Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tìm hiểu chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.86 KB, 28 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế kinh
tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình đó càng đi vào
chiều sâu và bề rộng thì càng bộc lộ rõ những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động,
sáng tạo, nhạy bén là thuộc tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhưng
gắn liền với nó là nguy cơ gian lận kinh doanh, thương mại… Hơn nữa, trong giai đoạn này
nước ta đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế (gia nhập WTO) thì càng cần thiết đòi
hỏi Nhà nước phải có một khung pháp lý Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt
động đó đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước.

1


B. NỘI DUNG.
I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
Đứng trước yêu hội nhập của đất nước, ngày 14- 11- 2005 Quốc hội đã ban hành Luật
Thương mại (LTM) số 36/ 2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại( chính thức có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế LTM năm 1997) nhằm tạo thành một hành lang pháp
lý hoàn chỉnh cho các thương nhân trong hoạt động thương mại.
Cũng giống như LTM năm 1997, LTM năm 2005 cũng quy định khá đầy đủ và chi
tiết về mua bán hàng hoá cũng như HĐMBHH.
1.Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1. Khái niệm, đặc điểm.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là
HĐMBHH . HĐMBHH có bản chất pháp lý chung là hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác
lập,thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong mua bán. Dù LTM năm 2005 không
đưa ra định nghĩa về HĐMBHH, song có thể xác định bản chất pháp lý của HĐMBHH
trong thương mại dựa trên cơ sở của hợp đồng dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Nên có
thể khẳng định HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài


sản. Do đó chúng ta có thể hiểu, HĐMBHH là hợp đồng được giao kết giữa các thương
nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên khác không phải là thương nhân trong việc
mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được hình thành tương lai và những vật gắn
liền với đất đai.
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, HĐMBHH có những
đặc điểm nhất định xuất phát từ bản chất thương mại của hành vi mua bán hàng hóa.

2


Thứ nhất: HĐMBHH được thiết lập chủ yếu giữa các thương nhân. Theo Khoản 1Điều 6-LTM năm 2005 “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh”. Thương nhân có thể là thương nhân việt nam hoặc thương nhân nước ngoài. Ngoài
ra các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân cũng co thể trở thµnh chñ thể của
HĐMBHH và khi chủ thể lựa chọn LTM để áp dụng thì hoạt động của các bªn chủ thể
trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM.
Thứ hai: Về hình thức HĐMBHH có thể được thiết lập theo hình thức mà hai bªn
thể hiện sự thỏa thuận MBHH giữa các bên. HĐMBHH có thể được thể hiÖn dưới hình
thức bằng lời nói hoặc bằng văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Trong trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập HĐMBHH bằng hình
thức văn bản.
Thứ ba: Về đối tượng: HĐMBHH có đối tượng là hàng hóa. Theo LTM năm 2005,
thì hàng hóa bao gồm: “a, tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai; b, Những vật gắn liền vớ đất đai” (Khoản 2- Điều 3- LTM năm 2005). Với cách
hiểu về hàng hóa như vậy, hàng hóa là đối tượng mua bán có thể là hàng hóa sẽ có trong
tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản đươch phép lưu thông trong
thương mại.
Thứ tư: Về nội dung, HĐMBHH thể hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan
hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhËn hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Hành

vi của các bên trong quan hệ HĐMBHH có tính chất hành vi thương mại. Mục đích thông
thường của các bên là lợi nhuận.
3


1.2. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hoá.
* Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Loại hợp đồng này đương nhiên sẽ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành khác.
- Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận áp dụng, có thể
là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là luật của một nước thứ ba..
* Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.
- Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch hàng hoá.
Cần lưu ý đối với loại hợp đồng mua bán qua cơ sở giao dịch hàng hoá rằng:
+ Thứ nhất hàng hoá giao dịch tại cơ sở giao dịch phải thuộc danh mục hàng hoá giao dịch
tại sở giao dịch hàng hoá do bộ trưởng bộ thương mại quyết định.
+ Thứ hai, theo Điều 69 của LTM năm 2005, thương nhân môi giới qua sở giao dịch về
hàng hoá chỉ được phép hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá khi đáp ứng đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật; thương nhân mua bán qua sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép
thực hiện các hoạt động mua giới mua bán qua sở giao dịch hàng hoá và không được phép
là một bên của HĐMBHH qua sở giao dịch hàng hoá.
+ Thứ ba, Điều 70 của LTM năm 2005, các hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới
hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá: Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi
thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng.
Chào hàng hoặc mua giới mà khôn có hợp đồng với khác hàng . Sử dụng giá giả tạo hoặc
các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách hàng. Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ

4



một cách bất hợp lý việc môi giới các hợp đồng theo các nội dung đã thoả thuận với khách
hàng.
2. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật quy
định đối với một hợp đồng. Mét H§MBHH sẽ có giá trị pháp lực khi thoả mãn tối thiểu
những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi thiếu một trong những nội dung đó
thì hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực. Trong thực tế, hậu quả xấu đã xảy ra xuất phát từ
điểm các bên trong hợp đồng không quy định rõ ràng hoặc đầy đủ những nội dung của hợp
đồng dẫn tới có tranh chấp xảy ra các bên sẽ không có chứng cứ hoặc chứng cứ không rõ
ràng và những thiệt hại không cần thiết có thể xảy ra đối với tất cả các bên và không thể
lường trước được.
LTM năm 2005 đã không quy định về nội dung H§MBHH. Trên cơ sở việc xác lập
mối quan hệ với BLDS, khi xem xét vấn đề nội dung của HĐMBHH chúng ta có thể dựa
trên các quy định của BLDS, Theo đó trong HĐMBHH, các bên có thể thoả thuận về những
nội dung sau đây:
* Đối tượng của hợp đồng: Trong mua bán hàng hoá, đối tượng của hợp đồng là một
hàng hoá nhất định đây là điều khoán cơ bản của một HĐMBHH, mà khi thiếu nó
HĐMBHH không thể hình thành được do người ta không thể hình dung được các bên tham
gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. §ối tượng của HĐMBHH được xác định
thông qua tên gọi của hàng hoá. Trong HĐMBHH các bên có thể gi rõ tên hàng bằng tên
thông thường tên thương mại… để tránh có sự hiểu sai lệch về đối tượng hợp đồng.
* Số lượng hàng hoá: Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối
với đối tượng của hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận và ghi trong hợp đồng về một số
5


lượng hàng hoá cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán
thương mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào khác tuỳ
theo tính chất của hàng hoá.

* Chất lượng hàng hoá: Chất lượng hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của
hợp đồng, cái mà người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng,
quy cách, kích thức, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường
cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường khác
nhau tương ứng với mỗi phương pháp xác định chất lượng được thoả thuận. Thông thường
có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa vào các tiêu chuẩn, dựa
vào mô tả tỉ mỷ, dựa vào nhãn hiệu hàng hoá hoặc điều kiện kỹ thuật…
* Giá cả hàng hoá: Các bên có quyền thoả thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong
hợp đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá, vì đây
là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến ký đến hợp đồng. Để mang
lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thoả thuận với nhau lựa chọn hình thức giảm
giá phù hợp gi trong hợp đồng.
* Phương thức thanh toán: Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua
và bên bán thoả thuận, theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bên bán tiền hàng đã mua
theo một phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn
phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh đầy đủ và yêu
cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn như đã thoả
thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc chọn phương thức thanh toán trong hợp
đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên.
* Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng:
6


Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng, đúng địa điểm đã thoả thuận trong hợp
đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng thời gian, địa điểm và trả tiền cho bên bán.
Các bên có thể thoả thuận với nhau sao cho hợp lý căn cứ vào tình hình thực tiễn, khả năng
thực hiện của mỗi bên. Địa điểm giao hàng có thể do hai bên thoả thuận, phù hợp với điều
kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho cả hai bên. Trong mua bán hàng hoá, việc giao nhận
hàng hoá có thể được thực hiện trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua người thứ ba. Vì

vậy các bên phải thoả thuận rõ thời hạn và địa điểm, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ mỗi
bên cũng như xác định rủi ro mà mỗi bên phải gánh chịu.
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
a. Chủ thể là thương nhân. Để xác định một thoả thuận có phải là một HĐMBHH
hay không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ hợp đồng đó có phải là
tư nhân hay không, sau đó mới xét đến đối tượng của hợp đồng. Thường nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách thường
xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh.
LTM năm 2005 cũng thừa nhận thương nhân thông qua việc không đặt điều kiện đăng
ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận nhưng đối với
trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt
động của mình. Quy định này đã được giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế là người
không đăng ký kinh doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là thương nhân
không. Những quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó không giới hạn trách nhiệm của
thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì vậy một tổ chức, cá nhân trước khi
7


đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mục đích sinh lợi vẫn có thể phải
chịu trách nhiệm như với thương nhân.
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa nhận là chủ
thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, cá thể
song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế, cũng chẳng phải là cá nhân. Thương
nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài có thể là cá nhân, pháp
nhân hoặc chủ thể khác việc xác định tư cách thương nhân nước ngoài phải căn cứ theo
pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Thương nhân nước ngoài là thương
nhân được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc
được pháp luật nước ngoài công nhận (Khoản 1, Điều 16- LTM năm 2005).
* Thương nhân là cá nhân. Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải

có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành tư
nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề
nghiệp mà chưa ĐKKD.
Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm: Cá nhân kinh doanh; Doanh nghiệp tư nhân; Công ty
hợp doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ
về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau dây sẽ không được công nhận là
thương nhân: Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, người đang phải chấp nhận hình phạt tù; Người đang trong thời gian bị toà án tước

8


quyền nghề vì các tội, buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép… và các tội khác theo quy
định của pháp luật.
*Thương nhân là tổ chức. Trong thực tiễn hoạt động thương mại, thương nhân là tổ
chức, là chủ yếu của HĐMBHH. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có ĐKKD sẽ được coi là thương
nhân. Một tổ chức được công nhân là pháp nhân khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều
84- BLDS năm 2005. Không phải tất cả những tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể trở
thành thương nhân mà chỉ có pháp nhân nào là tổ chức kinh doanh được thành lập để hoạt
động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức kinh tế gồm: Doanh
nghiệp Nhà nước; Hợp tác xã; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo quy định là
thương nhân. Theo quy định của LTM năm 2005 hộ gia đình và tổ hợp tác không được xếp
là tổ chức hay cá nhân.
b. Chủ thể không phải là thương nhân.
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân

không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng với thương nhân. Nghĩa
là một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại độc lập và thường
xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần điều kiện nói trên khác với bên là thương nhân,
bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực vì hành vi để tham gia
giao kết và thực hiện HĐMBHH theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia
đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên như một nghề.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá.
9


Đối tượng của HĐMBHH là hàng hoá. Hàng hoá la những sản phẩm lao động của
con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng
hoá có thể là vật, là sức lao động của con người, là các quyền tài sản. Khoản 2- Điều 3 LTM
2005 đã mở rộng hàng hoá hơn. Theo đó hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về
hàng hoá vẫn còn sự hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy định này hàng hoá chỉ
bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ… chưa được thừa nhận là hàng hoá.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu hàng hoá trong HĐMBHH bao gồm tất cả các động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. Và các vật gắn liền với đất đai tuy nhiên, khi
các chủ thể giam gia vào quan hệ HĐMBHH cần phải xem hàng hoá mà mình định mua
hoặc bán là cái gì, nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc
hàng kinh doanh có điều kiện hay không?
Những hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện như: Vũ khí, đạn
dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật chuyên dùng của các lực luợng vũ
trang; Chất ma tuý; Một số hoá chất có tính độc hại mạnh; Các hiện vật thuộc di tích lịch sử,
văn hoá, bảo tàng; Các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại tới
giáo dục nhân cách;Thuốc lá điếu, sản xuất tại nước ngoài; Các loại pháo; Các loại thuốc
phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị,

dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam... Những hàng hoá, dịch vụ thương mại
hạn chế kinh doanh như: Hàng hoá có chứa chất phóng xạ, thuốc bảo vệ thực vật thuộc
danh mục hạn chế sử dụng tại Việt Nam…

10


* Những hàng hoá, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện gồm các loại như: Hoá
chất độc hại và sản phẩm có hoá chất độc hại; Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, các loại
vắc xin, sinh phẩm, trang thiết bị, dụng cụ y tế;…
Để biết thêm chi tiết về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện chúng ta cần tìm hiểu Nghị định số 59/2006/NĐ - CP ngày
12/06/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hình thức của HĐMBHH là cách thức thể hiện ý chí thoả thuận giữa các bên tham
gia quan hệ hợp đồng. Nó có thể thực hiện bằng lời nòi, bằng văn bản hoặc được xác định
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại HĐMBHH mà pháp luật quy định phải được lập thành
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao gồm cả điện báo, telex,
Fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác.
Những quy định của LTM Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế về mua bán hàng
hoá, đã tạo điều kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có quan hệ hợp đồng thương mại quốc
tế có thể nói hình thức của HĐMBHH trong LTM 2005 là phù hợp với công ước viên 1980
bởi Điều 11 công ước viên 1980 quy định "không yêu cầu hợp đồng mua bán phải được
ký hoặc phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ mọi yêu cầu nào đó về
mặt hình thức. Có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng để chứng
minh sự tồn tại của hợp đồng đó". Như vậy LTM 2005 đã vượt ra và khắc phục được hạn
chế về hình thức hợp đồng do các văn bản pháp luật trước đó quy định như pháp luật Hợp
đồng kinh tế.


11


HĐMBHH là sự thoả thuận giữa các bên với nhau, dưới góc độ pháp lý việc tuân thủ
hình thức của hợp đồng sẽ là bắt buộc một khi pháp luật có sự ghi nhận về vấn đề đó với
mục đích hạn chế các rủi ro cho các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng.
4. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
a. Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong HĐMBHH, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào hàng. Chào hàng là một
quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế mua bán hàng hoá theo Điều 14 Công
ước Viên 1980, chào hàng là "Đề nghị về việc ký kết hợp đồng được gửi đích danh cho
một hoặc một vài người được gọi là đơn chào hàng, nếu đề nghị đó đã rõ ràng và thể
hiện ý định đặt quan hệ trong trường hợp được sự chấp nhận của người chào hàng".
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng đã được quy
định rõ tại Khoản 1 - Điều 390 BLDS. Đơn chào hàng về bản chất là một đề nghị giao kết
hợp đồng, là việc một bên bày tỏ ý chí của mình muốn giao kết HĐMBHH với một người
cụ thể và chịu sự ràng buộc về đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó. Trong
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị giao kết
hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị mà không được giao kết thì
phải bồi thường nếu có thiệt hại phát sinh. Như vậy, chào hàng là một đề nghị giao kết hợp
đồng, có nội dung chủ yếu của HĐMBHH, được chuyển cho một hoặc nhiều nguời nhất
định, có giá trị trong một thời gian nhất định. Tuy không quy định cụ thể về nội dung chủ
yếu của đơn chào hàng, nhưng có thể hình dung được rằng bên đề nghị giao kết hợp đồng
phải nêu ra trong đề nghị của mình những nội dung chủ yếu như đối với nội dung của hợp
đồng dân sự: đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán…Như vậy có thể coi các nội dung
chủ yếu của HĐMBHH cũng chính là nội dung chủ yếu của đơn chào hàng. Những nội
12


dung của đề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng để bên được đề nghị giao kết hợp đồng có

thể hình dung được ngay và hiểu được mong muốn giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao
kết hợp đồng. Khi đó bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc bởi những nội
dung đã đề nghị và không được thay đổi nội dung đó nếu bên được đề nghị đã đồng ý.
b. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề ghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển cho
bên đề nghị về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp
đồng. Về vấn đề này Điều 18 công ước viên 1980 cũng quy định rõ:" Tuyên bố, hành động
nào đó của người được chào hàng thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được gọi là việc
chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải khác là việc chấp nhận đơn
chào hàng". Như vậy chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi đó là hành vi,
hành động mang tính tích cực của đối tác trong giao dịch mua bán hàng hoá. Không thể coi
là bên được đề nghị giao kết hợp đồng đã đồng ý với lời đề nghị trong khi nghi giao kết hợp
đồng đã đồng ý với lời đề nghị trong khi họ không có biểu hiện nào bên ngoài để cho người
đề nghị biết là mình đồng ý với toàn bộ đề nghị giao kết hợp đồng thời hạn trách nhiệm của
bên đề nghị bắt đầu từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được chuyển đi cho bên được đề
nghị đến hết thời hạn ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, để tạo mọi khả năng để các bên có thể tiến tới giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá các bên có thể tiến hành hành động khác khi nhận được chấp nhận đề nghị quá
giới hạn. Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được thông báo chấp nhận
đề nghị sau khi hết thời hạn chờ trả lời thì lời đề nghị đó được coi như là đề nghị mới của
bên chậm trả lời: Nghĩa là đã xuất hiện một đề nghị giao kết hợp đồng mới từ phía đối tác
của người đã đề nghị và người đã đề nghị nếu tiếp tục chấp nhận thì trở thành người chấp
13


nhận đề nghị. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do
khách hàng, mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kết này vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị giao kết hợp đồng.
Trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có điều

kiện sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung của đề nghị thì hành vi đó được coi là từ
chối đề nghị và hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Như vậy, nếu bên được đề
nghị sửa đổi, bổ sung đề nghị không làm thay đổi cơ bản nội dung của đề nghị giao kết hợp
đồng thì hành vi đó cũng không được coi là chấp nhận đề nghị, mà được coi là đề nghị giao
kết hợp đồng mới. Nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng được sửa đổi, bổ sung có thể là
điều kiện về giá, thanh toán, chất lượng, số lượng, địa điểm thời gian giao hàng…
III. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1. Giao nhận hàng hoá.
Bên bán phải giao hàng hoá phù hợp với quy định của hợp đồng; trong các hợp đồng
mua bán hàng hoá, các bên thường có thoả thuận với nhau về điều kiện kèm theo việc giao
hàng thoả thuận về điều kiện giao nhận hàng hoá nhằm mục đích xác trách nhiệm và chi phí
giao hàng của các bên như đối với vận tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục hải quan, thuế xuất
nhập khẩu, gánh chịu rủi ro… Ngoài ra, trong mua bán hàng hoá việc giao hàng còn liên
quan đến việc giao nhận cả các chứng từ liên quan đến hàng hoá. Nếu các bên không có sự
thoả thuận hoặc sự thoả thuận không cụ thể, thì bên bán phải có nghĩa vụ giao hàng và
chứng từ liên quan kèm theo.
Các bên có thể thoả thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tuỳ theo
tính chất của các hàng hoá trong hợp đồng khi đã thoả thuận về địa điểm giao hàng thì các
14


bên phải tôn trọng thoả thuận và phải thực hiện đúng thoả thuận đó. Bên bán phải có nghĩa
vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã thoả thuận.
Trong trường hợp không thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng
được xác định như sau: Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải
giao hàng tại nơi có hàng hoá đó. Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vấn đề chuyển
hàng hoá thì bên ngoài có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên. Trường hợp
trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp
đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế
tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó.Vì giao hàng là một nghĩa vụ chủ

yếu của bên bán, nên bên bán phải chịu trách nhiệm về việc hàng không phù hợp với thoả
thuận trong hợp đồng. Hàng hoá được coi là không phù hợp hợp đồng khi hàng hoá đó
thuộc một trong những trường hợp tại Khoản 1- Điều 39- LTM 2005. Không phù hợp với
mục đích sử dụng của hàng hoá cùng chủng loại vẫn thường được sử dụng; Không phù hợp
với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào
thời gian giao kết hợp đồng; Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng mà
bên bán đã giao cho bên mua; Không được bảo quản. đóng gói theo cách thức thông thường
với loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong
trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường. Trong trường hợp không phù hợp
với thoả thuận trong hợp đồng, thì bên bán có quyền từ chối nhận hàng, người bán phải chiụ
hoàn toàn trách nhiệm về thiệt hại phát sinh, dù người bán có thể biết hoặc không thể biết về
thiệt hại phát sinh, dù người bán có thể biết hoặc không thể biết về thiệt hại đó.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá, việc giao nhận hàng
hoá cũng có những ngoại lệ. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác về giao nhận hàng
15


hoá thì việc giao nhận hàng hoá sẽ được thực hiện như đối với sự việc mua bán hàng hoá
thông thường. Tuy nhiên, trong hợp đồng kỳ hạn, các bên có thể thoả thuận về việc thanh
toán bằng tiền của bên mua và không nhận hàng khi đó bên bán không phải giao hàng và
bên mua không phải nhận hàng mà bên mua chỉ phải thanh toán cho bên bán một khoản tiền
bằng mức chênh lệch giữa giá thoả thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch
hàng hoá công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện mà thôi. Đối với hợp đồng quyền
chọn thì nghĩa vụ giao nhận hàng của các bên chỉ phát sinh khi bên giữa quyền chọn mua
thực hiện quyền mua và bán hàng có hàng để bán, bên giữ quyền bán thực hiện quyền bán
mà bên mau đồng ý mua hàng.
2. Chất lượng hàng hoá.
Chất lượng hàng hoá là vấn đề quan tâm của các bên khi ký kết HĐMBHH. Hàng
đúng chất lượng phải đảm bảo khả năng sử dụng, bảo đảm đúng phẩm chất, bao bì đóng gói,
quy cách, chủng loại của sản phẩm theo tiêu chuẩn hoặc theo sự thoả thuận của các bên.

Để đảm bảo mục đích của hợp đồng được thực hiện một cách tốt nhất, nếu các bên có
thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua tiến hành kiểm tra hàng hoá trước khi
giao hàng thì bên bán phải đảm bảo cho bên mua hoặc đại diện cho bên mua có điều kiện
tiến hành việc kiểm tra. Khi đó, bên mua hoặc đại diện của bên mua trong trường hợp này
phải kiểm tra hàng hoá trong một thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép;
trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá thì việc kiểm tra hàng hoá
có thể được hoãn lại cho tới khi hàng hoá được chuyển tới địa điểm, trừ trường hợp các bên
có thoả thuận khác. Trong trường hợp bên mua hoặc đại diện bên mua không thực hiện việc
kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng theo thoả thuận thì bên bán có quyền giao hàng theo
hợp đồng.
16


Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyến của hàng hoá mà bên
mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán
trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. Nhưng bên bán phải chịu trách nhiệm về
những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện bên mua đã kiểm tra nêu các
khuyếm khuyết của hàng hoá không thể phát hiện được trong qúa trình kiểm tra bằng biện
pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không
thông báo cho bên mua.
3. Thanh toán.
Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải thực hiện.
Người bán và người mua có thể thoả thuận những biện pháp ràng buộc chặt chẽ nhằm đảm
bảo việc thanh toán được đầy đủ và đúng hạn theo thoả thuận trong trường hợp đồng. Bên
mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo thoả thuận và các bên có thể thoả thuận
về phương thức, thời hạn và thời điểm thanh toán. Khi đó bên mua phải tuân thủ các
phương thức thanh toán và thực hiện thanh toán theo đúng trình tự, thủ tục theo thoả thuận
và các quy định của pháp luật về thanh toán.
Trường hợp người mua vi phạm nghĩa vụ này sẽ dẫn đến việc phải gánh chịu trách
nhiệm vật chất. Trong trường hợp bên mua hàng vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền

hàng thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, khi bên vi phạm yêu cầu,
trừ trường hợp có thoả thuận khác Điều 306 LTM 2005. Khi người mua vi phạm nghĩa vụ
thanh toán thì người bán cũng có thể căn cứ vào Điều 308, 321 Điều 312 LTM để tạm
ngừng giao hàng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ hợp đồng.

17


Về nguyên tắc thanh toán, bên mua có quyền tạm ngừng thanh toán toàn bộ số tiền
hoặc một phần số tiền mua hàng nếu bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối, tạm
ngừng thanh toán cho đến khi tranh chấp đã được giải quyết khi có bằng chứng về việc hàng
hoá đang là đối tượng tranh chấp; tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục
sự không phù hợp của hàng hoá trong trường hợp bên mua có bằng chứng về việc bên bán
đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Tuy nhiên, nếu bằng chứng mà bên mua đưa ra
trong trường hợp tạm ngừng thanh toán là hàng hoá đang bị tranh chấp hoặc bằng chứng
không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại đó và chiụ
các chế tài khác theo quy đinhh tại Điều 51- LTM
Thời hạn thanh toán cũng có một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi của
các chủ thể tham gia hợp đồng. Thời hạn mà người mua phải thanh toán tiền mua hàng do
hai bên thoả thuận căn cứ vào thời gian và phương thức giao hàng.
Các phương thức thanh toán mà các bên tham gia hợp đồng, đặc biệt là HĐMBHH
với thương nhân nước ngoài có thể chọn hiện nay là: phương thức chuyển tiền, phường thức
ghi sổ, phương thức nhờ thu, phương thức uỷ thác mua... Việc chọn phương thức thanh toán
nào để thoả thuận trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong
hợp đồng mua bán hàng hoá trên cơ sở tình hình thị trường hàng hoá, sự hiểu biết về khả
năng tài chính và tín nhiệm thương mại của bạn hàng.
4. Chế tài áp dụng đối với vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá.
a. Theo Điều 292, LTM 2005 có các loại chế tài trong thương mại là: Buộc thực hiện
đúng hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;

Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Huỷ bỏ hợp đồng. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận

18


không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Việc áp dụng các chế tài là cần thiết bởi lẽ nó không chỉ tạo ra sự công bằng cho các
bên mà còn có tính răn đe, giúp các chủ thể có ý thức tuân thủ pháp luật hơn.
Tuy nhiên theo Điều 294 LTM 2005 cũng có sự châm chước khi quy định của trường
hợp miễn trách nhiệm đối với các hành vi vi phạm: Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà
các bên đã thoả thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên do thực
hiện quyết định của cơ quản quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các
trường hợp miễn trách nhiệm.
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng. Là việc bên vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện
đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm
phải chịu chi phí phát sinh. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ
không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận
trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng
thì phải loại trừ khuyết điểm của hàng hoá, thiết sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay
thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự
chấp nhận của bên vi phạm. Bên vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bến vi
phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
- Phạt vi phạm. Là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 - LTM 2005 . Như vậy phạt vi phạm chỉ xảy ra nếu có thỏa
thuận về vấn đề này trong hợp đồng. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc
19



tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 LTM 2005.
- Bồi thường thiệt hại. Là việc bên vi phạm bồi thường những tổng thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra co bên bị vi phạm giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất
thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp
mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: Có hành vi
vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế; Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành
vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không
có hành vi vi phạm.
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên
tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp: Xảy ra
hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng việc thực hiện hợp
đồng; Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì
hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy
định của Luật này
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng: là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là
điều kiện để đình chỉ hợp đồng; Một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.

20


Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận
được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã
thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối xứng.
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của luật này.

- Huỷ bỏ hợp đồng: Bao gồm huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng và huỷ bỏ một phần của hợp
đồng. Huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ
hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; Huỷ bỏ một phần hợp đồng là viịec bãi bỏ thực hiện
một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Huỷ bỏ hợp
đồng được áp dụng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ
hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên
không thực hiện nghĩa vụ của mình trong giao hàng, cung ứng dịch vụ và việc này cấu thành
một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ đó thì bên kia có quyền tuyên
bố huỷ hợp đồng đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ. Trường hợp một bên không thực
hiện nghĩa vụ đối với một lần giao hàng cung ứng dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng
vi phạm cơ bản sẽ xảy ra đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó thì bên bị vi
phạm có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ
sau đó, với điều kiện là bên đó phải thực hiện quyền này trong thời hạn hợp lý. Trường hợp
một bên đã tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với một lần giao hang, cung ứng dịch vụ thì bên
đó vẫn có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vu
đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện sau đó nếu mối quan hệ qua lại giữa các lần giao hàng dẫn
đến việc hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng không thể thể được sử dụng theo đúng mục
đích mà các bên đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng.
21


Sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên
không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thoả thuận về
các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có
quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các
bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ được thực hiện đồng thời; trường hợp
không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của luật này.
IV. MỘT SỐ SỬA ĐỔI CỦA LTM NĂM 2005 SO VỚI LTM NĂM 1997.

1. Về các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hóa.
Những quy định về vấn đề này trong Luật Thương mại năm 2005 có nhiều điểm mới
so với Luật Thương mại năm 1997. Theo đó, Luật đưa ra những quy định áp dụng đối với
hoạt động mua bán hàng hóa trong nước và hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Luật cũng
đưa ra quy định về việc áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp của Nhà nước phù hợp với
các chuẩn mực của WTO. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ các phương thức hoạt động xuất
nhập khẩu, ghi nhãn hàng hóa và xuất xứ hàng hóa.
2. Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
LTM năm 2005 quy định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ HĐMBHH trên cơ
sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong LTM năm 1997, tham khảo Công
ước Viên năm 1980 và tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được
quy định về HĐMBHH phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Một số vấn đề chung trong LTM năm 1997 đã được BLDS năm 2005 điều chỉnh như
nội dung chủ yếu của hợp đồng về chào hàng và chấp nhận chào hàng, sửa đổi, bổ sung

22


chào hàng...thì LTM năm 2005 không quy định để bảo đảm tính hệ thống và sự phù hợp với
BLDS năm 2005.
3. Hàng hóa.
Theo LTM năm 2005 bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Như vậy có thể nói khái niệm hàng hoá
trong LTM năm 2005 đã có tính khái quát cao trong hệ thống pháp luật hiện hành.
4. Những quy định chung về mua bán hàng hoá.
Trong LTM năm 2005 có sự bổ sung lớn so với LTM năm 1997, thể hiện qua các
điểm cơ bản như sau:
- Về hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh
có điều kiện;
- Về hoạt động mua bán hàng hóa trong nước: Luật quy định thương nhân được mua

bán tất cả các loại hàng hóa trừ hàng hóa cấm kinh doanh; đối với hàng hóa hạn chế kinh
doanh, kinh doanh có điều kiện thì khi kinh doanh, thương nhân phải đáp ứng các điều kiện
do pháp luật quy định.
- Về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế (Luật khẳng định quyền hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu của mọi thương nhân đối với mọi hàng hóa, trừ những mặt hàng pháp luật
cấm xuất khẩu, nhập khẩu).
- Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp trong lưu thông hàng hoá trong nước và thế
giới: Đây là điểm mới so với LTM năm 1997. Luật đã quy định rõ ràng các biện pháp khẩn
cấp bao như: thu hồi hàng hoá, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông... Luật cũng đồng thời
quy định rõ ràng cơ sở để áp dụng các biện pháp khẩn cấp này, đó là khi hàng hoá là nguồn
gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh hoặc khi xảy ra tình trạng khẩn cấp. việc
23


áp dụng biện pháp khẩn cấp trong mua bán hàng hoá quốc tế. Như chúng ta đã biết thời gian
qua, hoạt động ngoại thương của chúng ta đã bị ảnh hưởng đáng kể do các biện pháp phi
thuế của nước ngoài. Trong điều kiện chúng ta đang đàm phán gia nhập WTO, việc LTM
năm 2005 quy định cơ sở pháp lý để Thủ tướng Chính phủ áp dụng biện pháp khẩn cấp
trong thương mại quốc tế là rất cần thiết để hạn chế các tác hại tiêu cực của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
5. Nghĩa vụ của bên bán.
LTM năm 2005 đã bổ sung thêm một số quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong HĐMBHH được cụ thể trong các điều như: Điều 35, Điều 37; Điều 48; Điều 46 khoản
1. Điều 46 khoản 2. Điều 47 khoản 1) Điều 47 khoản 2.
6. Chuyển rủi ro và chuyển quyền sở hữu.
LTM bổ sung các quy định về chuyển rủi ro trong các trường hợp cụ thể được liệt kê tại các
điều: Điều 57. Điều 58. Điều 59. Điều 60. Điều 61.
7. Nghĩa vụ của bên mua: LTM sửa đổi, bổ sung các quy định về địa điểm thanh toán(
Điều 54), thời hạn thanh toán trong trường hợp các bên không có thỏa thuận( Điều 55); và
nghĩa vụ nhận hàng( Điều 56) và thực hiện những công việc hợp lý của bên mua để bảo

đảm quyền lợi hợp pháp cho bên bán. Đây là sự thay đổi rất quan trọng dựa trên một nguyên
tắc chung của“ tính hợp lý” – nguyên tắc cơ bản nhất để xác định nghĩa vụ của các bên
trong các giao dịch thương mại. Thực tế thương mại cho thấy, không phải lúc nào, các nội
dung mang tính bắt buộc phải có trong hợp đồng được quy định của LTM năm 1997 như
thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, giá cả, thời hạn, địa điểm thanh toán đều được các
bên thoả thuận cụ thể. Trong trường hợp các bên trong hợp đồng không có thoả thuận hoặc

24


thoả thuận không rõ về thời hạn giao hàng thì pháp luật buộc phải quy định để tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng.
8. Vấn đề mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hoá: Vấn đề mua bán hàng hoá qua
Sở Giao dịch hàng hoá được quy định tại Mục 3( từ Điều 63 đến Điều 73). Đây là một chế
định hoàn toàn mới của LTM năm 2005 so với LTM năm 1997.
LTM đưa ra những quy định mang tính cơ bản nhất đối với hoạt động này để làm cơ sở cho
sự phát triển của hoạt động này trong tương lai. Phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, LTM không quy định một cách chi tiết, cụ thể mọi vấn đề liên quan đến
các giao dịch này mà nhiều vấn đề sẽ được Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành.
V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA.
1. Kiến nghị về phía cơ quan nhà nước.
Pháp luật về mua bán hàng hoá nói chung và về H§MBHH nói riêng theo LTM 2005
đã thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như các doanh
nhgiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Ưu điểm của LTM 2005 so với LTM 1997
như đã nói ở các phần trước là quá rõ, tuy nhiên những nhược điểm của nó đến thời điểm
này khó có thể thấy được. Em mong rằng các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành
các văn bản hướng dẫn luật sẽ sáng suốt và nhạy bén để các quy định của LTM 2005 thực sự
đi vào cuộc sống và là hành lang pháp lý hữu hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam trong

tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
2. Kiến nghị đối với công ty.
a. Đối với cán bộ công nhân viên của Công ty

25


×