Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại việt nam ở chương trình ngữ văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.51 KB, 22 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Bộ mơn Ngữ văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình THCS. Nó có sức
mạnh bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm; rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp, phát triển
tư duy.
Trong chương trình lớp 9, bộ mơn Ngữ văn càng có vị trí quan trọng. Bởi vì
lớp 9 là lớp cuối cùng của cấp THCS. Sau khi tốt nghiệp THCS, các em có thể học
lên THPT, có thể đi học nghề và có thể tham gia lao động sản xuất. Học tốt môn Ngữ
văn sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt các bộ môn khác, khả năng giao tiếp của các
em cũng được nâng lên; từ đó, các em có nhận thức và hành động đúng.
Số tiết của môn Ngữ văn 9 cũng chiếm một lượng thời gian lớn nhất so với
mơn học ở THCS nói chung và mơn Ngữ Văn THCS nói riêng ( mơn Ngữ văn 9: 5
tiết/tuần cịn Ngữ văn 6,7,8: 4 tiết/tuần).
Mơn Ngữ văn gồm có 3 phân mơn: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong
phân môn Văn học, các em được học các cụm văn bản: Văn bản nhật dụng, truyện
Trung đại việt Nam, Thơ hiện đại Việt Nam… Trong đó, phần Thơ hiện đại Việt
Nam gồm có 11 bài: “Đồng chí ”, “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”, “ Đoàn
thuyền đánh cá”, “Bếp lửa”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, “Ánh
trăng”, “Con cò”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác”, “Sang thu”, “Nói với
con”. Số tiết dạy và ôn tập là 14 tiết.
Phần thơ hiện đại Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chương trình Ngữ
văn lớp 9, tạo nên sự tồn diện, cân đối trong hệ thống văn bản của Ngữ văn lớp 9.
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò, vị trí của mơn Ngữ văn 9 nói chung và các tác phẩm
thơ hiện đại Việt Nam nói riêng cho nên trong q trình giảng dạy, tơi đã có sự đổi
mới phương pháp giảng dạy, vận dụng linh hoạt các phương pháp, phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp, rút
kinh nghiệm để dạy Ngữ văn 9 trong đó có phần Thơ hiện đại Việt Nam đạt kết quả
cao, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện trong nhà trường.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
a. Mục tiêu:
Từ khi thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa đến nay, việc dạy và học


bộ môn Ngữ văn 9 đã có nhiều chuyển biến theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt phương pháp; sử
dụng có hiệu quả thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn
giảng Ngữ văn, tổ chức nhiều hình thức học tập có hiệu quả cho nên chất lượng dạy
và học văn đã được nâng lên.
Học sinh có nhiều cố gắng trong việc tiếp thu kiến thức và rèn các kỹ năng, thể
hiện cảm nhận của bản thân về các tác phảm văn học đã học nhất là các tác phẩm thơ
hiện đại Việt Nam ở lớp 9.
Tuy nhiên, việc dạy học bộ môn Ngữ văn 9 cũng như phần thơ hiện đại Việt
Nam cũng cịn có mặt hạn chế: Có giáo viên vẫn cịn nặng về kiểu giảng giải, học
sinh nghe, ghi, tái hiện lại theo những gì giáo viên nói, vẫn cịn học sinh lúng túng
1


khi độc lập giải quyết vấn đề, không thuộc các bài thơ, đoạn thơ, chưa có cảm xúc,
nhiều em khơng thích học Văn, ngại học Văn…
Mơn Ngữ văn có vị trí rất quan trọng. Phần thơ hiện đại ở lớp 9 có số lượng bài
lớn, thời gian giảng dạy với số tiết cao, có giá trị lớn về nội dung cũng như nghệ
thuật. Muốn nâng cao chất lượng dạy và học phần thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9, địi
hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp, có nhiều hình thức học tập có hiệu quả
nhằm phát huy vai trị người học; bên cạnh đó, giáo viên cũng cần sử dụng có hiệu
quả thiết bị dạy học. Thơng qua các tiết dạy học Văn, giáo dục cho học sinh ý thức
đúng như u thích bộ mơn, thích học thơ hiện đại Việt Nam, góp phần vào việc nâng
cao chất lượng trong nhà trường.
Với nhận thức như vậy, trong quá trình giảng dạy thơ hiện đại Việt Nam ở Ngữ
văn lớp 9, qua trao đổi với các đồng nghiệp, tôi đã rút ra những bài học để dạy thơ
hiện đại Việt Nam có hiệu quả. Chính vì những vấn đề trên nên tôi mạnh dạn đưa ra
“Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn lớp
9”, nhằm nâng cao chất lượng cho phương pháp dạy- học văn.
b. Nhiệm vụ của đề tài:

Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đó là nguồn nhân lực
có chất lượng cao nên giáo dục phải phát triển về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu của xã
hội. Văn là người, dạy văn là dạy cách làm người. Bộ mơn Ngữ văn có tác dụng rất
lớn trong việc giáo dục đạo đức cho HS.
Học tốt môn Ngữ văn sẽ góp phần học tốt bộ mơn khác vì mơn Ngữ văn có
quan hệ với các mơn khác (diễn đạt rõ ràng, trình bày ý khoa học, mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp…).
Dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 đòi hỏi giáo viên phải hiểu rõ đặc trưng thể
loại, hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm, đồng thời
qua đó nêu bật được nhiệm vụ của đất nước trong từng giai đoạn cũng như tình cảm
của con người Việt Nam thông qua mỗi tác phẩm và các tác giả.
Tạo điều kiện cho HS tiếp thu bài giảng tốt hơn, các em được trình bày suy
nghĩ, cảm nhận của mình, có hứng thú khi học tập Ngữ văn; dần dần các em u
thích bộ mơn, viết văn có cảm xúc hơn và sống sẽ có tình người hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn lớp
9”.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Quá trình giảng dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 của bản thân khi dạy Ngữ
văn trong nhà trường.
Việc học Ngữ văn lớp 9 nói chung và Thơ hiện đại Việt Nam nói riêng của học
sinh khối 9.
5. Phương pháp nghiên cứu:
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu Chuẩn kiến thức, Sách
giáo khoa, Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng, Tài liệu tham khảo, Bài viết về đổi
mới phương pháp dạy học, kiểm tra.

2



- Sử dụng linh hoạt các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; thuyết trình, trắc
nghiệm, thống kê, so sánh, hệ thống hoá kiến thức, kinh nghiệm dạy của bản thân về
Thơ hiện đại đã áp dụng vào giảng dạy trong nhà trường.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Thực hiện qua phương pháp điều tra và kế hoạch nghiên cứu:
+ Nội dung: Thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9
+ Việc dạy của GV trường THCS Dur Kmăn.
+ Tình hình học tập của HS lớp 9 trường THCS Dur Kmăn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Tích luỹ trong quá trình dạy học,
khảo sát thực trạng, kiểm tra kết quả cuối năm, đối chiếu so sánh và rút ra kết luận.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm;

3


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
- Chương trình Ngữ văn THCS được cấu tạo thành hai vòng, tương ứng với
hai lớp đầu cấp ( lớp 6,7) và hai lớp cuối cấp (lớp 8,9), đến lớp 9, học sinh phải hồn
thành việc tiếp nhận các tri thức và hình thành các kỹ năng về văn học, tiếng Việt,
làm văn theo yêu cầu của toàn cấp THCS.
Riêng Thơ hiện đại Việt Nam (từ sau năm 1945) có 11 bài được học ở hai học
kỳ. Học kỳ I, học các bài: “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe khơng
kính” của Phạm Tiến Duật, “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Bếp lửa” của
Bằng Việt, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm”,
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Học kỳ II, học các bài: “Con cò” của Chế Lan Viên,
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, “Sang thu”

của Hữu Thỉnh, “Nói với con” của Y Phương.
Đây là những bài thơ nổi tiếng và nhiều bài thơ đã được các nhạc sĩ phổ nhạc
cho nên được nhiều người trong đó học sinh đã biết và u thích (bài “Mùa xuân nho
nhỏ”, “viếng lăng Bác”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”…)
Đối với môn Ngữ văn ở THCS đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học theo
quan điểm tích hợp, tích cực. Trong khi bảo đảm dạy cho học sinh những tri thức, kỹ
năng đặc thù của phân mơn cịn tìm ra những yếu tố đồng quy giữa ba phân môn Văn
– Tiếng Việt – Tập làm văn để góp phần hình thành và rèn luyện tri thức và kỹ năng
của các phân môn khác, tích hợp nhiều phương pháp trong bài học, tiết học, trong
q trình dạy và học.Tích hợp dọc, ngang, liên thơng nhằm hệ thống hố kiến thức ở
cuối cấp.
Trong phân mơn Văn: Khi dạy các văn bản theo định hướng đổi mới phương
pháp dạy học có nhiệm vụ quan trọng là giúp học sinh có được những kiến thức cơ
bản, hệ thống về các kiểu văn bản. Nắm được nội dung của các văn bản được học
cùng với một số thông tin về tác giả, một số khái niệm về lịch sử văn học, lý luận
văn học và các thao tác tìm hiểu văn bản. Hình thành các kỹ năng phân tích, cảm thụ
văn học nhằm bồi dưỡng trình độ thẩm mỹ và nghệ thuật cho học sinh. Hoàn chỉnh
các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; bồi dưỡng cách thức làm văn và khả năng giao tiếp
hàng ngày. Giáo dục tư tưởng, tình cảm nhân cách theo những cái hay, cái đẹp của
văn bản; giáo dục tình yêu, sự quý trọng tiếng mẹ đẻ cũng như những giá trị của văn
học dân tộc. Bên cạnh đó, giáo dục cho học sinh hứng thú và thái độ học tập khoa
học, nghiêm túc bộ mơn, có ý thức vận dụng những điều đã học vào ứng xử trong gia
đình, nhà trường, xã hội một cách có văn hố.
Trong giờ dạy học Ngữ văn cần chú trọng tới cả hoạt động của giáo viên và
hoạt động của học sinh. Tạo điều kiện cho các đối tượng học sinh được tham gia học
tập đạt kết quả tốt nhất. Sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các phương pháp dạy văn.
Tổ chức nhiều hình thức học tập như hoạt động nhóm, cá nhân. sử dụng sách giáo
khoa, sách tham khảo; hướng dẫn tự học, tự đọc. Giáo viên xây dựng được hệ thống
câu hỏi khoa học, các bài tập nhằm tổ chức, hướng dẫn các đối tượng học sinh tích


4


cực, chủ động học tập, phát triển năng lực cá nhân. Đổi mới soạn giảng theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng; đổi mới kiểm tra, đánh giá việc học của học sinh, coi đây như là
một biện pháp kích thích việc học tập của học sinh. Không những thế, giáo viên cần
ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong soạn giảng, sử dụng thiết bị dạy học
thường xuyên, có hiệu quả nhất là thiết bị dạy học hiện đại.
* Thơ hiện đại Việt Nam (từ sau 1945):
- Hoàn cảnh sáng tác: Từ năm 1930, khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt
Nam ngày càng phát triển và Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á. Nhưng ngay sau đó, thực dân Pháp
quay trở lại hòng chiếm nước ta một lần nữa. Nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề đứng lên kháng chiến chống
Pháp với mn vàn khó khăn gian khổ nhưng cũng đầy tháng lợi vẻ vang và kết thúc
bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “…lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa
cầu…”. Miền Bắc nước ta được giải phóng, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền
Nam tiếp tục đấu tranh chống Mỹ và bè lũ tay sai. Qua đấu tranh anh dũng, bằng đại
thắng Mùa xuân 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất và đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đất nước ta đạt nhiều thành tựu mới trên các lĩnh vực, đang thực hiện
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”.
Hiểu rõ hồn cảnh đất nước như vậy, các tác phẩm thơ hiện đại thuận lợi hơn ;
hiểu hơn tình cảm, tư tưởng của con người Việt Nam, vì Văn là người, văn học phản
ánh cuộc sống và phục vụ cuộc sống.
- Các bài thơ hiện đại Việt Nam học ở lớp 9 được sáng tác trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ và sau năm 1975, của các tác giả thuộc nhiều thế hệ.
Có những cây bút trưởng thành từ trước cách mạng, những tác giả trưởng thành từ
hai cuộc kháng chiến là đông đảo hơn cả, một số trưởng thành từ sau năm 1975. Các
bài thơ đề cập đến nhiều đề tài, chủ đề khác nhau, thể hiện sự phong phú trong đời

sống tình cảm, tư tưởng của con người Việt Nam thời hiện đại, trong sự đa dạng về
hình thức thể loại.
- Ở lớp 7,8, các em đã được tìm hiểu về tác phẩm trữ tình, lên lớp 9 các em
tiếp tục được tìm hiểu về các tác phẩm Thơ trữ tình.
Khi dạy các bài thơ trữ tình, người dạy cần đặc biệt chú ý sự vận động của
hình tượng trữ tình trong mạch cảm xúc của bài thơ. Trình tự phân tích một bài thơ
cũng nên theo diễn biến đó. Ở bài “Mùa xuân nho nhỏ” là sự vận động, biến đổi của
hình tượng cảm xúc từ mùa xuân của thiên nhiên đến mùa xuân đất nước và mùa
xuân nhỏ của mỗi cuộc đời. Đó cũng là hướng vận động từ cảm xúc trực tiếp đến
cảm nhận và suy tưởng của tác giả trước mùa xuân.
Trong bài “Con cò” của Chế Lan Viên , thì đó là sự vận động của hình tượng
con cị trong những lời ru, được mở rộng các ý nghĩa biểu tượng qua ba đoạn của bài
thơ.

5


Ở bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, hình tượng cơ bản là trăng được khai
triển theo chiều liên tưởng hiện tại – quá khứ, với không gian phố phường- đồng nội
– chiến trường, để từ đó gợi ra ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm. Cái tơi trữ tình, mặc
dù là vấn đề trung tâm của tác phẩm trữ tình, nhưng cách biểu hiện lại hết sức đa
dạng. Có khi bộc lộ trực tiếp trong hình tượng cái tơi chủ thể trữ tình như bài “Viếng
lăng Bác”, “Bếp lửa”, “Mùa xuân nho nhỏ” nhưng rất nhiều trường hợp lại hoá thân
vào hình tượng khác, vào đối tượng được miêu tả như bài “Đoàn thuyền đánh cá”,
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”, “Con cị”.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Trong những năm qua, thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và
mơn Ngữ văn nói riêng ở các trường THCS đã đạt được nhiều kết quả đáng phấn
khởi. Nhiều chuyên đề về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng môn Ngữ
văn đã được tổ chức, thu hút các các nhà quản lý giáo dục và nhất là giáo viên trực

tiếp đứng lớp tham gia. Đổi mới phương pháp dạy học là nhấn mạnh tính tích cực
của học sinh trong hoạt động học tập, tới khâu tiếp nhận và vận dụng những kiến
thức, kỹ năng môn học của HS được chú trọng hơn. Giờ học văn đã có chất văn, kỹ
năng đọc nhất là đọc diễn cảm được chú trọng. Trong giờ học , GV quan tâm đến
việc suy nghĩ, trả lời, làm bài của HS.
Việc học Văn trong nhà trường hiện nay hầu hết học sinh có sự lơ là, thiếu chủ
tâm vì có quan điểm chung là khác thời thế, thiếu áp dụng thực tế cuộc sống, phần
kiến thức lý thuyết mênh mang sáo rỗng lại bị gị bó, áp đặt nên chán nản trong việc
học. Vài năm trở lại đây, nhằm giúp người dạy tiếp cận nhanh chóng và áp dụng rộng
rãi những phương pháp dạy học tích cực, nơi nơi đều tổ chức nhiều đợt tập huấn,
chun đề bổ ích, có ý nghĩa, hỗ trợ rất nhiều trong công việc dạy học của giáo viên.
Tuy nhiên, chuyên đề, hội thảo về phương pháp dạy học các văn bản thơ hiện đại
thực tế vẫn chưa được đi sâu.
Sự hiểu biết và vận dụng những định hướng đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh của một số giáo viên chưa
có hiệu quả cao, cịn máy móc, đơi khi cịn có thói quen dạy theo kiểu thầy nói trị
nghe ghi, tái hiện. Giờ dạy thơ biến thành giờ diễn xuôi các câu thơ, bài thơ, khơng
có cảm xúc khi dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn
9.
Học sinh: Vẫn cịn tồn tại thói quen thụ động, quen nghe, chép, ghi nhớ và tái
hiện những gì giáo viên nói. Học sinh cịn lúng túng khi được giao bài, hoạt động
nhóm, làm bài khơng dám thốt ly tài liệu, cảm nhận còn sơ sài sau mỗi bài học. Vận
dụng kiến thức đã học vào làm bài kiểm tra và vận dụng vào cuộc sống cịn nhiều
hạn chế. Khơng những thế, học sinh còn nhiều hạn chế khi đọc, chữ viết còn sai
nhiều, không thuộc các câu thơ, bài thơ. Kiến thức cơ bản nắm khơng chắc, kỹ năng
làm bài cịn hạn chế rất nhiều.
- Số lượng các bài thơ khá nhiều và khá dài nên việc soạn giảng để có chất
lượng mỗi giáo viên phải đầu tư thời gian và sức lực cũng như trí tuệ; phải bám sát
chuẩn kiến thức và kỹ năng và vận dụng linh hoạt các phương pháp.


6


- Tuy nhiên, trong quá trình dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9, tơi cũng thấy
có một số khó khăn: Số lượng các bài thơ nhiều (11 bài), dạy ở cả học kỳ I, học kỳ
II; một số học sinh chưa thích học văn, ngại học thuộc các bài thơ, đoạn thơ, văn viết
khơng có cảm xúc…
Từ những bất cập trên, bản thân đã vận dụng những phương pháp có sẵn và
đồng thời tạo ra nhiều phương pháp mới để tích cực thực hiện một cách khá hiệu quả
như đề tài đã đưa ra.
- Tư tưởng và cũng là mục đích của hoạt động đổi mới phương pháp dạy môn
Ngữ văn cũng như các môn trong trường THCS hiện nay là tích cực hố hoạt động
học tập của học sinh, với ý nghĩa người học tích cực, chủ động trong lĩnh hội và vận
dụng kiến thức kỹ năng. Học sinh được coi là những đối tượng vốn có sẵn những
tiềm năng mà giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm năng
đó được phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo.
Khơng gị bó giờ học trong một quy trình cứng nhắc với những bước đi bắt
buộc , GV có quyền chủ động sáng tạo thiết kế giờ học căn cứ vào mục tiêu cụ thể
của bài học, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng. Giờ học phải bảo đảm được những
mục tiêu cần đạt, khoa học về nội dung; linh hoạt, nghệ thuật về biện pháp sư phạm
và đọng lại được những ấn tượng sâu sắc ở học sinh.
Đây là một đề tài đã được cụ thể hóa trong từng phần học của chương trình ấn
định sẵn, là điều kiện thuận lợi để người nghiên cứu có thể lựa chọn, bổ sung, kế
thừa trên cơ sở những cái đã có sẵn mà xây dựng thêm những phương pháp, ý tưởng
mới. Vì vậy, những kinh nghiệm được nêu ra ở đây đã được thầy cô dạy học Ngữ văn
thực hiện trong từng giờ dạy.
Mặt khác, những biện pháp nêu ra ở đây bất kì giáo viên nào dạy học mơn
Ngữ văn cũng đều có thể áp dụng được vì nó vừa cụ thể, thiết thực lại gần gũi.
Mặc dù đây là đề tài quen thuộc nhưng nếu như người giáo viên khơng chủ
động, khơng nghiền ngẫm tìm tịi, khơng bám sát, khơng nghiên cứu, lại khơng xuất

phát từ chính cái tâm và thực tế cơng việc dạy học hằng ngày thì rất khó để mang
đến sự cảm thụ văn học từ phía học sinh.
Trên thực tế hiện tượng chán học văn, xa rời văn (ở cả 3 phân môn) đang ngày
càng lan rộng. Điều này khiến những người dạy văn không khỏi trăn trở. Kiểu học
càng nhồi nhét kiến thức học sinh sẽ càng sợ. Có em cho rằng học văn giỏi khơng
biết để làm gì, theo văn là theo một cái gì đó xa rời thực tế, là mơn chỉ dành cho
những người ưa lãng mạn. Người dạy văn nếu cứ “mặc kệ” thì khơng biết chất lượng
giáo dục sẽ đi về đâu? Người tâm huyết thì sẽ đau đáu làm thế nào để mơn văn có
một vị trí ngang bằng với các mơn học khác trong lịng học trị.
Qua tham khảo ý kiến của nhiều giáo viên Ngữ văn, họ đều có chung một
nhận xét về học trị của mình: “lười, chán, khơng thèm học”, thậm chí có cách nghĩ
là học văn đơn điệu, buồn ngủ, mờ mịt tương lai và chẳng có gì thú vị khi thầy và trị
chỉ bằng ngơn ngữ để tìm ra kiến thức.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:

7


a. Mục tiêu của giải pháp
Mục tiêu của tôi đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
phần thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn 9.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Thơ hiện đại Việt Nam học sinh được học ở lớp 9 gồm 11 bài thơ, được học ở
trong học kỳ I và học kỳ II. Các bài thơ được học có thể chia ra theo từng giai đoạn
lịch sử:
+ Giai đoạn 1945-1954: bài thơ “Đồng chí”.
+ Giai đoạn 1954-1964: các bài thơ ‘Đoàn thuyền đánh cá”, “Bếp lửa”, “Con
cò”.
+ Giai đoạn 1964-1975: các bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”,
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.

+ Sau năm 1975: có các bài thơ “Ánh trăng”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng
lăng Bác”, “Nói với con”, “Sang thu”.
Các tác phẩm thơ kể trên đã tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con
người Việt Nam suốt một thời kỳ lịch sử từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, qua
nhiều giai đoạn:
+ Đất nước và con người Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ với nhiều gian khổ, hi sinh nhưng rất anh dũng.
+ Công cuộc lao động xây dựng đất nước và những quan hệ tốt đẹp của con
người.
+ Điều chủ yếu mà các tác phẩm thơ thể hiện chính là tâm hồn, tình cảm, tư
tưởng của con người trong một thời kỳ lịch sử có nhiều biến động lớn lao, nhiều đổi
thay sâu sắc. Đó là tình cảm u nước, tình q hương; tình đồng chí, sự gắn bó với
cách mạng, lịng kính u Bác Hồ; những tình cảm gần gũi và bền chặt của con
người: tình mẹ con, bà cháu, trong sự thống nhất với những tình cảm chung rộng lớn.
Sau đây, tôi đi vào nêu cách dạy học cho một số bài thơ.
1/ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Khi dạy bài này, mục tiêu cần đạt là học sinh cảm nhận được vẻ đẹp chân thực,
giản dị của tình đồng chí, đồng đội và hình ảnh người lính cách mạng được thể hiện
trong bài thơ. Nắm được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: chi tiết chân thực, hình ảnh
gợi cảm và cơ đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Rèn kỹ năng cảm thụ và phân tích các
chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh trong một tác phẩm thơ giàu cảm hứng hiện thực mà
không thiếu sự bay bổng. Giáo dục học sinh tình cảm yêu mến và kính trọng anh bộ
đội.
Sau khi kiểm tra bài cũ và việc soạn bài của học sinh, giáo viên đi vào hướng
dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ.
- Trong phần tìm hiểu tác giả Chính Hữu. Cho HS đọc phần chú thích trong
sách giáo khoa, cho các em trả lời câu hỏi: ? Hãy nêu tóm tắt những nét cơ bản nhất
về tác giả Chính Hữu? Giáo viên nhấn mạnh các ý cơ bản theo Tài liệu tham khảo:
Chính Hữu (Trần Đình Đắc) là người lính Trung đồn Thủ đơ trở thành nhà thơ quân
đội. Thơ của ông hầu như chỉ viết về người lính và hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là


8


những tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng đội, tình q hương,
sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.
Giới thiệu chân dung nhà thơ- đại tá Chính Hữu và tập thơ “Đầu súng trăng
treo”
? Bài thơ ra đời trong hồn cảnh nào? Chính Hữu cùng đơn vị tham gia chiến đấu
trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947). Trong chiến dịch ấy, cũng như
những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ
tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua tất cả
để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch Việt Bắc, Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí”
vào đầu năm 1948, tại nơi ơng nằm điều trị bệnh. Bài thơ là sự thể hiện những tình
cảm tha thiết, sâu sắc của tác giả với những người đồng chí, đồng đội của mình.
Hướng dẫn học sinh đọc bài thơ: đọc chậm rãi, tình cảm, chú ý những câu thơ
tự do, vần chân, cách đối xứng trong việc sắp xếp chi tiết, hình ảnh…Câu thơ “Đồng
chí” đọc với giọng lắng sâu, ngẫm nghĩ; câu thơ cuối cùng đọc với giọng ngân nga.
? Cảm hứng của bài thơ là gì? Cảm hứng nào là chủ yếu?
Bài thơ có 20 dòng, cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình
đồng chí, đồng đội nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn
dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (dịng 7,17,20). Sáu dịng
đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí, đồng đội. Dịng 7 (Đồng
chí !) có cấu trúc đặc biệt, chỉ một từ với dấu chấm cảm như một phát hiện, một lời
khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. Mười dịng tiếp theo, mạch
cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết
biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó. Ba dịng thơ cuối được
tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “đầu
súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
Trong phần phân tích bài thơ, tơi đã đi vào hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài

thơ với các hoạt động sau đây:
* Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính:
? Theo nhà thơ, tình đồng chí, đồng đội giữa tơi (chủ thể- nhân vật trữ tình) và
anh (người lính đồng đội – anh bạn nơng dân mặc áo lính) bắt nguồn từ cơ sở nào?
Những hình ảnh “nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá” nói lên điều gì về nguồn
gốc xuất thân của anh và tơi?
- Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất
thân nghèo khổ. Những thành ngữ “nước mặn đồng chua”- quê anh – là hình ảnh dải
đồng bằng Hà Nam, Thái Bình, Nam Định quanh năm chiêm khê mùa thối, sống
ngâm da, chết ngâm xương; cịn làng tơi là làng trung du, đất bạc màu hoặc khô cằn
sỏi đá. Các anh đều là những người nông dân nghèo từ nhiều làng quê V tập hợp lại
thành đội quân cách mạng và trở nên thân quen với nhau.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ”
- Tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau
trong chiến đấu.
Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và thành bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ
mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà
9


tác giả đã biểu hiện bằng hình ảnh thật cụ thể, giản dị, hết sức gợi cảm. Từ những
người xa lạ, họ trở thành những người bạn chung mục đích, chung lý tưởng, gắn bó
với nhau trong nhiệm vụ cao cả. Họ đã trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
? Tại sao câu thơ thứ bảy chỉ có hai tiếng “Đồng chí !” ? Bình giảng vẻ đẹp
của câu thơ đặc biệt ấy ?
- HS trình bày cảm nhận của mình trước lớp, GV nhấn mạnh nội dung cơ bản:
Đây là câu thơ quan trọng bậc nhất của bài thơ. Nó được lấy làm nhan đề của bài; nó
biểu hiện chủ đề, linh hồn của bài thơ. Nó như cái bản lề nối hai đoạn thơ, khép mở
hai ý thơ cơ bản: những cơ sở của tình đồng chí, những biểu hiện của tình đồng chí.

Nó vang lên giản dị, mộc mạc nhưng rất đỗi thiêng liêng, cảm động, khẳng định và
ca ngợi một tình cảm cách mạng mới mẻ, bắt nguồn từ những tình cảm truyền thống:
tình bạn, tình đồng đội trong chiến đấu nhưng đã được đổi mới và nâng cao trong
hoàn cảnh mới, thời đại mới.
* Những biểu hiện của tình đồng chí:
- Học sinh đọc diễn cảm 10 dòng thơ tiếp theo và suy nghĩ trả lời câu hỏi sau:
ba câu “Ruộng nương… ra lính”, gợi cho em thấy biểu hiện gì của tình đồng chí?Từ
“mặc kệ” có phải chứng tỏ người lính rất vơ tâm, vơ tình và vơ trách nhiệm với gia
đình? Ý kiến của em?
- Học sinh phát biểu cảm nhận của mình, GV nhấn mạnh lại: Đồng chí, trước
hết là sự cảm thơng sâu xa nỗi lịng của nhau; ở đây, cụ thể là nỗi nhớ nhà, là tình
cảm lúc lên đường tịng qn đánh giặc.
Từ “mặc kệ” có nghĩa đen là bỏ tất, để lại, không quan tâm. Nhưng ở đây,
chàng trai cày vốn gắn bó với mảnh ruộng nhà mình, ngơi nhà tranh nghèo của mình,
từ bao đời, ít ra khỏi luỹ tre xanh, ra khỏi cổng làng. Thế mà nay, dứt áo ra đi đến
những phương trời xa lạ, vào nơi khói lửa, súng đạn hiểm nguy hẳn phải xuất phát từ
tình cảm lớn lao, quyết tâm mãnh liệt. Đó là đi đánh giặc cứu nước, theo Cụ Hồ đi
kháng chiến. Tình cảm lớn đã chiến thắng tình cảm nhỏ. Mặt khác, từ “mặc kệ” có
phần gợi ra chất vui, tiếu táo, hóm hỉnh, tình cảm lạc quan cách mạng của người lính
trẻ. Hồn tồn khơng phải người lính vơ tâm, vơ trách nhiệm với gia đình, cha mẹ,
vợ con, quê hương mà ngược lại. Sự hi sinh tình nhà cho việc nước ở đây thật giản dị
và cảm động. Đồng chí, đó là sự cảm thơng sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
? Những câu thơ tiếp theo vẫn nói về tình đồng chí một cách cụ thể. Những
hình ảnh nào làm em xúc động?
- Học sinh đọc các câu thơ, cảm nhận, phát biểu:
Đồng chí, đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời
người lính. Những câu thơ đối nhau- đối xứng chứ không đối lập: “áo anh- quần tôi,
rách vai- vài mảnh vá” một cách đầy dụng ý. Chia sẻ kỉ niệm về những trận sốt rét
rừng- căn bệnh kinh niên và phổ biến của những người lính phải sống
và chiến đấu trong hồn cảnh núi rừng vơ cùng thiếu thốn, gian khổ.

Hình ảnh “miệng cười buốt giá”, nụ cười bừng lên, sáng lên trong gió rét,
trong sương muối, trong đêm trăng hay buổi sáng sớm của những người lính chân
khơng giày, áo rách, quần vá, tê tái và khó nhọc, nụ cười của tình đồng chí, tình
thương yêu vô bờ trong im lặng, trong hơi ấm của bàn tay nắm lấy bàn tay. Đoạn thơ

10


khắc hoạ tình đồng chí trong chiến đấu, trong sinh hoạt của người chiến sĩ thật cụ
thể, gần gũi, chắt lọc mà tiêu biểu và cảm động.
- GV liên hệ thêm về đề tài người lính, tình đồng chí trong thơ Chính Hữu:
“Đồng đội ta là hớp nước uống chung, bát cơm sẻ nửa, là chia nhau một mảnh tin
nhà, chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…”
*Đoạn kết bài thơ:
? Hãy đọc các câu thơ cuối của bài và phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình ảnh
kết bài: “Đầu súng trăng treo”?
- Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc, ba câu thơ dựng lên bức tranh đẹp
về tình đồng chí trong chiến đấu, biểu tượng đẹp về cuộc đời chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang, sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Ba hình ảnh: người lính, khẩu súng, vầng trăng trong cảnh rừng hoang, sương
muối trong đêm phục kích đợi giặc. Chính tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng đã gắn
bó hai người- rộng ra là những người lính cách mạng. Sức mạnh của tình đồng chí đã
giúp họ đứng vững bên nhau, vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi
gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm họ giữa cảnh đêm trăng mùa đông vô
cùng lạnh giá nơi chiến trường.
- Khi phân tích câu thơ “Đầu súng trăng treo”, tôi đã kết hợp cho HS theo dõi
hình ảnh trong sách giáo khoa để giúp cho việc hình dung về hình ảnh thể hiện trong
câu thơ được thuận lợi và đầy ấn tượng.

+ Câu thơ vừa cơ đọng vừa gợi hình, gợi cảm. Câu thơ gợi ra hình ảnh thực và
mối liên hệ bất ngờ của nhà thơ- người lính: Mảnh trăng như treo lơ lửng trên đầu
ngọn súng, Súng và trăng, gần và xa, thực tại và mơ mộng, hiện thực và lãng mạn.
Đó là vẻ đẹp hài hoà của tâm hồn chiến sĩ- thi sĩ, vẻ đẹp của cuộc đời anh bộ đội.
+ GV nêu thêm về ý kiến Chính Hữu về hình ảnh đầu súng trăng treo: “Đầu
sung trăng treo” , ngồi hình ảnh bốn chữ này cịn có nhịp điệu như nhịp lắc của một
cái gì lơ lửng, chơng chênh, trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở xa chứ
không buộc chặt, suốt đêm, vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như
treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng là một
người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật”.
+” Đầu súng trăng treo” với ý nghĩa biểu tượng đẹp và khái quát cao nên tác
giả đã dùng câu thơ này làm nhan đề cho cả tập thơ chống Pháp và chống Mỹ của
mình: tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
Sau khi tìm hiểu bài thơ, GV hướng dẫn các em khái quát về hình ảnh người
lính trong bài thơ: vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, là anh bộ đội
hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là anh bộ đội xuất thân từ nông dân.
Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì
nghĩa lớn. Những người lính đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng: những
cơn sốt run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh.
Nhưng gian
lao, thiếu thốn càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ đội, vẫn sáng lên nụ cười người
lính. Những gian khổ, thiếu thốn của ngời lính được tác giả miêu tả rất thật, khơng tô
vẽ, cường điệu. Chi tiết thật đã được chọn lọc nên vừa chân thực vừa có sức gợi cảm
11


cao. Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội. Kết tinh hình ảnh người lính và tình
đồng chí ở họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn cuối bài thơ.
- Tổng kết: GV cho HS phát biểu cảm nhận về giá trị nội dung và nghệ thuật
bài thơ. Chú ý ghi nhớ trong sách giáo khoa.

? Tại sao bài thơ viết tình đồng đội của người lính lại được đặt tên là “Đồng
chí” GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Đồng chí là cùng chung chí hướng, lí tưởng.
Đây cũng là cách xưng hô của những người cùng chung một đồn thể cách mạng. Vì
vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình
đồng đội.
GV nhấn mạnh thêm: Bài thơ là một trong những thành công sớm nhất của thơ
ca viết về bộ đội, đặc biệt là góp phần mở ra phương hướng khai thác chất thơ, vẻ
đẹp của người lính trong cái bình dị, bình thường, chân thật. “Đồng chí” là một bài
thơ tiêu biểu của Chính Hữu và thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Nói đến Chính
Hữu là người ta khơng thể khơng nhắc tới bài thơ nổi tiếng này.
2/ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật:
- Khi dạy bài thơ này, cần đạt được mục tiêu sau: Học sinh cảm nhận được nét
độc đáo của hình tượng những chiếc xe khơng kính cùng hình ảnh những người lái
xe Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi trong bài thơ. Thấy được những nét
riêng của giọng điệu, ngôn ngữ bài thơ.
Rèn kỹ năng phân tích hình ảnh, ngơn ngữ thơ.
Giáo dục học sinh tình cảm yêu quý người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt
Nam.
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Học sinh đọc sách giáo khoa, GV nhấn mạnh các ý sau: Phạm Tiến Duật,
sinh năm 1941, quê ở Phú Thọ. Năm 1964, ông gia nhập quân đội, hoạt động trên
tuyến đường Trường Sơn. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà
thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện thể hệ trẻ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước qua các hình tượng người lính và cơ thanh niên xung phong
trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ơng có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên,
tinh nghịch mà sâu sắc.
- “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật
được giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ
“Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.

Giới thiệu chân dung Phạm Tiến Duật và các tác phẩm của ông, các bài thơ đã được
phổ nhạc…
- Hướng dẫn đọc: Giọng điệu vui tươi khoẻ khoắn, ngang tàng, dứt khoát; nhịp
thơ dài, câu thơ gần với câu văn xi, có vẻ lí sự , ngang tàng… đó là giọng điệu chủ
yếu của bài thơ. Có đoạn đọc giọng tâm tình, chậm (Khổ thơ 7,8).
GV đọc, gọi HS đọc, sau đó GV nhận xét bổ sung.
? Em có nhận xét gì về thể thơ? Thơ tự do, câu dài, nhịp điệu như câu văn
xi, ít vần, 4 câu một khổ.
GV nêu tiếp: Bài thơ là cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về những chiếc xe
khơng kính và những người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ. 7
12


khổ thơ đều xoay quanh và làm nổi bật chủ đề- tứ thơ chủ đạo đó nên khơng thể và
khơng cần chia đoạn.
* Nhan đề bài thơ và hình ảnh những chiếc xe khơng kính:
- “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”: Nhan đề rất độc đáo, mới lạ. Bởi vì,
mấy ai có thể hình dung những chiếc xe ơ tơ khơng cịn kính chắn gió lại có thể khơi
nguồn cho cảm hứng thơ? Xưa nay, những chiếc xe đưa vào thơ ca thường được lãng
mạn, mĩ lệ hoá ít nhiều.
Hình ảnh những chiếc xe trần trụi, xây xước, khơng kính, khơng đèn mà vẫn
băng băng ra tiền tuyến, chở quân, chở đạn, gạo, súng, hướng về miền Nam là hình
ảnh thực và thường gặp trong những năm tháng chống Mỹ gian lao và hào hùng.
Hình ảnh ấy, lần đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến nay khơi dậy cảm hứng thơ
của Phạm Tiến Duật.
* Hình ảnh những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn- chủ nhân của những
chiếc xe khơng kính.
- HS đọc sách giáo khoa.
? Hai câu thơ đầu có giọng điệu như thế nào? Giọng điệu ấy có phù hợp với tính
cách người lái xe?

- GV nhấn mạnh: Hai câu đầu có giọng điệu ngang tàng, lí sự với cấu trúc:
Khơng có….khơng phải vì khơng có…
Thực ra có thể nói: Xe khơng có kính vì kính đã bị vỡ do sức ép, sức rung của
bom. Nhưng nhà thơ lại chọn cách nói như là muốn tranh cãi với ai. Giọng này rất
phù hợp với tính cách ngang tàng, dũng cảm, đầy nghị lực, thích tếu nhộn của những
lái xe Trường Sơn.
? Tư thế, cảm giác và tâm trạng của người lái xe khi điều khiển chiếc xe khơng
có kính chạy trên những nẻo đường Trường Sơn như thế nào? Điệp từ “nhìn” có tác
dụng gì? Các so sánh liên tiếp ở cuối khổ 2 có ý nghĩa gì ?
- Tư thế: ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự tin, thanh thản: nhìn đất, nhìn
trời, nhìn thẳng. Cách dùng điệp từ “nhìn”, cùng từ “thấy” góp phần tả cái cảm giác
thị giác của người lái xe.
Cảm giác kì lạ, đột ngột do xe chạy nhanh, do khơng cịn có kính chắn gió
nên mới thấy đắng, thấy cay mắt, khi giói thổi thốc vào mặt. Thiên nhiên trực tiếp
vun vút, sa, ùa vào buồng lái, sao trời, cánh chim, con đường. Hình ảnh “con
đường chạy thẳng vào tim” tả cái cảm giác xúc động, khoan khoái khi cho xe phóng
nhanh.
? Hai khổ thơ 3,4 tiếp tục giọng điệu như thế nào? Cách nói “ừ thì”có tác dụng
gì? Hai khổ thơ làm sáng lên vẻ đẹp của phẩm chất gì của người lái xe?
- Khổ thơ 3,4: khắc hoạ phẩm chất dũng cảm, tinh thần lạc quan coi thường
khó khăn gian khổ của người lái xe, vẫn bằng giọng điệu ngang tàng, đùa tếu, nghịch
ngợm “khơng có kính ừ thì có bụi; Khơng có kính ừ thì ướt áo…” lái xe ngày nắng
thì ngập trong bụi (Bụi Trường Sơn nhoà trong trời lửa- “Lá đỏ” – Nguyễn Đình
Thi). Vậy mà chưa cần rửa, châm hút thuốc phì phèo, rồi nụ cười ha ha mạnh mẽ,
sảng khoái, bất cần. Lái xe ngày mưa thì buồng lái như ngồi trời. Mặc kệ! Cứ lái
thêm trăm cây số nữa là mưa sẽ phải tạnh, là quần áo sẽ khô. Cách nói: ừ thì, chưa

13



cần rửa, chưa cần thay… tiếp tục đưa ngôn ngữ lái xe, ngôn ngữ văn xuôi đời thường
vào thơ làm cho bài thơ mang giọng điệu mới mẻ, trẻ trung,rất nghịch.
? Hai khổ thơ 5,6, cho người đọc thấy rõ hơn những nét sinh hoạt gì của những
tiểu đội lính lái xe ?
Trong các hình ảnh: cái bắt tay qua cửa kính vỡ, bếp Hồng Cầm, võng mắc
chơng chênh đường xe chạy, em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao?
- HS trả lời, GV nhận xét, bổ sung:
Những người chiến sĩ lái xe, vui trong niềm vui ấm áp của tình đồng chí, đồng
đội. “Bắt tay qua cửa kính vỡ”, cái bếp Hồng Cầm khơng khói dựng giữa trời mà
thằng giặc Mỹ chẳng thể gì phát hiện, chiếc võng dù mong manh mà bền chắc mắc
đu đưa chông chênh, trên thùng xe hay nơi dừng xe trên đường.Tất cả chỉ là tạm thời
cịn mục đích chính là đi, lại đi, lại lên đường, ơm vơ lăng đưa xe về phía trước. Sinh
hoạt khẩn trương nhưng vẫn đàng hồng, khơng hề tạm bợ. “Võng mắc chông
chênh” là tạm thời, nhưng cũng là những phút nghỉ ngơi hiếm có, những phút sum
họp gia đình, đồng đội đặc biệt của họ hàng nhà lính lái xe.
? GV cho HS thảo luận nhóm câu hỏi: Nhà thơ trở lại tả hình dáng chiếc xe
khơng kính để làm gì? Câu kết “Chỉ cần trong xe có một trái tim” hay ở chỗ nào?
Tác giả nhắc lại, tả lại hình dáng chiếc xe khơng cịn ngun vẹn là để khẳng
định những khó khăn, gian khổ, nguy hiểm ngày càng tăng, ngày càng ác liệt của
nhiệm vụ phục vụ chiến đấu của những người lính lái xe Trường Sơn, nhưng cuối
cùng, nhiệm vụ vẫn là trên hết, trước hết. Tất cả vì miên Nam ruột thịt! Tất cả để
chiến thắng giặc Mỹ xâm lược ! Phía trước là miên Nam, phía trước là mặt trận; phía
trước là mục đích. Khơng có khó khăn nào, kẻ thù nào cản nổi xe ta đi. Vì sao? Đơn
giản vì trong xe có một trái tim của người chiến sĩ lái xe anh hùng.Ý chí và quyết
tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của những chiến sí lái xe đã thể hiện
trong cách nói, hình ảnh mới lạ và bất ngờ và chân thực ấy.
* Tổng kết, luyện tập:
? Em hãy nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật bài thơ ? Nội dung bài thơ?
GV hướng dẫn: Nhiều chi tiết thực của đời sống chiến tranh được đưa vào bài
thơ một cách tự nhiên, mới lạ, bất ngờ mà hợp lý, mà hình ảnh trung tâm là những

chiếc xe khơng kính.
Giọng điệu ngang tàng, dí dỏm, hóm hỉnh mà chân thực, bộc trực, ồn ào rất
phù
hợp với tính cách phóng khống của những người lính lái xe.Thể thơ tự do, lời thơ
rất gần với lời nói thường, lời văn xuôi mà vẫn thấm đẫm chất thơ.
Phạm Tiến Duật đã mở đầu thành công một phương pháp mới cho thơ ca Việt Nam
hiện đại: mạnh dạn đưa thực tế vào thơ, rút ngắn khoảng cách giữa thơ và văn xi,
ngơn ngữ viết và ngơn ngữ nói.
- HS đọc phần ghi nhớ trong sách giáo khoa.
3/ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
Khi dạy bài này, tôi đã xác định mục tiêu cần đạt: Học sinh cảm nhận được
những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng
đẹp đẽ muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời. Từ đó mở ra

14


những suy nghĩ về ý nghĩa, giá trị của cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có
cống hiến cho cuộc đời chung.
Rèn kỹ năng cảm thụ, phân tích hình ảnh thơ trong mạch vận động của tứ thơ.
Giáo dục học sinh trách nhiệm của mỗi người là tham gia xây dựng quê hương đất
nước giàu đẹp. Học sinh phải ra sức học tập để đạt kết quả cao, sau này trở thành
người công dân tốt.
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Học sinh đọc sách giáo khoa, GV nhấn mạnh các ý sau đây:
- Thanh Hải (1930-1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Thừa Thiên
– Huế. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước,
Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công xây
dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam.
- Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết không bao lâu trước khi nhà thơ qua

đời, thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.
Bài thơ đã được phổ nhạc và nhiều người yêu thích…
* Hướng dẫn đọc:
- GV hướng dẫn học sinh cách đọc: Giọng vui tươi và suy ngẫm, nhịp thơ lúc
nhanh, tưng bừng, phấn khởi và khẩn trương, lúc chậm khoan thai, càng về cuối càng
lắng chậm, nhỏ dần.
GV đọc, gọi HS đọc, GV nhận xét, bổ sung.
- Thể thơ: 5 tiếng, nhịp 3/2; 2/3
? Bài thơ có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung từng phần ?
- 4 phần:
+ 6 câu đầu: Mùa xuân thiên nhiên
+ 10 câu tiếp theo: Mùa xuân đất nước
+ 8 câu tiếp theo: Nghĩ suy và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
+ 4 câu cuối: Lời ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
* Phân tích bài thơ:
- Hình ảnh mùa xn của thiên nhiên và đất nước:
? Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân được tác giả phác hoạ như thế nào ?
“Mọc giữa dòng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc”
Cấu tạo ngữ pháp của hai câu thơ này là đảo vị ngữ trong. Động từ “Mọc”
đứng đầu bài thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nó khơng chỉ tạo cho người
đọc một ấn tượng đột ngột, bất ngờ, mới lạ mà cịn làm cho hình ảnh, sự vật trở nên
sống động như đang diễn ra trước mắt. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ
mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh sông xuân.
Âm thanh: tiếng chim hót càng làm cho khơng khí trở nên vui tươi, rộn ràng,
ấm áp và náo nức. “Từng giọt long lanh” khơng rõ là giọt gì? Giọt sương sớm? Giọt
mùa xn ? Giọt long lanh là giọt nước trong suốt phản chiếu ánh bình minh.”Tơi
đưa tay tơi hứng” : muốn thâu nhận cả vẻ đẹp mới mẻ, tinh khiết, trong sáng của
thiên nhiên, đất trời hào phóng ban tặng cho con người.
Nếu liên hệ với hai câu trên thì có thể hiểu là giọt long lanh âm thanh tiếng

chim chiền chiện đang hót vang trời. Tiếng chim long lanh, âm thanh long lanh là sự
15


chuyển đổi cảm giác, là tưởng tượng phong phú của nhà thơ trong niềm vui hân hoan
được kích thích từ buổi sáng mùa xuân tuyệt vời trên quê hương mình.
- Hướng dẫn HS thảo luận và trình bày ý kiến về câu hỏi sau đây: Nhà thơ mở
rộng cái nhìn, tả mùa xuân như thế nào? Tại sao gọi là mùa xuân nho nhỏ? Nhiệm vụ
đất nước được thể hiện như thế nào? Cảm xúc nhà thơ ra sao?
+ Từ mùa xuân thiên nhiên, tác giả mở rộng ra mùa xuân của đất nước, con
người Việt Nam. Hình ảnh trong bài thơ, gợi lại cho chúng ta hiểu rõ hai nhiệm vụ
của đất nước (sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất xây dựng) , gợi nhớ
đến khơng khí khẩn trương, hào hùng của đất nước, của nhân dân Việt Nam.
Cách dùng điệp từ “lộc” ( chồi non, cây non, cành non xanh mướt, mềm mại)
không mới khi tả mùa xuân nhưng ở đây, hình ảnh lộc non lại gắn liền với người cầm
súng (giắt đầy trên lưng làm ngụy trang chiến đấu hay luyện tập chiến đấu) , người ra
đồng (trải dài nương mạ). Mùa xuân đất trời đọng lại trong hình ảnh lộc non, theo
con người Việt Nam. Chính họ đã góp phần đem lại mùa xuân bình yên đến mọi nơi
trên đất nước.
+ Sức sống mùa xuân đất nước, mùa xuân lớn còn được cảm nhận bằng nhịp
điệu hối hả, khẩn trương, náo nức; trong những từ tả cảm xúc trực tiếp: “hối hả, xơn
xao”, trong so sánh đẹp kì vĩ: “Đất nước như vì sao”.
* Tâm niệm của tác giả:
HS đọc 8 câu thơ cuối, chú ý điệp từ “ta”
? Vì sao đang từ cách xưng hô “tôi”, tác giả chuyển sang xưng “ta”. Giữa hai
cách xưng hơ này có gì khác nhau?
HS suy nghĩ, trả lời: Cách xưng hô “tôi” và “ta” giống nhau ở chỗ đều là ngơi
thứ nhất chỉ mình, bản thân người viết, nhưng xưng “tôi” là nghiêng về cá nhân riêng
biệt cịn xưng “ta” thì có thể vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều, nghiêng về sự hài hoà
giữa riêng (cá nhân nhà thơ) với mọi người (chúng ta).

? Cách sử dụng điệp từ có tác dụng gì ?
Điệp từ “ta”, “ta làm” được đặt ở đầu ba câu thơ liên tiếp. Tác dụng tô đậm
tâm niệm tự nguyện dâng hiến của tác giả đối với đất nước, quê hương.
? Em hiểu như thế nào về những hình ảnh: con chim hót, bản hồ ca và một
nốt
trầm xao xuyến ?
- Tâm niệm tự nguyện dâng hiến tất cả tấm sức của mình cho nhân dân, cho
đất nước được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh giản dị và cảm động, rất khiêm
nhường. Đó là con chim hót cho rộn ràng mùa xuân, cành hoa nhỏ lặng lẽ toả hương
thơm làm mát mắt cho đời và đặc biệt là xin góp vào bản hồ ca, bản đồng ca của đất
nước đang hăng hái xây dựng và sẵn sàng chiến đấu một nốt trầm thôi. “Một nốt
trầm xao xuyến” là một sáng tạo thể hiện sự hoà nhập và lắng sâu dù rất khiêm tốn.
- GV nhấn mạnh: Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ- mùa xuân tài hoa và sáng tạo,
mùa xuân nghệ thuật thi ca… tất cả xin hồn tồn kính dâng cho cuộc đời, cho nhân
dân và đất nước trong suốt cả cuộc đời (Dù là tuổi hai mươi, dù là khi tóc bạc).
Thật cảm động, khi viết bài thơ này là lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh, đang
sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.
* Khổ thơ cuối:
16


? Bài thơ được kết thúc như thế nào? Cách gieo vần, phối âm trong 4 câu cuối
có gì đáng chú ý?
HS trả lời: Khổ thơ cuối có cách gieo vần phối âm khá độc đáo và có dụng ý:
câu đầu và câu kết thúc bằng hai thanh trắc: “ hát, Huế’’.
Ở giữa là ba câu với điệp từ “nước non” và kết thúc bằng vần bằng, liên tiếp:
“bình, minh, tình” như muốn thể hiện cái chất âm nhạc dân ca nhịp nhàng, buồn
thương, man mác, những câu nam ai, nam bình hồ với tiếng gõ phách bằng những
đồng tiền rộn ràng. Đó chính là cái hồn âm nhạc dân gian xứ Huế. Đó là âm thanh
mùa xuân đất nước mn đời vẫn trẻ trung, vấn vít, xao xuyến lịng người. Tác giả

sống mãi với cuộc đời, với Huế quê hương trong tiếng phách tiền xôn xao ấy.
* Tổng kết:
- Cho học sinh đọc lại bài thơ
? Hãy nêu cảm nhận của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ?
HS trả lời, GV chốt lại kiến thức cơ bản:
- Thể thơ 5 tiếng; hình ảnh vừa giản dị, vừa tả thực vừa nâng lên tầng biểu
tượng, khái quát. Mạch cảm xúc, mạch ý tạo thành tứ thơ tự nhiên mà chặt chẽ, lơ
gich. Giọng điệu có sự biến đổi phù hợp với mạch cảm xúc và sự vận động trong
thông nhất của tứ thơ: vui, say mê- trầm lắng, trang nghiêm, như lời tâm tình, tâm
sự- sơi nổi, tha thiết.
- Em hiểu làm mùa xuân nho nhỏ là làm gì? là sống đẹp, sống với tất cả sức
sống tươi trẻ và khiêm nhường như mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của
nhân dân và đất nước và thới đại. Đó khơng chỉ là nguyện ước cuối cùng mà là
nguyện ước suốt đời của Thanh Hải và cũng là của mỗi chúng ta.
- Giáo viên giới thiệu một số bài thơ của các nhà thơ khác và các nhận xét,
đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
Trên đây là những ý cơ bản nhất của bản thân tôi vận dụng khi dạy học 4 bài
thơ hiện đại Việt Nam ở 4 giai đoạn từ sau năm 1945.
Trong phân phối chương trình, sau khi học xong 11 bài thơ hiện đại có 1 tiết
ơn tập về thơ. Theo tôi, giáo viên cũng cần coi trọng tiết ôn tập này để nhằm củng cố
lại những kiến thức về lịch sử, hình ảnh con người Việt Nam với những phẩm chất
tốt đẹp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, từ đó giáo dục học sinh trách nhiệm phải tu dưỡng, rèn luyện, học tập
tốt để trở thành người công dân tốt trong tương lai.
c. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
- Từ khi tôi thực hiện đề tài dạy thơ hiện đại Việt Nam , do đổi mới phương
pháp dạy học, quan tâm đến các đối tượng học sinh nên các em học sinh đã có nhiều
cố gắng trong học tập; học bài và chuẩn bị bài đầy đủ; chịu khó đọc bài và soạn văn
đầy đủ, có chất lượng hơn trước. Trên lớp, các em chú ý nghe giảng, phát biểu ý kiến
xây dựng bài, tham gia các hoạt động do các thầy giáo, cô giáo tổ chức. Qua kiểm

tra, các em đều nắm được bài, thuộc các bài thơ, vận dụng được kỹ năng làm bài.
Các kỹ năng nghe - đọc - nói- viết đã có nhiều cố gắng. Văn viết trôi chảy và gọn, rõ
ý, Kết quả bộ môn Ngữ văn đã được nâng lên

17


- Trong quá trình giảng dạy, được sự quan tâm chỉ đạo củaPhịng GD&ĐT
Krơng Ana, sự tham gia nhiệt tình của các thành viên trong tổ Xã hội, sự cố gắng của
các em học sinh; hơn nữa do bản thân và các đồng nghiệp luôn đổi mới phương pháp
giảng dạy mơn Ngữ văn nói chung và giảng dạy Thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 nói
riêng nên kết quả dạy học Văn đã được nâng lên. Hơn nữa, hàng năm Phịng giáo dục
tổ chức các cuộc thi văn hóa trong đó có mơn Ngữ văn được chú trọng… cũng góp
phần giáo dục ý thức học tập bộ mơn Ngữ văn cho các em học sinh. Kết quả đạt
được qua các năm học của tôi như sau:
- Năm học: 2013-2014: Giỏi : 3 em cấp trường; 1 em được công nhận giỏi cấp
huyện.
- Năm học: 2014-2015: Giỏi : 4 em cấp trường; 1 em được công nhận giỏi cấp
huyện.
Trên đây là những ý kiến, những biện pháp mang tính cá nhân, bày tỏ một góc
nhìn về “Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ văn 9”,
chắc chắn khơng tránh khỏi chủ quan và có phần phiến diện. Rất mong được sự lắng
nghe và góp ý từ các giáo viên chủ nhiệm khác để có cái nhìn tồn diện và sâu sắc
hơn về dạy thơ hiện đại Việt Nam .
Sau một thời gian dài nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm nói trong dạy học
thơ hiện đại, dù chưa thật đồng đều ở các lớp, các đối tượng học sinh song chúng tôi
cũng đã bước đầu thu được những kết quả đáng ghi nhận cụ thể như:
* Về kiến thức:
- Học sinh nắm được mục đích, nội dung bài học tốt hơn và có hứng thú nhiều
hơn.

- Giúp học sinh khắc sâu kiến thức tốt hơn.
* Về kĩ năng:
Các em có kỹ năng tốt trong việc tiếp thu, cảm thụ văn hơn.
* Về thái độ:
- Giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước, trân trọng biết ơn các thế hệ cha
anh đi trước.
- Tình yêu Văn- thơ.
- Tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của bản thân theo chuẩn mực xã hội,
- Học sinh đã mặn mà hơn với mơn học, khơng cịn cảm giác học đối phó, học
lấy lệ.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
* Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn 9 trong đó có phần Thơ hiện đại Việt
Nam (từ sau năm 1945) dạy và học môn Ngữ văn THCS, tôi rút ra những bài học
kinh nghiệm sau đây:
18


- Để dạy học mơn Ngữ văn có kết quả cao, trước hết giáo viên phải có tinh
thần trách nhiệm cao, nhiệt tình trong cơng tác giáo dục và giảng dạy; hiểu sâu sắc
và thực hiện tốt nhiệm vụ của người giáo viên. Thực hiện nghiêm túc Quy chế
chuyên môn, thực hiện tốt các cuộc vận động và phong trào thi đua do ngành giáo
dục và các ngành, các cấp phát động.
- Giáo viên phải tâm huyết, luôn trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin thường
xuyên để đưa vào bài giảng một cách phù hợp. Nắm chắc về tác giả, hoàn cảnh sáng
tác, giá trị nội dung, nghệ thuật của các bài thơ. Tìm đọc các tài liệu tham khảo về
tác giả, chân dung tác giả, nhận định, đánh giá, tranh ảnh minh hoạ…
- Luôn đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn THCS nói chung và lớp 9 nói
riêng, nhất là dạy học các bài thơ hiện đại Việt Nam
- Khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ như tham gia

các lớp tập huấn, dự các chuyên đề.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng, khai thác có hiệu quả các
nguồn thơng tin phù hợp để phục vụ dạy và học.
2. Kiến nghị:
a. Đối với phịng giáo dục:
Đề nghị Phịng GD&ĐT Krơng Ana tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn về
phương pháp dạy mơn Ngữ văn trong đó có các chun đề về dạy học Thơ hiện đại
Việt Nam ở lớp 9.
- Tiếp tục tổ chức chuyên đề Ngữ văn ở cấp cụm trường và áp dụng các
chuyên đề vào dạy học Ngữ văn có hiệu quả cao.
- Đề nghị tổ nghiệp vụ bộ mơn Ngữ văn của huyện có nhiều hoạt động hơn
nữa để hỗ trợ giáo viên dạy Ngữ văn của các nhà trường về phương pháp dạy, cách
bồi dưỡng, phụ đạo học sinh có hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng môn
Ngữ văn THCS.
b, Đối với nhà trường:
* Thư viện nhà trường có thêm tài liệu phục vụ tốt cho q trình dạy. Có đủ
Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng, Sách tham khảo, nâng cao, thiết
bị dạy học môn Văn.
* Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia giảng dạy môn Văn từ lớp 6,7,8,9
để giáo viên nắm chắc nội dung chương trình Ngữ văn tồn cấp, từ đó có phương
pháp dạy và mở rộng kiến thức phù hợp với bài dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9.
c, Đối với giáo viên:
* Nhiệt tình, u nghề. Ln có ý thức đổi mới phương pháp dạy học; sử dụng
linh hoạt các phương pháp. Đầu tư thời gian thích đáng cho soạn giảng Ngữ văn.
Năng động, sáng tạo khi tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Sử dụng thiết bị
dạy học đầy đủ theo yêu cầu tiết dạy, sử dụng thiết bị dạy học hiện đại, ứng dụng
CNTT vào soạn giảng.
* Tham gia sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn đầy đủ, tổ chức chuyên đề hội thảo
về phương pháp dạy học thơ hiện đại, về môn Ngữ văn. Giáo dục học sinh ý thức
học bộ môn và làm cho các em thích học văn.

* Dự giờ thăm lớp thường xun, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ.

19


Như vậy qua nghiên cứu cho thấy, bộ môn Ngữ văn có vị trí rất quan trọng trong
nhà trường. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tốt các
bộ mơn khác.
Trong q trình giảng dạy, tơi đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng môn
Ngữ văn 9 nhất là dạy Thơ hiện đại Việt Nam đạt kết quả cao. Đảm bảo kiến thức cơ
bản, khoa học, có hệ thống; quan tâm đến việc rèn các kỹ năng cho học sinh; giáo
dục các em ý thức tốt khi học bộ mơn, góp phần vào nâng cao chất lượng dạy và học
trong nhà trường.
Bản thân tôi sẽ tiếp tục học tập, nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm dạy Thơ hiện
đại Việt Nam ở lớp 9 và phổ biến, trao đổi để giáo viên trong trường áp dụng vào
việc dạy học đạt kết quả cao hơn nữa, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất
lượng toàn diện trong nhà trường !
Dur Kmăn, tháng 01/2018
Người thực hiện sáng kiến:

Lưu Hồng Phong
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP TRƯỜNG

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT Tên tài liệu
1
Chương trình bộ mơn
Ngữ văn
2
Sách giáo khoa Ngữ
văn 9( tập 1, tập 2)
3
4

5

6

7

Tác giả
Bộ GD-ĐT

Nhà xuất bản
Nhà xuất bản GD

Năm xuất bản
2002

Nguyễn Khắc Nhà xuất bản GD
Phi (Tổng chủ

biên)….
Sách giáo viên Ngữ văn Nguyễn Khắc Nhà xuất bản GD
9 (Tập một, Tập hai)
Phi (Tổng chủ
biên)….
Thiết kế bài giảng Ngữ Nguyễn Văn
Nhà xuất bản
văn 9 (Tập một, Tập
Đường
Hà Nội
hai)

2005

Một số vấn đề về đổi
mới phương pháp dạy
học ở trường THCS –
môn Ngữ văn
Tài liệu bồi dưỡng giáo
viên dạy SGK lớp 9,
môn Ngữ văn

Nhà xuất bản
Hà Nội

2004

Nhà xuất bản Hà
Nội


2005

Nhà xuất bản GD

2006

Vũ Nho
Nguyễn Thuý
Hồng
Bộ GD-ĐT

Sách nâng cao Ngữ văn Nguyễn Đăng
9
Điệp.
Đỗ Việt Hùng
Vũ Băng Tú

2005
2005

21


MỤC LỤC
PHẦN
I. PHẦN MỞ ĐẦU

II. PHẦN NỘI DUNG

III. PHẦN KẾT LUẬN,

KIẾN NGHỊ

NỘI DUNG
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Lí do chọn đề tài
2
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3
Đối tượng nghiên cứu
3
Giới hạn của đề tài
3
Phương pháp nghiên cứu
4
Cơ sở lí luận
5
Thực trạng
7
Thuận lợi, khó khăn
7
Thành cơng, hạn chế
8
Mặt mạnh, mặt yếu
8
Ngun nhân
8
Giải pháp, biện pháp
9

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
9
Nội dung và cách thức thực hiện của biện 10,11,1,1
pháp
3,14,15,1
6,17, 18
Điều kiện để thực hiện biện pháp, giải pháp 19
Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp
19
Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của 19
vấn đề nghiên cứu
Kết quả
20
Kết luận
20
Kiến nghị
Nhận xét của Hội đồng sáng kiến
Tài liệu tham khảo
Mục lục

20
22
23
24

22




×