Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.54 KB, 20 trang )

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Tôi rất tâm đắc câu nói của Vijaya Lankshmi Pandit: “ Mục tiêu của giáo dục
không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó
phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái “ Chân” và thực hành cái
“Thiện”. Đúng vậy! Môn Ngữ văn có sứ mệnh cao đẹp đó: hình thành những con
người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng
nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, lòng căn ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con
người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm
thụ giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật. Đó cũng là những con người biết ham
muốn để đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên thực tế, việc giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THCS rất phong phú về đề tài
và đa dạng về thể loại trong đó có thể loại nghị luận. Văn nghị luận chiếm vị trí quan
trọng trong nội dung chương trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7.8.9. Mặc dù việc dạy
văn nghị luận trong nhà trường đã được tiến hành từ lâu, song phương pháp, hiệu quả
giảng dạy còn nhiều điều trăn trở vì một số giáo viên chưa chú trọng nhiều đến việc rèn
các kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh. Bên cạnh đó, thực trạng học văn, viết văn
nghị luận ở trường mà tôi đang công tác còn nhiều hạn chế trong cách thức trình bày,
lập luận thiếu sự thuyết phục và có hạn chế trong việc viết văn nghị luận về nhân vật
trong tác phẩm truyện.…Vì vậy, tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên cần phải rèn cho học sinh
kĩ năng viết văn nghị luận. Trong đó, kĩ năng viết văn nghị luận phải xuất phát từ kĩ
năng viết đoạn văn nghị luận.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu
- Tìm ra được phương pháp rèn cho học sinh cách viết đoạn văn nghị luận về
nhân vật trong tác phẩm truyện.
- Đổi mới cách làm, phương pháp giảng dạy nghị luận văn học nhất là nghị luận


về nhân vật trong tác phẩm truyện (tức là phân tích, cảm nhận…về nhân vật)
Nhiệm vụ
- Nghiên cứu thực trạng về dạy học ngữ văn nói chung và dạy văn nghị luận văn
học nói riêng tại trường THCS Lương Thế Vinh.
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể để giúp học sinh rèn kĩ năng viết đoạn
văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
3. Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp rèn kĩ năng viết văn nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện.
4. Giới hạn của đề tài
- Đề tài này được nghiên cứu và thử nghiệm tại trường THCS Lương Thế Vinh H.Krông Ana – T. Đăk Lăk
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

1


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

- Nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hay rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về
một nhân vật trong tác phẩm truyện.
Những vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu trước đây, nhưng qua quá
trình giảng dạy tôi đã đúc rút ra những kinh nghiệm của riêng mình. Có những nội
dung cũ, có nội dung mới, nhưng tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm của mình đã qua
thử nghiệm và có kết quả khả quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các nghiên cứu về dạy Ngữ văn,
đặc biệt là nghị luận văn học
- Phương pháp quan sát: Quan sát quá trình giảng dạy của giáo viên và quá
trình lĩnh hội của học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

+ Tham khảo những kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
- Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào quá trình giảng dạy
Ngữ văn ở lớp 9A1, 9A4 trường THCS Lương Thế Vinh.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Từ năm 1998, Bộ giáo dục đã triển khai dự án phát triển giáo dục THCS nhằm
đổi mới toàn diện bậc học này.Môn Ngữ văn là môn có vị trí vô cùng quan trọng trong
các môn học ở bậc học phổ thông và cũng là môn học có nhiều thay đổi nhất trong việc
đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học
tập. Nhiều vấn đề được đặt ra, trong đó đổi mới phương pháp dạy, nâng cao chất lượng
học được đặt lên hàng đầu.
Để dạy tốt môn Ngữ văn 9, nhất là văn nghị luận, đòi hỏi giáo viên phải kết hợp
nhiều phương pháp, tích hợp nhiều phân môn. Tùy vào từng chủ đề của bài học mà
giáo viên tích hợp cho thích hợp. Giáo dư Lê Trí Viễn đã từng nói: “Dạy văn lấy cảm
làm đâu”. Giáo viên dạy văn, nhất là văn nghị luận không thể nghèo nàn về cảm xúc.
Bởi hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận nhất là nghị luận về nhân vật phải có cảm
xúc chân thật. Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn ngoài vốn kiến thức về chuyên môn
còn phải không ngừng trau dồi, học hỏi nâng cao trình độ, nâng cao kiến thức xã hội;
giáo viên còn có khả năng sử dụng và truyền đạt ngôn từ cho học sinh.
Môn Ngữ văn là một môn rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc hình thành, định
hướng, phát triển nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học phép ứng nhân
xử thể trong cuộc sống. Đây cũng là một môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng
bay bổng, sáng tạo của người học. Vì thế để dạy tốt môn Ngữ văn, người dạy phải không
ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn, kiến thức về cuộc sống, xã hội.

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

2



Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi rất mong muốn tìm
được những phương pháp dạy học tích cực mới để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tốt
hơn.
2. Thực trạng
a. Thuận lợi
-Về phía nhà trường: Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng, của
Ban Giám Hiệu nhà trường, được sự giúp đỡ của các đồng chí trong tổ chuyên môn.
- Về phía giáo viên: Giáo viên giảng dạy nhiệt tình, luôn tìm tòi học hỏi để trau
dồi kiến thức đồng thời tìm ra được những phương pháp học tập tích cực. Giáo viên đã
được trực tiếp giảng dạy nhiều năm, đặc biệt là dạy học sinh lớp 9; giáo viên đã nhiều
năm ôn thi tuyển sinh cho học sinh cuối cấp và ôn thi học sinh giỏi các cấp. Tôi nhận
thấy rằng khối lớp này đề cập tới chủ yếu là kiểu văn nghị luận. Và tôi đã thấy được
những điểm yếu của học sinh, trong đó có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về nhân vật
trong tác phẩm truyện còn hạn chế nên trăn trở. Tôi đã rèn cho học sinh về vấn đề này
và đã thu được kết quả khả quan.
- Về phía học sinh: Ở những lớp dưới, các em đã có hiểu biết căn bản cách trình
bày đoạn văn như đoạn văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Ít nhất, học sinh có
thể hình dung thế nào là một đoạn văn. Tuy mỗi đoạn văn trên đều mang đặc trưng
riêng biệt của nó nhưng các em đã có thể biết tập hợp các câu văn phù hợp về vấn đề
để tạo thành một đoạn văn..
Học sinh đã được học văn nghị luận ở lớp 7 và 8, đặc biệt là học sinh lớp 8 đã
được học cách xây dựng đoạn văn và liên kết đoạn văn trong văn bản.
b. Khó khăn
* Những vấn đề còn tồn tại và hạn chế của chương trình SGK.
Mặc dù các em đã được học về văn nghị luận ở lớp 7 (tiết 79, 83, 84, 87, 88, 91,
92, 98, 99, 100, 103, 104, 112, 116 và học về cách xây dựng đoạn văn ở lớp 8 ( tiết 12,

17, 99,100 ) nhưng chương trình Ngữ văn lớp 9 không có tiết ôn tập văn nghị luận nên
học sinh có thể quên những lí thuyết cơ bản về văn nghị luận cũng như đoạn văn nghị
luận.
Riêng đối với nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, học sinh lớp 9 chỉ được học
trong 03 tiết cách thức làm một bài văn, trong khi đó khi thi học kì và thi tuyển sinh,
các em không làm thành bài mà viết đoạn văn độc lập với số câu qui định. Quan trọng
hơn là những năm gần đây, cấu trúc đề thi, kiểm tra thường xuyên, định kì, thi h ọc
sinh giỏi thường xuyên ra. Vì vậy, buộc giáo viên phải chú ý đặc biệt tới vấn đề này.
* Phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Một số giáo viên chưa quan tâm, chú ý rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
Việc chưa quan tâm này cũng do nhiều yếu tố. Phần nhiều bởi khung chương trình của
khối lớp, đặc biệt là lớp 8, giáo viên cố gắng dạy hết lượng kiến thức yêu cầu theo
Chuẩn kiến thức kĩ năng nên không còn thời gian để rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học
sinh. Nhưng lớp 9 văn nghị luận là trọng tâm mà viết đoạn văn là chủ yếu vì các em
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

3


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

phải vận dụng nó trong các bài kiểm tra định kì, các kì thi nên buộc giáo viên phải lồng
ghép, kết hợp để rèn cho học sinh, do đó gặp không ít khó khăn.
Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến những giải pháp khắc phục những hạn chế
của SGK về rèn kĩ năng viết đoạn trong các giờ trả bài, hướng dẫn tự học ở nhà, tăng
thêm đoạn văn mẫu, kiểm tra viết đoạn, tích hợp các văn bản. Hơn nữa, trong chương
trình không có tiết rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận. Do đó, giáo viên chưa dành
thời gian ra đề cho học sinh về nhà tự viết và kiểm tra, sửa bài.
*Kỹ năng viết đoạn văn của học sinh.

- Học sinh ít được thực hành viết đoạn văn nghị luận. Lớp 7, 8 tổng số tiết là 05
tiết. Lớp 9 tổng số tiết là 03 tiết.
- Học sinh có những hiểu biết còn hạn chế về đoạn văn nói chung và đoạn văn
nghị luận nói riêng và đặc biệt là đoạn văn nghị luận văn học mà trong đó có đoạn văn
về nhân vật trong tác phẩm truyện.
Ví dụ: Trong phiếu thăm dò đầu năm vừa qua, tôi ra câu hỏi cho học sinh hai lớp
mà tôi đang giảng dạy là lớp 9a1 (lớp mũi nhọn) và lớp 9a4 (đại trà) với đề bài:
Đề 1: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau: “ Vũ
Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là một người con dâu hiếu thảo, nghĩa
tình”.
Đề 2: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau: “ Vũ
Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương là một người phụ nữ hết lòng vì gia
đình”.
Qua phần chấm bài, lớp đại trà (9a4), tổng số 28 hs mà có tới 15 học sinh viết câu này
thành bài văn hoặc có nhiều em viết thành 3-4 đoạn văn. Lớp 9a1 vẫn còn một học sinh
viết gạch đầu dòng và thành 04 đoạn văn. Điều đó có chứng tỏ rằng các em chưa hiểu
một đoạn văn là gì?
- Học sinh thiếu kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về nhân vật.
Một số học sinh chưa viết đúng hình thức của một đoạn văn: Viết thành bài văn,
viết nhiều đoạn, liệt kê các ý gạch đầu dòng. Học sinh không tìm được luận điểm
chính, không biết triển khai luận điểm, chưa biết sử dụng lí lẽ và dẫn chứng để triển
khai luận điểm.
Ví dụ 1: Đề 2: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm
sau: “ Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương là một người phụ nữ hết
lòng vì gia đình”. Có học sinh đã viết như sau:
- Vũ Nương là người con gái thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Vũ Nương được
gả vào gia đình Trương Sinh luôn giữ gìn khuôn phép-> người con gái hoàn hảo, đẹp
người, đẹp nết.
- Vũ Nương chưa từng làm cho cha mẹ phải thất hòa.
- Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy để chào tạm biệt. nói

những lời yêu thương và mong muốn sớm được đoàn tụ.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

4


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

- Những dẫn chứng trên cho thấy Vũ Nương rất tốt.
Đề bài yêu cầu là viết “một đoạn văn” thì các em lại viết thành “nhiều đoạn
văn”. Các em chưa xác định được câu trên đề bài là luận điểm của đoạn văn mà cũng
là câu chủ đề nên khi xây dựng thành đoạn văn, các em không biết đặt nó ở vị trí nào
trong đoạn. Có học sinh còn không sử dụng luận điểm trên trong bài viết. Ngoài những
lỗi trên, trong bài làm này của học sinh còn mắc nhiều khuyết điểm nữa như: Sai lỗi
viết chữ đầu câu, đầu đoạn không viết hoa; diễn đạt lủng củng, lặp ý; chưa có dẫn
chứng cụ thể, sai kiến thức, dùng kí hiệu “ ->” trong bài làm…
- Một số học sinh chưa biết viết câu mở đoạn hoặc mở đoạn dài dòng.
Thống kê bài thăm dò lớp 9a4 có 28 học sinh thì có tới 15 em không biết viết
câu mở đoạn. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy đa số học sinh nằm trong tình trạng
này.
Ví dụ: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau:
“Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một
người con dâu hiếu thảo, nghĩa tình”. Có học sinh đã viết: “Nhân vật Vũ Nương trong
truyện dù về nhà chồng xảy ra nhiều xích mích nhưng nàng luôn làm tốt trách nhiệm
của một người vợ tốt”. Nếu học sinh viết đoạn văn theo cách diễn dịch thì buộc câu mở
đoạn phải nêu luận điểm của cả đoạn. Nếu là đoạn văn quy nạp thì câu đầu đoạn văn
đó cũng phải giới thiệu được khái quát về nhân vật: nhật vật nào? Trong tác phẩm nào?
Của ai? Em có ấn tượng chung với nhân vật như thế nào?. Ví dụ như “Nhân vật Vũ
Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là nhân vật đã để lại

dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc”. Đề bài trên đã có luận điểm cho sẵn nhưng học
sinh không biết đưa luận điểm đó vào bài làm của mình mà còn khai thác nghiêng về
“người vợ tốt”, chưa rõ nhân vật này trong truyện gì? Của tác giả nào? Khiến cho câu
văn chưa rõ ý, khó hiểu. Nguyên nhân là các em chưa hiểu luận điểm là gì và cách viết
câu luận điểm.
- Một số học sinh chưa biết chọn lọc, khái quát các ý chính phần thân đoạn.
Trong văn nghị luận nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng, sau khi nêu ý
khái quát ( câu mở đoạn) thì người viết phải trình bày luận cứ để làm sáng tỏ ý khái
quát đó. Nhưng học sinh bị “vấp” nhiều nhất ở phần này. Đó là tình trạng học sinh đi
kể chuyện, chưa biết chọn lọc dẫn chứng, viết lan man, dài dòng nên dễ bị lạc hướng,
thiếu chính xác, trọng tâm. Kể cả giáo viên đôi lúc cũng cảm thấy lúng túng, vụng về
trong việc xác định nêu lí lẽ gì và viết dẫn chứng ra sao. Có khi còn không biết đưa dẫn
chứng vào bài làm.
Ví dụ: Đoạn văn cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” của
kim Lân.
Học sinh đã trình bày phần thân đoạn như sau: “Hôm ấy, giặc Pháp bắn súng vào
làng, gia đình ông Hai phải đi tản cư. Một hôm từ phòng thông tin về, ông đã nghe
được tin làng ông theo giặc từ hai người đàn bà tản cư. Ông về nhà, mặt buồn rười
rượi, cáu gắt vợ con. Sau đó ông trò chuyện với con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Khi
nghe được tin cải chính, ông mừng lắm”.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

5


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Bài làm trên cho thấy rõ là học sinh kể chuyện về ông Hai, cũng theo trình tự
nhưng chưa khái quát được luận điểm chính của văn bản là tình yêu làng, yêu nước

thiết tha, cháy bỏng của ông Hai. Học sinh không khái quát được những luận cứ để làm
sáng tỏ luận điểm trên là nỗi nhớ làng khi đi tản cư, nỗi đau khổ, tuyệt vọng, bế tắc khi
nghe tin làng theo giặc và niềm vui sướng, hả hê khi nghe tin cải chính. Em chỉ kể liệt
kê những điều mình nghĩ. Câu văn vừa lạc sang kể vừa thiếu tính liên kết, thiếu ý khái
quát, chọn lọc. Vì vậy, không thể coi đây là đoạn văn nghị luận.
- Học sinh chưa biết viết kết đoạn.
Kết đoạn cũng giống như kết bài. Nó mang tính chất tổng hợp những vấn đề đã
trình bày ở phần mở và thân đoạn. Đoạn văn yêu cầu cảm nhận về nhân vật trong tác
phẩm truyện nhưng các em đã tổng hợp luôn cả tác phẩm. Chưa biết viết câu mở đoạn
hoặc ôm đồm sang ý khác, lạc hướng:
Ví dụ 1: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau: “
Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là một người con dâu hiếu thảo,
nghĩa tình”. Học sinh đã có những cách viết phần kết đoạn như sau:
- Sao đó, Vũ Nương lo ma chay chu tất cho bà mẹ chồng giống như với cha mẹ
đẻ và chơ đợi chồng trở về cùng với con nhỏ.
- Vào một buổi tối trước ánh đèn con bảo cái bóng là cha lúc đó chàng mới biết
nghĩ sai cho vợ như đã quá muộn.
- Từ những việc làm trên ta thấy Vũ Nương người con hiếu thảo và luôn thủy
chung với chồng.
- Sau khi đi lính trở về nhìn thấy con của mình.
- Suy ra phẩm chất đạo đức, từ nét đẹp đến tính nết của người con gái thuần
khiết, đảm đang.
- Nàng không dám đi lấy chồng vì tấm lòng thủy chung dành cho Trương Sinh là
vô bờ.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Từ những thực trạng trên, tôi mong muốn có thể nâng cao được chất lượng học
tập ở môn Ngữ văn của học sinh. Đồng thời tôi cũng muốn đưa ra một vài kinh nghiệm
của mình để có thể giúp đồng nghiệp tìm ra giải pháp hướng dẫn học sinh cách viết
đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện, từ đó có phương pháp viết bài

văn nghị luận văn học.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Giải pháp 1: Cung cấp và ôn tập lại cho sinh những kiến thức cơ bản về văn
nghị luận, nghị luận về tác phẩm truyện và đoạn văn.
Về văn nghị luận, cần cho học sinh nắm được văn nghị luận là gì?Thế nào là
nghị luận về một tác phẩm truyện; khái niệm nhân vật văn học.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

6


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Về đoạn văn, cần ôn lại cho học sinh khái niệm, vai trò, hình thức trình bày, cấu
trúc của một đoạn văn và đặc biệt giúp học sinh hiểu được sự khác nhau giữa đoạn văn
trong văn bản và đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phâm truyện; cách trình bày
nội dung đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phâm truyện
*Khái quát về nghị luận và nghị luận về tác phẩm truyện.
- Khái niệm:
Văn nghị luận là loại văn viết ra để phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức, đánh
giá thái độ đối với cuộc sống bằng những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Nếu tác phẩm
văn học nghệ thuật phát biểu ý kiến, bày tỏ thái độ cuộc sống bằng những hình
tượng nghệ thuật gợi cảm thì văn nghị luận diễn đạt bằng mệnh đề, phán đoán logic
thuyết phục. Từ đó có thể nêu khái niệm chung về văn nghị luận như sau: Văn nghị
luận là loại văn trong đó người viết ( người nói) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về
một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận thuyết phục người nghe.
Nghị luận một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét,
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác phẩm cụ
thể.

Nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) là trình bày
những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật trong một tác phẩm cụ thể.
Ví dụ:
+ Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long.
+ Cảm nhận của em về số phận và vẻ đẹp của Vũ Nương trong “ Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
- Đặc trưng của văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện:
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể là con người có tên như ông Sáu, bé
Thu, Phương Định..có thể là người không có tên như viên quan, thằng bán tơ... Nhân
vật văn học được thể hiện bằng chất liệu ngôn từ. Vì vậy, người đọc phải tưởng
tượng, xây dựng lại trong các mối quan hệ của nó. Nhân vật văn học có chức năng
khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn
về cuộc đời. Xét từ góc độ kết cấu, nhận vật trong tác phẩm có hai loại: nhân vật
chính (nhân vật giữ vai trò thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, được nhắc đến
từ đầu đến cuối truyện..), và nhân vật phụ ( nhân vật nói ít đến hơn, giữ vị trí thứ yếu
so với nhân vật chính, phụ trợ cho nhân vật chính thực hiện hành đồng, bộc lộ tính
cách). Nhân vật được xây dựng trên các phương diện ngoại hình, tài năng, cử chỉ,
hành động để bộc lộ tính cách, phẩm chất, tâm hồn, tình cảm…. Do đó, những nhận
xét, đánh giá…về nhân vật trong tác phẩm truyện phải xuất phát từ tính cách, hành
động…và nghệ thuật trong tác phẩm.

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

7


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9


Yêu cầu về nội dung của đoạn văn nghị luận này là nhận xét đánh giá đúng
đắn, sinh động thông qua giải thích, chứng minh. Về hình thức đoạn văn có 3 phần:
mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn; luận điểm, luận cứ rõ ràng,lời văn chuẩn xác.
* Khái quát về đoạn văn.
- Đoạn văn là gì?
Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chữ cái viết hoa (lùi vào 1 đến
2 ô) và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối
hoàn chỉnh.
- Số lượng câu trong đoạn văn không qua trọng, có thể chiếm nhiều câu, có
thể gồm vài ba câu, có khi chỉ gồm một câu. (như trong văn tự sự và văn biểu cảm),
nhưng phải bảo đảm phát triển đầy đủ ý của chủ đề đoạn văn.
-Ý nghĩa, tác dụng của đoạn văn trong văn bản.
Văn bản là tập hợp một hoặc nhiều đoạn văn. Vì vậy, đoạn văn trong văn bản
có tác dụng tạo sự liên kết giữa các đoạn văn với đoạn văn trong một văn bản. Nó
góp phần làm cho văn bản có tính thống nhất về nội dung, mạch lạc, rõ ràng, khoa
học về hình thức.
- Cách trình bày nội dung đoạn văn thông thường.
Trong thực tế tạo lập văn bản, người ta thường sử dụng những cách sau để
trình bày nội dung đoạn văn:
+ Trình bày nội dung theo cách diễn dịch: Là trình bày nội dung đi từ khái
quát đến cụ thể. Câu chủ đề đứng ở đầu đoạn, các câu sau triển khai, làm rõ ý của
câu chủ đề.
+ Trình bày nội dung theo cách quy nạp: Là cách trình bày đi từ ý cụ thể đến ý
khái quát. Câu chủ đề đứng ở cuối đoạn. Trước câu chủ đề có thể dùng những từ
chuyển tiếp có ý nghĩa tổng kết, khái quát như: Tóm lại, có thể nói rằng…
+ Trình bày nội dung theo cách song hành: Là cách trình bày nội dung không
sử dụng câu chủ đề. Các câu trong đoạn bình đẳng với nhau về ý nghĩa, không câu
nào phụ thuộc hay bao hàm ý của câu nào.
- Trình bày đoạn văn theo cách Tổng – Phân – Hợp: là sự phối hợp diễn dịch với

quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái
quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu
khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận,
nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại,
khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Đó là những kiến thức cơ bản học sinh đã học từ lớp 8. Tôi đã củng cố ngay
cho học sinh sau khi vào đầu năm học lớp 9 qua các buổi học phụ đạo buổi
chiều.Ngoài ra, tôi cũng mở rộng hơn một số cách trình bày đoạn khác cho học sinh

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

8


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

khá giỏi qua các giờ bồi dưỡng học sinh giỏi như cách suy luận nhân quả, tương
đồng, tương phản, đòn bẩy...
- Sự khác nhau giữa đoạn văn trong văn bản và đoạn văn nghị luận về
nhân vật trong tác phẩm truyện.
Trong một văn bản, mỗi đoạn văn là một phần của văn bản, có nhiệm vụ triển
khai một vấn đề của văn bản, quan hệ mật thiết với các đoạn văn khác trong văn
bản. Đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện có nhiệm vụ “thu
nhỏ” tất cả những vấn đề của nhân vật trong một văn bản. Thực chất, nó là một văn
bản nhỏ đầy đủ ý nghĩa, nội dung của một văn bản hoàn chỉnh. Nó chỉ khác một văn
bản ở hình thức và độ dài.Vì vậy, không những luận điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn
chính xác, sinh động mà ngôn ngữ phải cô đọng, khái quát, có tính bao hàm cao.
Viết một đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện là viết đầy đủ nội
dung những trình bày ngắn gọn, hàm súc, có tính khái quát cao về một nhân vật

trong tác phẩm văn học.
- Cách trình bày nội dung đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác
phẩm truyện :
Phần 1: Mở đoạn. Giới thiệu nhân vật phải cảm nhận được nêu ở đề bài
Phần 2: Thân đoạn: Dùng luận cứ khái quát, chọn lọc để làm sáng tỏ câu mở
đoạn.
- Dùng lí lẽ và dẫn chứng ( luận cứ) để phân tích, làm rõ vấn đề đã nêu ở mở
đoạn.
Phần 3: Kết đoạn: Đánh giá về nhân vật… trong tác phẩm vừa nêu ở mở đoạn và
thân đoạn.
Giải pháp 2: Hướng dẫn cho học sinh biết nhận diện các dạng đề khác
nhau.
* Định hướng các dạng đề nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện
- Đề chỉ nêu chung chung, chưa có luận điểm, chỉ có nêu tên nhân vật.(Ví dụ:
Cảm nhận về nhân vật Xi-mông).
- Đề đã nêu luận điểm nhưng chưa nêu rõ mà phải khái quát thành câu luận điểm
( ví dụ như: Cảm nhận về số phận và vẻ đẹp của Vũ Nương). Đề có 2 luận điểm “ số
phận” và “ vẻ đẹp” mà chưa khái quát cụ thể số phận như thế nào hay vẻ đẹp gì. Buộc
giáo viên phải hướng dẫn học sinh hình thành hai luận điểm mấu chốt đó.
- Đề cho sẵn luận điểm rõ ràng ( ví dụ: Ông Sáu là một người cha thương con vô
bờ bến).
Nhìn chung đề ra rất phong phú, đa dạng nhưng có thể thu gọn về hai dạng đoạn
văn: Đoạn văn khái quát về nhân vật và đoạn văn triển khai cụ thể một đặc điểm nổi
bật về nhân vật.
* Hướng dẫn học sinh kĩ năng làm đoạn văn khái quát về nhân vật
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

9



Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Đoạn văn khái quát về nhân vật nghĩa là đề ra chỉ nêu chung chung, chưa có
luận điểm, chỉ nêu tên nhân vật.(Ví dụ: Cảm nhận về nhân vật Xi-mông). Yêu cầu đạt
được về nội dung của đonạ văn này là học sinh giới thiệu được nhân vật, khái quát
được những đặc điểm nổi bật về nhân vật và đánh giá chung về nhân vật cũng như các
vấn đề có liên quan.
- Mở đoạn: Giới thiệu nhân vật nêu ra ở đề bài (Câu 1 của đoạn văn):
Nói tới nhân vật là nói tới tác phẩm, tác giả. Qua thực tế cho thấy, học sinh
thường lúng túng trong việc viết câu mở đoạn bắt nguồn từ nguyên nhân các em không
đọc kĩ đề bài và không biết phân tích đề và không biết khái quát luận điểm. Muốn học
sinh làm được, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thao tác đầu tiên là đọc kĩ đề, sau
đó đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh: “Đề bài yêu cầu cảm nhận về nhận vật nào? Của
ai? Trong tác phẩm nào?Đề bài đã cho sẵn luận điểm về nhân vật chưa? Đó là luận
điểm gì? Nếu chưa thì em sẽ nêu ấn tượng chung về nhân vật như thế nào? Sau khi đặt
câu hỏi xong, giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp những câu hỏi trên sao cho thành
một câu hoàn chỉnh thì đó là câu mở đoạn .Với dạng đề này, mở đoạn chỉ cần giới thiệu
được nhận vật, tác giả, tác phẩm và ấn tượng ban đầu đối với nhân vật.
Ví dụ1: Nhân vật Phương Định trong “ Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê là một trong những nhân vật đã để lại bao tình cảm yêu quí trong lòng độc giả.
Ví dụ1: Nhân vật Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ là nhân vật để để lại những ám ảnh khó quên trong lòng người đọc.
-Thân đoạn: ( câu 2.3.4…8.9):
Phần thân đoạn, giáo viên cần tập trung hướng dẫn cho học sinh dựa vào tác
phẩm để khái quát những đặc điểm nổi bật về nhân vật qua các khía cạnh như số phận,
vẻ đẹp, tài năng, phẩm chất, tình cảm…của nhân vật. Thực trạng chung của học sinh
hiện nay là các em chưa biết khái quát. Mỗi đặc điểm nổi bật mà các em tìm được dưới
sự gợi mở của giáo viên đó là những luận điểm mà khi xây dựng thành bài văn thì ta sẽ
lấy đó là những câu chủ đề của các đoạn văn trong phần thân bài. Vì vậy, giáo viên cần

tỉ mỉ, chỉnh sửa, hướng dẫn các em đi tìm các đặc điểm nổi bật đó thật hiệu quả. Nếu
các em kể về nhân vật thì thầy cô sẽ nói với các em là “ Em nói như thế thì đi kể
chuyện rồi? Từ những sự việc em vừa kể em khái quát lên nhận xét đó là người như
thế nào?...”Tùy từng tác phẩm truyện mà thầy cô có cách đặt câu hỏi khác nhau. Nếu
các em bị lạc hướng hoặc nói không đúng với ý đồ của giáo viên thì thầy cô buộc phải
gợi mở, lái đúng vào “ quĩ đạo” của mình.
VD: Để nêu cảm nhận về nhân vật Vũ Nương, em sẽ phải đề cập đến khía cạnh
nào của nhân vật? ( số phận và vẻ đẹp), Em thấy Vũ nương có số phận như thế nào,
hãy viết thành một câu cho cô được không? (Như bao người phụ nữ trong xã hội lúc
bấy giờ, nàng có số phận thật đau khổ, bất hạnh, oan khuất, bi kịch). Vũ Nương có
những vẻ đẹp nào? Mỗi vẻ đẹp đó em tách thành một câu cho cô xem sao?( Vũ Nương
là người phụ nữ hết lòng với gia đình; Nàng là một người con dâu hiếu thảo, nghĩa
tình; Vũ Nương còn là một người mẹ chu đáo, tân tình và rất mực yêu thương con;
Nàng còn là một người vợ thủy chung với chồng; Không những thế, nàng còn rất bao
dung, vị tha, nặng lòng với gia đình).
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

10


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

- Kết đoạn: (câu cuối)
Phần kết đoạn, thầy cô hướng dẫn các em tổng kết lại vấn đề vừa nêu và nêu suy
nghĩ của mình bằng một đến hai câu ( thường là một câu). Có nhiều cách kế đoạn khác
nhau.
- Tổng kết và nêu cảm xúc của người viết. ( ví dụ: Tóm lại, số phận của nàng Vũ
Thị Thiết thật ngang trái nhưng sáng ngời lên những vẻ đẹp thật đáng quí, trân trọng
biết bao).

- Tổng kết và năng cao. (Vẻ đẹp của Vũ Nương là đẹp truyền thống của người
phụ nữ Việt Nam).
* Hướng dẫn học sinh kĩ năng làm đoạn có sẵn luận điểm
Thực tế có những dạng đề có luận điểm cho trước thì giáo viên cần giảng cho
học sinh rằng luận điểm trên đề bài đó chính là câu chủ đề của đoạn văn. Vì vậy, ta
phải sử dụng nó và đặt ở đầu hoặc cuối đoạn văn, tùy theo ý đồ của giáo viên hoặc học
sinh viết theo cách diễn dịch hay qui nạp hoặc do chính yêu cầu của đề bài. Bản thân
tôi khi dạy điều này cho học sinh, tôi rèn cho các em cả hai cách nhưng tôi vẫn hướng
nhiều đến diễn dịch vì học sinh dễ viết hơn. Với dạng đề này thì giáo viên cần rèn cho
học sinh xây dựng luận cứ. Đây là phần mà học sinh khúc mắc nhiều nhất bởi thay vì
tìm những lí lẽ và dẫn chứng trong tác phẩm thì các em thường đi kể chuyện nhiều, ít
sử dụng dẫn chứng và chưa biết chọn lựa dẫn chứng tiêu biểu cho lí lẽ mình đưa ra.
- Câu mở đoạn (Câu 1)
Giống như chức năng, vai trò của mở bài, mở đoạn, chúng ta cần giới thiệu được
nhân vật, tác giả, tác phẩm và luận điểm đã cho. Học sinh sắp xếp những ý trên thành
một câu hoàn chỉnh.
Ví dụ: Đề bài: Viết một đoạn văn( 8 – 10 câu) với luận điểm sau: Anh Sáu trong
“ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi sinh tình
cảm riêng tư để chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc.
Phần mở đoạn, ta viết như sau: Nhân vật Anh Sáu trong “ Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng tư để chiến đấu
và hi sinh cho Tổ quốc.
- Thân đoạn (Câu 2.3.4…)
Sau khi giới thiệu và nêu luận điểm ở mở đoạn, giáo viên hướng dẫn học sinh
xây dựng luận cứ theo nhiều hướng khác nhau: Có thể theo trình tự sự việc ( Ông Hai
khi đi tản cư, khi nghe tin dữ, khi nghi tin cải chính; Ông Sáu khi nghe tin được về
thăm nhà, trong ba ngày phép, phút chia tay, ở căn cứ), có thể dựa vào hoàn cảnh, suy
nghĩ, việc làm ( anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa”)….Giáo viên cần bám sát vào
luận điểm để đặt câu hỏi để học sinh tìm luận cứ như: luận điểm ở đề bài có mấy nội
dung? Là những nội dung nào? Em sẽ chọn dẫn chứng nào trong truyện để sáng tỏ

mỗi nội dung đó? Vì sao em chọn dẫn chứng ấy mà không phải là dẫn chứng khác?..
Trong quá trình xây dựng luận cứ, mỗi học sinh sẽ có nhiều ý kiến khác khau, giáo
viên ghi nhận hết các ý kiến đó của các em và ghi lên bảng. Sau đó cùng học sinh
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

11


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

thêm, bớt, lặp ghép thành từng ý, từng câu. Giáo viên chỉnh sửa câu chữ, cách diễn đạt
theo ý đồ của mình rồi đi đến kết luận cuối cùng.
Ví dụ: Đề bài: Viết một đoạn văn (8 – 10 câu) với luận điểm sau: Anh Sáu trong
“ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi sinh tình
cảm riêng tư để chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm luận cứ như sau:
- Biểu hiện chung của người lí yêu nước thiết tha là gì? (Tám năm trời ca cách
không được gặp con, đó là sự hi sinh thầm lặng…bao yêu thương, nhung nhớ đong đầy
nhưng anh vẫn chấp nhận để phục vụ cho Cách mạng, Tổ quốc).
- Theo em, sự hi sinh thầm lặng của anh Sáu được thể hiện cảm động nhất trong
ba ngày phép, đó là giây phút nào?Vì sao? (Yêu thương con đến trào nước mắt, bật
khóc vì tám năm trời anh Sáu mới được sống những giây phút cực kì ngắn ngủi của
tình phụ tử, thế mà anh vẫn dứt áo ra đi. Người lính phải chịu những mất mát hi sinh
thầm lặng về tinh thần và tình cảm.)
- Chi tiết nào trong truyện còn chứng tỏ lòng yêu nước của anh Sáu trong khi
làm nhiệm vụ? Chi tiết đó gợi cho có hình dung gì? (Chi tiết vết thẹo trên mặt anh Sau
còn cho thấy anh phải chịu đựng cuộc sống gian khổ, khốc liệt của chiến tranh như bao
người lính khác. Vết thẹo ấy là tội ác của chiến tranh ghi dấu trên gương mặt anh).
- Nếu để nói về sự hi sinh của người lính ấy, em sẽ phải nói tới chi tiết nào nữa

trong truyện? Em sẽ cảm nhận chi tiết đó như thế nào? (Anh Sáu đã hi sinh ở giữa
rừng chỉ có người bạn là anh Ba bên cạnh, toát lên vẻ đẹp dũng cảm, can trường, sẵn
sàng hi sinh thân mình cho Cách mạng, cho kháng chiến, cho Tổ quốc).
Khi giáo viên cho học sinh tìm luận cứ, có thể các em sẽ kể sự việc, Giáo viên
cần “ tỉnh” để chỉnh sửa dần cho học sinh bằng cách đặt câu hỏi gợi ý: Em nêu chi tiết
đó giống như đang kể chuyện quá. Em hãy diễn đạt lại chi tiết đó theo hướng đánh
giá, nêu suy nghĩ của em xem sao? Chi tiết của em diễn đạt hơi dài, em sắp xếp lại cho
ngắn gọn hơn đi?Cô thấy chi tiết này chưa chọn lọc, em tìm chi tiết nào tiêu biểu hơn,
giá trị hơn xem nào?...Giáo viên đặt câu hỏi và chỉnh sửa dần đến khi nào cảm thấy đặt
yêu cầu rồi thì ghi lần lượt trên bảng. Có thể các em sẽ nêu các ý lẫn lộn, hoặc các câu
rời rạc với nhau. Không sao, miễn là đúng, chúng ta cứ tiến hành hướng dẫn các em
giải quyết từng luận cứ một rồi sau đó yêu cầu các em sắp xếp theo trình tự và thêm từ
ngữ để tạo liên kết là được. Chẳng hạn như có thể thêm ở phía trước mỗi luận cứ, mỗi
câu các từ ngữ: bên cạnh đó, không những thế, hoặc câu ghép có cặp từ hô ứng “
không những…mà còn”… . Yêu cầu phải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu.
- Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề (câu cuối)
Giống như vai trò của phần kết bài của một văn bản, phần kết đoạn cũng làm
nhiệm vụ tổng kết lại vấn đề đã nêu hai ở phần trên. Nó được hình thành bằng một câu
trọn vẹn khái quát lại nội dung chính của đề tài nhưng nâng cao thành chủ đề. Trước
câu kết đoạn có thể dùng một số từ ngữ chuyển tiếp có ý nghĩa tổng kết như: vì vậy, có
thể nói rằng, tóm lại…Phần kết đoạn, người viết thường nêu ra cách đánh giá, suy nghĩ
của mình về vấn đề nghị luận. Một số hướng kết đoạn như sau:
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

12


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9


- Đánh giá về nhân vật. ( Nhân vật anh Sáu trong “ chiếc lược ngà” tiêu biểu cho
tầng lớp những người lính, người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ - những
con người nặng tình yêu thương nhưng vô cùng quả cảm, kiên cường.
- Đánh giá tác giả. ( Qua việc xây dựng thành công nhân vật, từ đó cho ta hiểu
thêm về hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ và vẻ đẹp của con người trong chiến
đấu, đã hi sinh cho đất nước, cho dân tộc để ta càng yêu quí hơn cuộc sống này.
- Đánh giá nâng cao. (Vẻ đẹp của anh Sáu trong truyện cũng là vẻ đẹp của dân
tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Giải pháp 3: Rèn các thao tác xây dựng một đoạn văn.
“Viết một đoạn văn…khoảng 10 câu…” là một dạng câu hỏi khá thử thách với
học sinh vì nó đòi hỏi nhiều kĩ năng: Viết câu ngắn gọn, diễn đạt lưu loát, nhưng lại
phải đầy đủ ý như một bài văn. Chính vì vậy, khi dạy học sinh, tôi vẫn thường nói hài
hước với các em rằng: “ Nếu như bài văn là một cái ti vi 43 Inch thì đoạn văn các em
phải làm là một cái ti vi 17 Inch”. Nói như vậy có nghĩa là đoạn văn nghị luận về nhân
vật trong truyện không khác gì một bài văn, chỉ thu ngắn lại mà thôi. Do đó, không
biết khái quát, diễn đạt thì đoạn văn sẽ không có hiệu quả cao. Tôi tiến hành rèn cho
các em sẽ lần lượt thực hiện các thao tác sau đây: (Bước 1.2.3 viết ra tờ giấy nháp).
Bước 1:
Đọc kĩ đề, gạch chân từ ngữ quan trọng và xác định vấn đề nghị luận ở đề bài để
chuẩn bị viết phần dàn ý chi tiết.
Bước 2:
Tìm ý và lập dàn ý chi tiết. Viết ra nháp lần lượt 3 phần: mở đoạn, thân đoạn, kết
đoạn theo trình tự bằng các gạch đầu dòng. Chú ý đánh dấu số câu theo thứ tự từ trên
xuống cho đến hết - đánh dấu bằng chữ số (1), (2)…tương ứng với mỗi gạch đầu dòng
đó.
Bước 3:
Đọc lại “bước 2” để kiểm tra sai sót trong diễn đạt, viết câu, và đặc biệt là đếm
số câu xem đã đúng với số câu qui định ở để bài. Nếu thiếu, em có thể tách một hay vài
câu nào đó trong phần thân đoạn thành những câu nhỏ hơn( tùy theo số câu thiếu để
tách nhiều hay ít câu). Nếu thừa, em có thể gộp những ý ở thân đoạn thành một câu và

dùng dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy (câu ghép nhiều vế). Đề cho phép học sinh viết
phải đủ số câu mà không được thiếu. Có thể sẽ thừa nhưng chỉ chấp nhận thừa một đến
hai câu. Nhưng tốt nhất “đủ mới là đúng”.
Bước 4:
Tiến hành viết đoạn văn vào bài thi (kiểm tra). Viết đúng theo yêu cầu của một
đoạn văn. Hình thức: Viết hoa chữ cái đầu, lùi vào 2 ô và kết thúc bằng dấu chấm
xuống dòng. Nội dung đoạn văn lấy từ phần đã làm và chỉnh sửa ở giấy nháp.
Ví dụ:
Phần 1: Mở đoạn.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

13


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

(1)
Phần 2: Thân đoạn:
(2) (3)
(4) …
Phần 3: Kết đoạn (n)
Sau khi làm được các bước trên, các em chỉ vần viết lại theo thứ tự từ (1) đến (n)
thành một đoạn và chú ý thêm một số từ ngữ ở đầu câu (nếu cần) để tạo sự liên kết
giữa các câu trong đoạn văn.
Giải pháp 4: Bổ sung một số đoạn văn mẫu cho học sinh .
Yêu cầu về các đoạn văn mẫu bổ sung: Đoạn văn phải chuẩn về nội dung và
hình thức, dễ hiểu, đề tài gẫn gũi, sát với chương trình, phù hợp với năng lực của học
sinh từng vùng miền…
Nguồn: Gv có thể chọn lựa ở các sách tham khảo, đoạn văn do giáo viên tự soạn

hoặc của ngay chính bài làm tốt của học sinh.
Phương pháp: Bổ sung đoạn văn mẫu cho học sinh trong giờ trả bài, giờ ôn tập,
giờ học phụ đạo…
*Một số đoạn văn mẫu tham khảo.
Bài 1:Vũ Nương là một người mẹ chu đáo, tận tình và yêu thương con rất
mực: (đoạn văn 5, 6 câu - dàn ý)
- Chồng đi xa, nàng sinh con trai đặt tên là “ Đản”- cái tên có ý nghĩa vui mừng,
tốt đẹp. Nàng coi đứa con là niềm vui, là nguồn hạnh phúc để nàng vượt qua khó khăn,
trụ vững trong những ngày đơn chiếc.
-Thương con, yêu con vô bờ, nàng không chỉ bươn chải để nuôi con lớn lên về
thể chất mà người mẹ ấy vẫn dành thời gian để vui đùa cùng con.
-Trò đùa về cái bóng hàng đêm mà Vũ Nương chỉ cái bóng của mình trên vách
bảo đó là “cha Đản”.
- Bằng cái bóng của mình, nàng muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng tình cảm
của người cha, tạo nên sợi dây gắn kết giữa đứa con và người cha chưa biết mặt nơi
chiến trận xa xôi.
- Tấm lòng của người mẹ thật sâu nặng biết nhường nào.
Giải pháp 6: Kết hợp rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về nhân vật văn
học trong các tiết kiểm tra định kì (theo tiết phân phối chương trình), các tiết trả
bài, tiết học phụ đạo…
- Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trong tiết kiểm tra định kì:
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

14


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Cấu trúc đề kiểm tra định kì, đề thi học kì, đặc biệt là các kì thi của lớp 9 hiện

nay chú trọng câu viết đoạn văn nghị luận. Đó cũng là cách để chúng ta rèn kĩ năng
viết đoạn văn nghị luận cho học sinh.
- Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trong giờ trả bài:
Sau khi đưa ra đáp án của đề kiểm tra, giáo viên phải nhận xét chi tiết, cụ thể
những ưu điểm và hạn chế trong bài làm của học sinh. Trong phần nhận xét đó, giáo
viên cần chỉ ra cụ thể những lỗi viết đoạn văn chưa đúng, chưa hay ở điểm nào bằng
nhiều cách.
Ví dụ: Giáo viên dùng bảng phụ (hoặc phiếu học tập, đèn chiếu) những bài làm
của học sinh : viết đoạn văn thành bài văn; đoạn văn dùng gạch đầu dòng; đoạn văn
không sử dụng câu mang luận điểm khái quát; liệt kê những lỗi chính tả; những câu
văn diễn đạt lủng củng, thiếu chính xác; câu văn dùng từ chưa hay, còn nôm na như
văn nói; đoạn văn khai thác luận cứ chưa tốt… Giáo viên cho học sinh phát hiện lỗi,
dạng lỗi và cùng học sinh lần lượt sửa lại tất cả các lỗi đó. Sau đó, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh viết từng phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn bằng cách liệt kê ý
hoặc gợi ý. Cuối cùng, giáo viên dặn dò học sinh về nhà viết lại đoạn văn và giờ tập
làm văn tiếp theo sẽ kiểm tra một số học sinh trong bước “ Kiểm tra bài cũ”. Nếu ở lớp
có một số học sinh viết đoạn văn tốt, giáo viên có thể đọc đoạn văn mẫu cho học sinh
hoặc giáo viên tự viết sẵn đoạn văn ở nhà để đọc cho học sinh nghe.
- Rèn kĩ năng viết đoạn văn trong tiết học phụ đạo.
Đối với một số trường, ngoài giờ học chính khóa, nhà trường thường tổ chức học
tăng tiết, học phụ đạo để giúp học sinh lớp 9 ôn thi. Vì thời gian học khá nhiều nên
ngay từ đầu, trong nội dung ôn tập, giáo viên cần rèn nhiều cho học sinh kĩ năng viết
đoạn văn nghị luận bằng các dạng bài tập từ dễ đến khó bằng cách đưa ra một số dàn ý
của đoạn văn về tư tưởng, đạo lí.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. Giáo viên muốn giảng
dạy một tiết dạy nghị luận văn học thành công thì phải soạn bài chu đáo, đầy đủ, chuẩn
xác nội dung kiến thức; học sinh phải chuẩn bị bài chu đáo. Sau đó giáo viên vận dụng
các phương pháp dạy học linh hoạt, tạo không khí học tập cho học sinh. Muốn viết
được một bài văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện, học sinh phải biết

viết đoạn văn nghị luận. Muốn viết được một đoạn văn nghị luận phân tích nhân vật
phải hiểu đề, xác định yêu cầu của đề, sau đó tìm ý, xác định luận điểm, tìm luận cứ và
nắm được cách viết đoạn văn theo diễn dịch, quy nạp hay tổng phân hợp. Sau khi làm
được các bước trên, học sinh sẽ làm dàn ý chi tiết và tiến hành viết bài. Để học sinh
hiểu được các bước làm bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thật kĩ qua tiết dạy
chính khóa hay phụ đạo. Viết được đoạn văn đúng hay mới viết được bài văn đúng và
hay.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng, (cần xác định rõ thước đo hiệu quả của ứng dụng, có số
liệu định tính, định lượng minh họa).
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

15


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

Qua quá trình tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm đề tài với 2 lớp 9A1 và 9A4,
tôi nhận thấy được sự tiến bộ rõ rệt về kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật
trong tác phẩm truyện cũng như kĩ năng viết văn nghị luận văn học của các em học
sinh.
* Tôi đã khảo sát trên cả hai lớp 9A1 và 9A4. Cho cùng một đề bài: Hãy viết
một đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về nhân vật Vũ Nương trong văn bản
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
Trước khi tiến hành nghiên cứu, đa số các em viết chưa đúng yêu cầu, chưa biết cách
hình thành luận điểm, nhất là lớp 9A4. Kết quả cụ thể như sau:
LỚP

ĐIỂM


9A1

GIỎI

KHÁ

T.B

YẾU

(36)

5

11

19

1

9A4 (28)

0

2

16

10


* Sau khi tiến hành khảo sát, nghiên cứu, áp dụng các biện pháp trên để giảng
dạy thì đã thu được kết quả khả quan. Cụ thể:
LỚP

ĐIỂM

9A1

GIỎI

KHÁ

T.B

YẾU

(36)

12

16

8

0

9A4 (28)

3


8

14

3

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Nhiệm vụ của mỗi giáo viên dạy môn Ngữ văn trong nhà trường là phải giúp học
sinh hiểu được cái hay, cái đẹp của văn học, kích thích hứng thú học tập học Văn, đồng
thời tạo ra những rung động thẩm mỹ, niềm say mê…Để làm được điều đó, theo tôi,
mỗi giáo viên đều phải có sự linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp giảng dạy. Sau khi
thực giảng, có gì khúc mắc nên có sự góp ý, bàn bạc, thống nhất từ Khối, Tổ để rút
kinh nghiệm và làm cho bài giảng có hiệu quả cao nhất như mong muốn. Qua nhiều
năm giảng dạy, đặc biệt là kinh nghiệm dạy lớp 9 cuối cấp, bản thân đã nhận thấy việc
rèn cho học sinh kĩ năng viết văn nói chung và viết đoạn văn nghị luận về nhân vật
trong truyện nói riêng là một việc làm cần thiết, trọng tâm, thường xuyên và bền bỉ, dài
lâu đối với mỗi giáo viên, trong đó có giáo viên dạy khối 9.
2. Kiến nghị
Sau khi nghiên cứu đề tài này, tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan, vì vậy tôi
rất mong muốn kinh nghiệm mà tôi đúc rút ra qua quá trình giảng dạy có thể giúp ích
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

16


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9


cho đồng nghiệp. Vì thế, tôi mong muôn không chỉ riêng môn Ngữ văn mà tất cả các
môn học khác đều áp dụng phương pháp dạy học tích hợp để giúp học sinh tăng khả
năng tư duy sáng tạo, được thực hành nhiều hơn, làm việc nhiều hơn.
Trên đây là một vài giải pháp của riêng tôi đã đúc rút ra được sau những năm
tháng trực tiếp giảng dạy. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của quý lãnh đạo
cùng các đồng nghiệp để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Buôn Trấp, ngày 05 tháng 03 năm 2018
Người viết

Trần Thị Lệ

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

17


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
......
Chủ tịch Hội đồng sáng kiến


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các công văn, hướng dẫn của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và Phòng giáo dục đổi
mới phương pháp dạy học
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

18


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

2. Phương pháp dạy học tích cực (Mạng Internet)

MỤC LỤC
PHẦN

NỘI DUNG
1. Lí do chọn đề tài

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

TRANG
1
19


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện
dành cho học sinh lớp 9

I

MỞ ĐẦU

II
NỘI DUNG

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

2

5. Phương pháp nghiên cứu

2

1. Cơ sở lí luận

2

2. Thực trạng

3-6

3. Giải pháp, biện pháp


6-15

III

1. Kết luận

16

KẾT LUẬN,
KIẾN NGHỊ

2. Kiến nghị

17

3. Tài liệu tham khảo

19

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

20



×