP của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng
nhanh trong hơn 20 năm qua, với tốc độ tăng bình quân khoảng 7%/năm, cao
vào bậc nhất thế giới.Từ một nước có thu nhập thấp khoảng 98 USD/người/năm
vào năm 1999, đã tăng lên 400USD/người/năm vào năm 2000 và năm 2010 là
1200 USD/người/năm; năm 2015 GDP bình quân đầu người đạt khoảng 2.200
USD/người/năm”4, thu nhập bình đầu người năm 2016 đạt 2.215
USD/người/năm5 . Bên cạnh những tác động tích cực thì sự phát triển kinh tế
cũng kéo theo những tác động tiêu cực đối với đời sống, văn hoá, xã hội, đặc
biệt là đối với môi trường. Trong số những vấn đề về môi trường mà Việt Nam


3

Ian Gazley (2006) UK environmental taxes: classification and recent trends, theo EconomicTrends, số 635
tháng 10/2016, tr.15.
4
/>5
Tổng cục Thống kê, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2016.

5


đang phải đối mặt thì ô nhiễm môi trường là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng, ngày
càng gia tăng về số lượng và tính chất.
Vì vậy, để bảo đảm sự phát triển bền vững, Việt Nam cũng như các quốc
gia phải thực hiện rất nhiều kế hoạch, chiến lược, phải sử dụng rất nhiều công
cụ khác nhau để quản lý, bảo vệ môi trường. Luật thuế môi trường năm 2010 ra
đời trong đó có quy định về thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu
cũng nhằm mục tiêu chính là khuyến khích phát triển kinh tế đi đôi với giảm ô
nhiễm môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế một cách bền vững, đồng
thời hạn chế những hành vi tiêu cực của các tổ chức và cá nhân trong quá trình
sản xuất và sử dụng gây hậu quả xấu đến môi trường sinh thái.
- Điều tiết quan hệ sản xuất hàng hóa
Thuế bảo vệ môi trường còn đồng thời làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ, từ
đó sử dụng thuế để điều chỉnh sản xuất, tiêu dùng theo hướng bảo vệ môi
trường. Đối với người tiêu dùng khi muốn mua với giá thành hợp lí và nhà sản
xuất muốn bán được nhiều sản phẩm với chi phí ít, lợi nhuận cao thì thuế bảo vệ
môi trường sẽ có nhiều tác dụng khuyến khích điều chỉnh định hướng sản xuất
và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường. Khi đó người tiêu dùng sẽ
phải cân nhắc hơn khi quyết định lựa chọn những sản phẩm không thân thiện
với môi trường.Đồng thời các nhà sản xuất cũng phải tính toán lại kế hoạch sản

xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất sạch hơn, ít chất thải hơn, giảm được chi phí
xử lí chất thải ra ngoài môi trường và mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Từ đó sẽ
thúc đẩy nghiên cứu tìm ra những nguồn năng lượng mới, công nghệ sản xuất
mới hiệu quả hơn. Tuy nhiên, giá cả chỉ là một trong nhiều yếu tố tác động đến
hành vi của nền kinh tế. Thành công của thuế bảo vệ môi trường trong việc điều
chỉnh hành vi kinh tế còn phụ thuộc vào từng thị trường cụ thể đối với từng đối
tượng đánh thuế.
- Góp phần xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam và đảm bảo các cam
kết về môi trường

6


Xăng dầu là đối tượng quan trọng nhất, được xếp vị trí đầu tiên trong
danh sách 8 nhóm hàng hoá, sản phẩm chịu thuế6. Lí do được đưa ra nhằm giải
thích cho việc đưa xăng dầu vào nhóm hàng hoá, sản phẩm chịu thuế là do mức
độ và khả năng gây tác động xấu tới môi trường của xăng dầu khi sử dụng là rất
lớn. Xăng dầu là một trong những loại nhiên liệu hoá thạch được sử dụng rất
thường xuyên trong sản xuất cũng như tiêu dùng ở Việt Nam và trên thế giới.
Lượng xăng dầu tiêu thụ của Việt Nam trong những năm gần đây luôn tăng
nhanh, lượng tiêu thụ trong nước năm 2015 đạt khoảng 17-17,5 triệu m3 /tấn
các loại, tăng khoảng 12-15% so với năm 20147.
Bên cạnh đó, xăng dầu khi bị đốt cháy sẽ thải ra khí CO2 là nguyên nhân
chính dẫn đến sự nóng lên của trái đất, gây ra nhiều tác động xấu tới môi trường
của Việt Nam cũng như toàn cầu, vì vậy, việc hạn chế tiêu dùng xăng dầu là rất
cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường. Như vậy, có thể
nói, thuế BVMT với xăng dầu là một trong những công cụ kinh tế trong quản lý
môi trường rất quan trọng mà Việt Nam đang thực hiện nhằm bảo vệ môi
trường. Thuế BVMT đối với xăng dầu đã quy định chi phí BVMT vào giá bán
sản phẩm xăng dầu chịu thuế để người tiêu dùng – người gây ô nhiễm phải gánh

chịu những chi phí đó theo đúng tinh thần của nguyên tắc số 16 trong Tuyên bố
Rio 1992, đồng thời, giúp thực hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật BVMT là “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Mục tiêu chính của thuế
BVMT đối với xăng dầu không phải là nhằm tăng thu cho ngân sách nhà nước
mà nhằm làm tăng giá thành của các sản phẩm xăng dầu, từ đó dựa vào quy luật
giá cả của thị trường để khuyến khích, định hướng để người tiêu dùng tự thay
đổi thói quen tiêu dùng, giảm thiểu tiêu thụ các sản phẩm xăng dầu hoá thạch và
chuyển đổi sang sử dụng các sản phẩm nhiên liệu thay thế thân thiện hơn với
môi trường như xăng sinh học hoặc sử dụng các phương tiện giao thông công
cộng hoặc các phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu sạch… do có giá
thành rẻ hơn so với sử dụng xăng dầu hoá thạch. Từ đó thông qua quy luật cung
cầu của thị trường để tác động các chủ thể sản xuất, kinh doanh xăng dầu
6
7

Điều 3, Luật thuế BVMT 2010
/>
7


chuyển đổi hoặc tăng cường kinh doanh các sản phẩm nhiên liệu thân thiện hơn
với môi trường, cũng như khuyến khích giao thông công cộng phát triển.
Bên cạnh đó, thuế BVMT đối với xăng dầu cũng được xác định là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban
hành. Chiến lược này đã khẳng định để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh,
Việt Nam cần“áp dụng các công cụ thị trường nhằm thúc đẩy thay đổi cơ cấu và
nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, khuyến khích sử dụng các loại nhiên
liệu sạch, hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, có lộ trình xóa bỏ bao cấp đối với
nhiên liệu hóa thạch, đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả”8;

“Áp dụng một số công cụ kinh tế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế và phí BVMT
để điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý, trước hết đối với những
sản phẩm có hại cho sức khỏe, văn hóa và môi trường”9. Như vậy có thể thấy,
việc áp dụng thuế BVMT đối với xăng dầu của Việt Nam là phù hợp với xu
hướng tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường trên
thế giới, không chỉ góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước mà quan
trọng hơn là giúp BVMT và góp phần xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam.
2. Những bất cập của pháp luật thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu ở
Việt Nam hiện nay
Thuế BVMT đối với xăng dầu ở Việt Nam hiện nay được thực hiện trên
cơ sở luật Thuế BVMT năm 2010 và các văn bản hướng dẫn như Nghị định số
67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thuế BVMT; Thông tư số 32/VBHN-BTC ngày 14/7/2014 của Bộ tài chính về
hướng dẫn thi hành nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 8/8/2011 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế BVMT; Nghị
quyết 888a/2015/UBTVQH13 về biểu thuế bảo vệ môi trường… Bên cạnh đó,
Việt Nam đã bước đầu tạo lập được thị trường xăng dầu, trong đó xăng dầu hoá
thạch đã có đối thủ cạnh tranh là xăng sinh học E5, dự kiến sẽ đưa ra thị trường
Mục 3, Chương III, Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
25/9/2012.
9
Điểm d, Mục 13, Chương III, Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh do Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 25/9/2012.
8

8


xăng sinh học E10 để dần thay thế cho xăng truyền thống. Đồng thời, Việt Nam
đã và đang thiết lập, hoàn thiện nâng cao chất lượng của các giải pháp thay thế

như phát triển hệ thống giao thông công cộng và khuyến khích các phương tiện
giao thông sử dụng nhiên liệu sạch… Việt Nam cũng đã làm khá tốt 4 yêu cầu
rất quan trọng, tạo nền tảng tốt để đảm bảo hiệu quả của thuế BVMT đối với
xăng dầu: i) Xây dựng được Luật Thuế BVMT năm 2010 tương đối rõ ràng,
minh bạch; ii) Bảo đảm người dân có cơ hội được tiếp cận dễ dàng với các sản
phẩm thay thế như xăng sinh học, các phương tiện giao thông công cộng; các
phương tiện sử dụng năng lượng sạch; iii) Mức thuế đặt ra phù hợp và không
gây tác động xấu đến đời sống kinh tế của người dân; iv) Bước đầu đã xây dựng
được lộ trình đưa xăng sinh học E5 và các loại xăng sinh học khác đến gần hơn
với người tiêu dùng cũng như phát triển hệ thống phương tiện giao thông công
cộng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật và việc thực hiện vẫn còn một số bất
cập là nguyên nhân dẫn đến thuế BVMT đối với xăng dầu mới chỉ mang lại hiệu
quả trong tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước chứ chưa phát huy được hiệu
quả trong điều tiết hành vi tiêu dùng và kinh doanh xăng dầu.
a. Quy định của pháp luật về đối tượng thu thuế chưa phù hợp khi xác
định cả phần xăng hoá thạch trong xăng sinh học E5 là đối tượng chịu thuế bảo
vệ môi trường
Xăng sinh học E5 là xăng được pha trộn giữa 5% nhiên liệu sinh học
etanol và 95% là xăng hoá thạch (xăng khoáng). Xăng E5 được coi là một trong
những loại xăng sinh học thân thiện với môi trường. Xăng E5 đã và đang được
sử dụng ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam do có hàm lượng khí thải gây ô
nhiễm môi trường thấp hơn nhiều so với xăng hoá thạch Ron92 thông thường,
đặc biệt là CO (đến 44%), Hydrocarbon (đến 25%) và NOx (đến 10%). Xăng
E5 được đưa ra thị trường Việt Nam từ năm 2008 và ngày càng được phủ sóng
rộng rãi. Tuy nhiên, Điều 3 luật Thuế BVMT năm 2010 quy định về đối tượng
chịu thuế BVMT đối với nhóm xăng dầu bao gồm a) Xăng, trừ etanol; b) Nhiên
liệu bay; c) Dầu diezel; d) Dầu hỏa; đ) Dầu mazut; e) Dầu nhờn; g) Mỡ nhờn.
9



Khoản 1, Điều 2 Nghị định 67/2011/NĐ-CP quy định cụ thể về đối tượng chịu
thuế thì “đối với xăng, dầu, mỡ nhờn quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Luật
Thuế bảo vệ môi trường là các loại xăng, dầu, mỡ nhờn gốc hóa thạch. Đối với
nhiên liệu hỗn hợp chứa nhiên liệu sinh học và xăng, dầu, mỡ nhờn gốc hóa
thạch, chỉ tính thu thuế bảo vệ môi trường đối với phần xăng, dầu, mỡ nhờn gốc
hóa thạch”. Như vậy, theo quy định này, 95% phần xăng khoáng nền của xăng
E5 cũng phải chịu thuế BVMT. Do vậy, mức thuế BVMT của xăng E5 hiện nay
vẫn là 2.850 đồng/lít, chỉ thấp hơn so với xăng khoáng Ron92 thông thường 150
đồng/lít. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến giá thành xăng sinh học
E5 không chênh lệch nhiều so với xăng khoáng Ron92 (chỉ từ 0 đồng đến hơn
500 đồng/lít tuỳ từng thời điểm). Do không tạo được sự chênh lệch về giá trên
thị trường giữa xăng sinh học và xăng hoá thạch nên xăng sinh học chưa thực sự
thu hút được người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp vận tải. Sự thờ ơ của
người tiêu dùng cũng là lí do dẫn đến việc các doanh nghiệp kinh doanh xăng
dầu không mặn mà với việc kinh doanh xăng sinh học E5. Vì vậy, thuế bảo vệ
môi trường đối với xăng dầu với tư cách là một trong những công cụ kinh tế
trong bảo vệ môi trường được vận hành dựa vào quy luật giá cả và quy luật
cung cầu của thị trường đã không thể phát huy được vai trò điều tiết hành vi tiêu
dùng, kinh doanh xăng dầu của người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp.
b. Quy định về thuế suất tuyệt đối đối với xăng dầu chưa phù hợp
Khoản 1, Điều 2 luật thuế BVMT năm 2010 quy định “Thuế BVMT là
loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu
đến môi trường”. Để đảm bảo hiệu quả thu thuế, Luật thuế BVMT đã quy định
mức thuế suất tuyệt đối đối với các hàng hoá, sản phẩm chịu thuế. Theo Điều 8
luật Thuế BVMT 2010 và Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13 thì mức thuế
suất tuyệt đối của xăng (trừ etanol) là 3000đ/lít; dầu hoả 300đ/lít; dầu diazel
1.500đ/lít… Tiền thuế này sẽ được cộng vào giá thành của các sản phẩm xăng
dầu khi bán ra, như vậy, người tiêu dùng chính là chủ thể chịu thuế BVMT. Quy
định này giúp đảm bảo hiệu quả thu thuế của nhà nước nhưng lại dẫn đến việc

nhiều người tiêu dùng không nhận thức được việc mình đang là chủ thể chịu
10


thuế BVMT khi tiêu dùng xăng dầu cũng như các sản phẩm chịu thuế khác. Vì
vậy, nhiều người tiêu dùng chưa ý thức được việc sẽ hạn chế tiêu dùng xăng dầu
hoá thạch hoặc chuyển sang sử dụng các sản phẩm, giải pháp thay thế khác
giống như nhà nước mong muốn khi xây dựng luật thuế BVMT.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế bảo vệ môi trường
đối với lĩnh vực xăng dầu tại Việt Nam
a. Tiếp tục hoàn thiện Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng dầu
Luật Thuế BVMT hiện hành quy định khung mức thuế BVMT đối với
xăng, dầu và giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thuế BVMT
cụ thể bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Luật Thuế BVMT10. Mức thuế
BVMT hiện hành đối với xăng là 3.000 đồng/lítđã gần bằng mức tối đa trong
khung thuế; mức thuế BVMT đối với nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít, đã bằng
mức tối đa trong khung thuế.Theo đó, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh mức
thuế BVMT cụ thể đối với xăng, dầu để phù hợp với chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ, kịp thời ứng phó với diễn biến giá
dầu trên thị trường thế giới là khó có thể thực hiện được, đặc biệt trong điều
kiện phải cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế và giá xăng,
dầu của Việt Nam hiện đang thấp hơn so với giá xăng, dầu của các nước có
chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN.
Hiện nay, theo như Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thuế bảo vệ môi trường (dự thảo ngày 15/9/2017) , Bộ Tài Chính đang có kiến
nghị tăng khung thuế bảo vệ đối với lĩnh vực xăng dầu từ 1.000 – 4.000 đồng/lít
lên thành 3.000 – 8.000 đồng/lít. Cơ sở để Bộ Tài chính đưa ra mức thuế này là
dựa vào tỷ lệ thuế trên giá cơ sở của Việt Nam với các nước. Trên thế giới có
một số nước có sản lượng dầu lớn và khai thác dầu thương mại nên giá dầu là

giá chung của các nước trên thế giới. Theo đó, tỷ lệ thuế (thuế nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế BVMT, thuế giá trị gia tăng) trên giá cơ sở của Việt Nam
hiện đang ở mức thấp so với nhiều nước.
Mức thuế BVMT hiện hành đối với xăng dầu được quy định tại Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13 ngày
10/3/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
10

11


Tỷ lệ thuế trên giá cơ sở của Việt Nam đối với xăng là 37,49% đối với
xăng; 20,76% đối với dầu diezel; 11,59% đối với dầu hỏa; 19,13% đối với dầu
mazút.Trong khi tỷ lệ thuế trên giá cơ sở của Hàn Quốc khoảng 70,3%,
Campuchia khoảng 40%, Lào khoảng 56%, Philipines khoảng 62%, Nga
khoảng 52%, Mỹ khoảng 53%, Hồng Kông khoảng 83,%, Thái Lan khoảng
67%. Ngoài ra, việc đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT còn được cân nhắc
đến các yếu tố khác như: chủ động ứng phó với diễn biến bất thường của giá
dầu thế giới, đồng thời thực hiện tốt các cam kết của Chính phủ Việt Nam với
quốc tế về giảm khí thải nhà kính11.
Tuy nhiên , việc so sánh về tỷ lệ thuế trên giá cơ sở của Việt Nam với
một số nước đang ở mức thấp (mức 37,49% đối với xăng, chưa cộng với mức
trích quỹ bình ổn giá) như Tờ trình của Chính phủ để làm căn cứ điều chỉnh
mức thuế BVMT là chưa phù hợp với thực tế thu nhập của người dân Việt Nam
(thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới), dẫn đến chi phí cho xăng,
dầu so với thu nhập của người dân Việt Nam chiếm tỷ trọng rất cao.
Theo thống kê của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho thấy, than đá
mới là nguồn phát thải gây ô nhiễm không khí lớn nhất, có tính chi phối tại Việt
Nam, chứ không phải xăng dầu. Cụ thể, theo IEA, tổng phát thải CO2 gây hiệu
ứng nhà kính do tất cả các hoạt động đốt nhiên liệu của Việt Nam năm 2014 là
143,3 triệu tấn, trong đó đốt than đá đóng góp 55%, đốt xăng dầu chiếm 30% và

khí đốt chiếm 15%. Giao thông, một ngành đang sử dụng nhiên liệu là xăng dầu
để hoạt động, cũng không phải là ngành gây ô nhiễm chính tại nước ta. Cũng
theo số liệu của IEA về đốt nhiên liệu, ngành sản xuất điện và nhiệt năng đóng
góp 35%, ngành công nghiệp và xây dựng đóng góp 34%, trong khi ngành giao
thông chỉ đóng góp 22% lượng phát thải CO2. “Thế nhưng, xăng dầu phải
“đóng vai trò chủ đạo” về bảo vệ môi trường một cách bất đắc dĩ thông qua việc
đóng góp tới 98% nguồn thu thuế bảo vệ môi trường”12.

Tờ trình số 371/TTr-Cp ngày 05/9/2017 của Chính Phủ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế bảo vệ môi trường
12
PGS.TS. Lê Thu Hoa, Trưởng khoa Môi trường và Đô thị, (ĐH Kinh tế Quốc dân)
truy nhập ngày 20/9/2017.
11

12


Trong cơ cấu về số thu từ các đối tượng chịu thuế BVMT, thu thuế
BVMT đối với xăng, dầu chiếm tới 93,4% tổng số thu thuế BVMT trong giai
đoạn 2012-2016, trong khi xăng dầu không phải là đối tượng gây ô nhiễm môi
trường lớn nhất trong các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường, song lại tiếp tục
điều chỉnh ở mức trần cao gấp 2 lần mức trần hiện nay là chưa thực sự phù hợp.
Xăng, dầu là mặt hàng thiết yếu cho toàn xã hội, là đầu vào của hầu hết
các ngành, lĩnh vực sản xuất và đời sống của người dân và mức thuế cụ thể đối
với xăng, dầu hiện nay vẫn chưa điều chỉnh tăng đến mức trần đã được quy định
tại Luật hiện hành. Trong khi thông điệp của Chính phủ là tạo điều kiện, tăng
tính cạnh tranh và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhưng lại đề nghị điều
chỉnh chính sách thuế một cách đột ngột lên gấp 2 lần về thuế bảo vệ môi
trường đối với lĩnh vực xăng dầu là không hợp lý. Giá xăng tăng sẽ kéo theo

tăng chi phí sản xuất nhiều loại sản phẩm, từ sản xuất đến vận chuyển, lưu
thông phân phối. Mặt bằng giá cả tăng dẫn đến lạm phát, giảm năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và gây nhiều khó khăn cho đời sống của đại bộ phận
người dân. Như vậy, tăng thuế bảo vệ môi trường trong trường hợp này đã đi
ngược với các giải pháp kích cầu, làm giảm sức tiêu thụ hàng nội địa, giảm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sức hấp dẫn của môi trường đầu tư,
gia tăng bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.
Chình vì vậy, việc tăng thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu
vào thời gian này theo như Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thuế bảo vệ môi trường chưa hợp lý, vì những lý do sau:
Thứ nhất, các hoạt động kinh tế - xã hội hiện nay nước ta còn phụ thuộc
khá nhiều vào xăng dầu, nhất là lĩnh vực giao thông, vận tải, sản xuất nông
nghiệp. So với các nước có hệ thống giao thông công cộng, cơ sở hạ tầng phát
triển thì việc lệ thuộc vào xăng dầu rất ít do được điện khí hóa, tuy nhiên ở nước
ta rất nhiều lĩnh vực muốn hoạt động được đều phải dựa vào xăng dầu. Do đó,
việc tăng gấp đôi thuế bảo vệ môi trường với mặt hàng xăng dầu sẽ tác động
tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế, kéo theo giá cả tăng cao ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống người dân.
13


Thứ hai, quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ, khí thải gây ô nhiễm chiếm
tỷ lệ rất nhỏ so với nhiều nước trên thế giới. Minh chứng là khi tham gia các
hiệp định cắt giảm khí thải toàn cầu thì Việt Nam được ưu tiên, nới lỏng tỷ lệ
thải khí CO2 ra môi trường so với các nước tiên tiến hoặc nước có quy mô nền
kinh tế lớn. Nước ta sức dân còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn
hạn chế nên phải tận dụng điều này để phát triển kinh tế. Ngay như Mỹ, nước có
nền kinh tế hàng đầu thế giới cũng đang muốn tăng lượng khí thải để thúc đẩy
kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho người dân.
Thứ ba, việc tăng thuế xăng dầu theo Bộ Tài chính là nhằm hạn chế tình

trạng buôn lậu xăng dầu, gây thất thu lớn cho ngân sách. Tuy nhiên, câu hỏi đặt
ra là trách nhiệm của cơ quan thuế, cơ quan tài chính như thế nào khi để xảy ra
tình trạng thất thu thuế kéo dài, ngày càng nghiêm trọng như hiện nay. Ngoài ra,
có phải là vì do yếu kém của ngành thuế, thu không đạt kế hoạch do Quốc hội
đề ra nên phải chuyển sang nguồn thu từ xăng dầu. Bởi vì, việc thu thuế môi
trường nhưng thực chất là thu ngân sách, việc chi cho môi trường không đáng
kể, trong khi thu thuế qua xăng dầu lại dễ dàng áp dụng. Hơn nữa, hồ sơ Dự án
Luật Thuế bảo vệ môi trường (sửa đổi) đối với lĩnh vực xăng dầu cũng chưa nêu
được đánh giá tác động trong việc tăng giá xăng, dầu ảnh hưởng đến một số
ngành như vận tải, xây dựng, nông nghiệp, ngư nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng;
chưa có những báo cáo về số liệu thuế nhập khẩu với xăng dầu giảm xuống làm
căn cứ tăng thuế nội địa với xăng dầu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
b. Sửa đổi một số quy định khác của pháp luật có liên quan
- Sửa đổi quy định tại Điều 2 Nghị định 67/2011/NĐ-CP về thu thuế bảo
vệ môi trường đối với xăng khoáng nền của xăng sinh học
Sản phẩm xăng sinh học E5 đã được đưa ra thị trường nhằm tạo thêm sự
lựa chọn cho người tiêu dùng xăng dầu. Mặc dù trong nền kinh tế thị trường
nhà nước cần đảm bảo tuân thủ những quy luật của thị trường nhưng theo quan
điểm cá nhân với vai trò cơ quan quản lý, nhà nước cũng cần có những biện
pháp để định hướng hành vi tiêu dùng theo hướng có lợi cho môi trường. Để có
thể làm được điều này, nhà nước cần tìm cách để hạ giá thành của xăng sinh
14


học xuống so với giá của xăng hoá thạch. Như vậy, nếu chỉnh sửa quy định về
thu thuế BVMT đối với phần xăng khoáng nền của xăng sinh học theo Điều 2
Nghị định 67/2011/NĐ- CP thì giá xăng sinh học sẽ rẻ hơn so với xăng hoá
thạch khoảng 3.000đ/lít xăng. Và sự chênh lệch về giá này sẽ là một công cụ
giúp tăng tính cạnh tranh của xăng sinh học so với xăng hoá thạch trên thị
trường. Và chắc chắn với mức giá như vậy, sẽ có nhiều hơn người tiêu dùng và

đặc biệt là các doanh nghiệp vận tải sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm xăng
sinh học, điều đó cũng góp phần tạo động lực cho các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu trong việc kinh doanh xăng sinh học. Mặc dù việc miễn thuế BVMT
cho xăng sinh học có thể làm ảnh hưởng đến khoản thu ngân sách nhà nước,
nhưng từ ban đầu khi đặt ra thuế BVMT thì các cơ quan quản lý nhà nước đã
phải xác định rõ ràng mục tiêu chính của sắc thuế này không phải là để đảm bảo
cho nguồn thu ngân sách nhà nước mà để BVMT.
Đã nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng công cụ thuế BVMT kết hợp với
các biện pháp. khác nhau để tạo sự chênh lệch giá giữa sản phẩm bị đánh thuế
với sản phẩm được khuyến khích tiêu dùng và thu được kết quả cao trong
BVMT. Điển hình như Canada chỉ tiến hành thu thuế BVMT đối với xăng pha
chì nhằm khuyến khích sử dụng xăng không pha chỉ, và kết quả là sự chênh
lệch giá thành giữa 2 loại xăng đã giúp Canada loại bỏ được xăng pha chỉ ra
khỏi thị trường. Hay như Thái Lan là một trong những quốc gia đầu tiên ở Châu
Á áp dụng thành công việc đưa xăng sinh học vào tiêu dùng. Để đạt được mục
tiêu, Chính phủ Thái Lan đã có những biện pháp mạnh mẽ để giảm giá xăng
sinh học như “miễn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ethanol sử dụng pha trộn
nhiên liệu và thiết lập giá xăng sinh học rẻ hơn so với xăng truyền thống (Ron
95) 1,5 bath/lít nhờ chính sách giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, quỹ dầu và thuế bảo
tồn năng lượng”13.
Vì vậy, việc việc miễn thuế BVMT đối với phần xăng khoáng nền của
xăng sinh học là rất cần thiết và sẽ góp phần thúc đẩy công cụ thuế BVMT đối

13

/>
15


với xăng dầu phát huy được hiệu quả thông qua quy luật giá cả của thị trường

giống như nhiều quốc gia khác.
- Khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm, giải pháp thay
thế
Việc tạo dựng và duy trì lòng tin của người tiêu dùng vào các sản phẩm,
giải pháp thay thế là cơ sở để đảm bảo hiệu quả lâu dài của công cụ thuế
BVMT đối với xăng dầu. Có nhiều cách thức có thể thực hiện để nâng cao lòng
tin của người tiêu dùng như:
- Tổ chức đánh giá và chứng minh hiệu quả của nhiên liệu sinh học đối
với BVMT cũng như đối với động cơ máy móc, với sự tham gia của các chuyên
gia, tổ chức nước ngoài nhằm đảm bảo sự khách quan trong kết quả nghiên cứu
và tạo niềm tin với người dân.
- Khuyến khích các doanh nghiệp vận tải, các phương tiện giao thông
công cộng, các hãng hàng không sử dụng các sản phẩm nhiên liệu sinh học thay
thế cho nhiên liệu hoá thạch cũng giúp tạo dựng và nâng cao lòng tin của người
tiêu dùng và chất lượng của các sản phẩm thay thế.
- Yêu cầu tất cả các xe công đều phải sử dụng xăng sinh học;
- Đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ của các phương tiện giao thông
công cộng; Đa dạng về các hình thức phương tiện giao thông công cộng; Đa
dạng về tuyến đường nhằm đảm bảo sự thuận lợi cho người dân khi sử dụng các
phương tiện này. Cần tính toán và đảm bảo mức chi phí mà người dân phải trả
khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng sẽ thấp hơn so với sử dụng
các phương tiện cá nhân.
- Nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật thuế bảo vệ môi
trường đối với xăng dầu của người tiêu dùng
Chủ thể chịu tác động trực tiếp, đồng thời cũng là chủ thể quyết định sự
thành công của thuế BVMT đối với xăng dầu trong BVMT chính là người tiêu
dùng. Vì vậy, việc tuyên truyền để nâng cao nhận thức và ý thức của người tiêu
dùng về pháp luật thuế BVMT đối với xăng dầu là rất quan trọng. Tuy nhiên, để
đảm bảo hiệu quả tuyên truyền, nhà nước cần phải xác định đầy đủ, rõ ràng
16



những nội dung cần tuyên truyền cho người tiêu dùng như thuế BVMT là gì;
Mục đích thu thuế; Các sản phẩm, giải pháp thay thế mà người tiêu dùng có thể
lựa chọn là gì? Những lợi ích đạt được khi sử dụng các sản phẩm, giải pháp
thay thế…. Hình thức tuyên truyền cũng cần phải đa dạng như thông qua các
phương tiện truyền thông, băng rôn, khẩu hiệu; tổ chức các cuộc thi… Bên
cạnh việc tuyên truyền cho người tiêu dùng thì nhà nước cần tuyên truyền cho
cả các doanh nghiệp vận tải cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vì
đây cũng là chủ thể có liên quan và ảnh hưởng đến hiệu quả của thuế BVMT
đối với xăng dầu.

KẾT LUẬN
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, phải thực hiện cắt
giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế. Trước diễn biến khó lường
của giá dầu, khi giá dầu thế giới giảm và duy trì ở mức thấp, nhiều nước đã
nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế theo hướng tăng và mở rộng đối tượng
để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đảm bảo lợi ích quốc gia
trong điều kiện hội nhập và chủ động ứng phó với diễn biến giá dầu trên thị
trường thế giới. Việc sử dụng các chính sách thuế nội địa, trong đó có chính
sách thuế BVMT là một trong những công cụ tài chính hiệu quả và khả thi. Tuy
nhiên, theo như Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế bảo
vệ môi trường thì khung thuế bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực xăng dầu sẽ
tăng lên 2 lần, điều này sẽ tạo nên gánh nặng rất lớn trong việc phát triển kinh tế
và kiểm soát chỉ số lạm phát bởi xăng dầu có vai trò quan trọng trong quá trình
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc tăng thuế bảo vệ môi
trường đối với lĩnh vực xăng dầu cần phải có một lộ trình cụ thể, hợp lý để đảm
bảo cho việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường một cách hiệu quả.

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tờ trình số 371/TTr-CP ngày 05/09/2017 của Chính phủ về Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế bảo vệ môi trường .
2. Chính phủ Báo cáo Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật thuế bảo
vệ môi trường
3. Chính phủ, Báo cáo Đánh giá tác động dự án Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế bảo vệ môi trường
4. Báo cáo thẩm tra số 671/BC-UBTCNS14 ngày 11/9/2017 của Ủy ban tài
chính ngân sách về Thẩm tra sơ bộ về Dự án luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế Bảo vệ môi trường
5. Arthur C.Pigou (1877 – 1959), Kinh tế học phúc lợi, 1920.
6. PGS.TS Nguyễn Thế Chinh (2003), Giáo trình kinh tế và quản lý môi
trường, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê, tr.100.
1. 7.Ian Gazley (2006) UK environmental taxes: classification and recent
trends, theo EconomicTrends, số 635 tháng 10/2016, tr.15.
7. Nguyễn Thị Huệ, Quy định pháp luật về thuế bảo vệ môi trường đối với
xăng dầu ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 32,
Số 3 (2016) 72-80.
8. Ths. Lê Thị Loan (Vụ chính sách thuế - Bộ Tài Chính). Diều chỉnh khung
thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu
2. />truy nhập ngày 20/9/2017
9. />
truy

nhập

ngày


20/9/2017.
10. nhập ngày 20/9/2017.

18



×