Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

SKKN: Rèn kỹ năng dựng đoạn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.93 KB, 4 trang )

Chuyên đề :
Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn
Nh chúng ta đã biết,đích cuối cùng của môn văn học là học sinh tạo đợc một văn
bản.Theo định nghĩa của ngữ pháp (SGK lớp 9) thì: Văn bản là một sản phẩm hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ có tính trọn vẹn về nội dung,hoàn chỉnh về hình
thức. Muốn cho học sinh viết đựơc những đặc điểm trên phải rèn cho các em kĩ
năng về viết từng đoạn của văn bản.
Có nhiều học sinh đã học đến lớp 9 nhng cũng còn rất bỡ ngỡ khi học đoạn văn.
Các em còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm đoạn văn. đoạn văn
đợc các em hiểu và dùng với ý nghĩa chỉ sự phân đoạn nội dung. Điều đó các em cứ
tởng chỉ có trong giờ văn học. Ví dụ bài này chia làm mấy đoạn?. Nội dung đoạn
đó tác giả nêu vấn đề gì?. Khi hỏi một số em: Khi làm bài tập làm văn, bài làm của
em có bao nhiêu đoạn? Em thử đếm một bài bất kì và trả lời có mấy đoan văn?
Thế nào các em cũng trả lời có 3 đoạn: mở bài,thân bài, kết luận.Nh vậy các em đã
nhầm lẫn đoạn văn với bố cục của bài văn.
Khi đợc học lý thuyết về đoạn văn và qua bài tập ứng dụng, các em đều hiểu đoạn
văn theo đúng kiểu hình thức, nghĩa là Muốn có đoạn văn chỉ cần chấmxuống
dòng, mỗi chỗ xuống dòng sẽ cho ta một đoạn văn. Nh vậy,các em hiểu biết về đoạn
văn còn quá mơ hồ.
Qua sự hiểu biết của các em, có thể nói rằng, các em ít đợc rèn về đoạn văn. Có
chăng chỉ đợc hỏi chia đoạn văn ở giờ văn học. Vì hiểu mơ hồ nh vậy, khi làm văn
cứ đợc mấy câu các em lại xuống dòng, bất chấp nội dung, nghĩa là rất tuỳ tiện khi
viết văn. Việc hiểu khái niệm đoạn văn nh trên rất khó xây dựng những đoạn văn
phong phú cho một văn bản.
Xuất phát từ thực trạng trên và tầm quan trọng của môn Tập làm văn, năm
học 2000 2001, nhómVăn- Tiếng Việt- Tổ khoa học xã hội của trờng đã họp bàn
thống nhất triển khai chuyên đề về phân mônTập làm văn vối nội dung Rèn kỹ
năng dựng đoạn văn cho học sinh
Trong các kỹ năng:Tìm hiểu đề, tìm ý chọn ý, lập dàn ý ; Dựng đoạn, liên kết
đoạnTập miệng ở phân mônTập làm văn thì tổ đã xác định kỹ năng dựng đoạn là
một trong những kỹ năng rất quan trọng. Bởi vì đây là một kỹ năng giúp học sinh


làm bài với một nội dung phomg phú và đúng hình thức.
Vậy rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn cho học sinh nh thế nào để đạt kết quả
cao ?
Muốn học sinh hiểu sâu sắc đoạn văn, giáo viên cần phải cho các em nắm chắc
lý thuyết. Không chỉ cung cấp cho các em lý thuyết về đoạn văn mà phải cung cấp
cả những lý thuyết về vấn đề liên quan trong đoạn văn, cụ thể Câu chốt, đề tài,các
kiểu liên kết, các cách trình bày nội dung trong đoạn văn Có nh thế thì các em mới
nắm chắc đợc đoạn văn và sử dụng nó khi viết văn bản.
1
Ví dụ :Khi dạy bài đoạn văn SGK lớp 9, giáo viên treo bảng phụ có ghi hai
đoạn văn trong bài học, sau đó cho các em quan sát. Hai phần trích trên nhìn về hình
thức chúng có dấu hiệu gì ? Số lợng câu ở mỗi phần trích có gì khác nhau không ?
Mỗi phần trích trên nói về vấn đề gì?
Với những câu hỏi nh trên, giáo viên rèn cho các em nhận biết về hình thức và
tìm hiểu nội dung của đoạn văn để rồi giúp các em hiểu định nghĩa:.Đoạn văn là
phần văn bản đợc quy ớc tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng.Đoạn văn nêu một
sự việc hoặc hai sự việc.Giáo viên giúp các em hiểu quan hệ giữa đoạn văn với đoạn
văn có hai quan hệ chính :Quan hệ phụ thuộc và quan hệ không phụ thuộc.
Muốn khắc sâu đoạn văn, giáo viên cho các em làm bài tập từ dễ đến khó.
Ví dụ :Bài tập luyện.
Trớc hết giáo viên rèn cho các em kỹ năng nhận biết đoạn văn
Giáo viên treo bảng phụ có ghi nhiều đoạn văn cụ thể bài tập 1SGK lớp 9để các
em quan sát và đánh số La Mã vào đầu mỗi đoạn văn.
Với bài tập này,các em làm rất nhanh, đánh số La Mã vào đúng đoạn đầu đoạn
văn.Cụ thể bài tập 1 SGK- lớp 9 để các em quan sát và đánh số La Mã vào đầu
mỗi đoạn văn.Với bài tập này, các em làm rất nhanh, đánh số La Mã đúng đầu đoạn
văn. Nh vậy dựa vào hình thức của đoạn các em nhận biết đợc ngay.Để khắc sâu
kiến thức,mối quan hệ giữa hình thức và nội dung,giáo viên tiếp tục đa ra một văn
bản mà học sinh đã phân đoạn rất tuỳ tiện bởi không chú ý tới nội dung.
Ví dụ, giáo viên đa ra bài tập sau:

Đó cũng là cái ngày một cuộc đổi thay lớn đã xảy ra trong cuộc đời tôi.Tôi đã trở
thành học sinh giỏi đợc dự thi cấp toàn quốc.
Và thế là
Cho đến giây phút này, tôi vẫn còn nhớ lúc đó tôi xúc động đến trào nớc mắt. Bất cứ
cuộc đời của con ngời nào cũng có những phút giây xúc động tự hào nh thế.
Giáo viên cho các em quan sát và nêu câu hỏi: Bạn học sinh cho rằng đoạn văn trên
chỉ có hai đoạn văn, ý kiến của em thế nào?
Để cho các em thảo luận các em trình bày ý kiến của mình.Thế là có hai ý kiến chia
cho các em thảo luận nhóm.
Nhóm 1 cho rằng: Phần trích trên chỉ có hai đoạn vănvì chẳng lẽ một cụm từ lại
đứng một đoạn văn là sai.
Nhóm hai cho rằng: Phần trích trên có ba đoạn, nhng các em không giải thích nổi tại
sao lại có ba đoạn.
Cuối cùng giáo viên chỉ rõ đúng sai của học sinh và đi đến kết luận: Phần trích dẫn
gồm có ba đoạn chứ không phải gồm có 2 đoạn, vì đoạn thứ hai mặc dù chỉ có một
cụm từ quan hệ nhng vẫn đủ t cách là một đoạn văn:Hoàn chỉnh về hình thức và
chứa đựng nội dung nhất định.
các em còn lúng túng bởi các em chỉ mới nhận biết cảm tính về hình thức mà cha
chú ý đến nội dung để các em nhận biết đúng vá trúng một đoạn văn đảm bảo cả nội
dung và hình thức, giáo viên tiếp tục rèn cho các em:
Giáo viên cho các em làm bài tập hai SGK lớp 9 trang 59: Tóm tắt nội dung chính
của mỗi đoạn bằng một câu.
Phần bài tập này các em làm hơi lâu bởi vì các em phải đọc và rút ra ý chính. Để cá
em tự đọc, giáo viên lu ý các em xem trong đoạn văn đó câu nào chứa ý chính của
2
đoạn văn. Nếu không có ý chính thì tóm tắt ý của từng đoạn bằng một câu, giáo viên
nhận xét cách làm của các em và đi đến kết luận từng đoạn.
Đoạn 1: Hoàn cảnh xảy ra sự việc Hôxê bị bắt và xử án.
Đoạn 2: Anh công nhân da đen bị bắt và bị kết án.
Đoạn 3: Công nhân biểu tình bản án đối với Hôxê.

Đoạn 4: Thắng lợi cuộc đấu tranh của công nhân.
Đoạn 5: Chỉ có tình hữu ái vô sản là có thật trên đời này.
Sau khi làm xong bài tập này giáo viên hé mở cho các em: Việc tìm ý chính trong
đoạn văn chính là cáh tìm đề tài trong đoạn văn đó. Nh vậy khi cung cấp kiến thức
về khái niệm đoạn văn giáo viên đã rèn cho các em nhận biết thành thạo về đoạn
văn và hớng cho các em kiến thức sắp tới để có mối quan hệ giữa kiến thức này và
kiến thức khác.
Ngoài các bài tập trong sách giáo khoa giáo viên cho học sinh bài tập về nhà để các
em thực hành ngay trong bài của mình.
Em hãy đếm trong đoạn văn của em có bao nhiêu đoạn. Em hãy viết một đoạn văn
bất kì và nêu ý chính của đoạn văn đó.
Giờ học tuần sau giáo viên kiểm tra bài tập đó của các em, đáng giá kết quả.
Muốn học sinh có kĩ năng trình bày nội dung trong một đoạn văn, cần cho các nắm
đợc phần lí thuyết về đề tài, về câu chốt và các cách trình bày, nội dung trong một
đoạn văn. Trình bày đoạn văn theo kiểu diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích.
Sau phần học lí thuyết trên giáo viên chú trọng về câu chốt và các cách trình bày nội
dung trong một đoạn văn.Khi trình bày bài tập về câu chốt, giáo viên nên chia làm
hai kiểu:
Kiểu 1: Luyện dựng đoạn văn trong một câu chốt: Thể hiện trong đoạn diễn
dịch,đoạn quy nạp hoặc có thể trong đoạn móc xích.
Kiểu 2: Luyện dựng đoạn văn không có câu chốt: Thể hiện trong đoạn văn
song hành hoặc có thể trong đoạn văn móc xích.
Đối với kiểu 1: Giáo viên chia bài tập trong SGK xếp vào loại bài tập này. Bài tập 1,
2, 3 của tiết 21.Bài tập 1, 2, 4 của tiết 20.
Khi luyện tập phần này giáo viên cho học sinh đọc kỹ từng đoạn văn, tìm ý
chính, ý chính đó nằm ở vị trí nào của đoạn văn. Đối chiếu với lý thuyết về cách
trình bày về nội dung của đoạn văn thì cứ ý cơ bản ý khái quát nằm ở câu số 1 của
đoạn văn, kết luận đoạn đó là đoạn diễn dịch.Ngợc lại, nếu ý cơ bản ý khái quát nằm
ở cuối đoạn văn thì kết luận đoạn văn đó là đoạn quy nạp.Qua những tiết đợc luyện
tập các em dần dần biết xác đinh đợc câu chốt, nêu đợc ý chính của đoạn, biết nhận

biết đoạn văn kiểu diễn dịch, kiêủ quy nạp.
Bài tập 4 của tiết 20 là loại bài tập củng cố về kiến thức câu chốt, về cách
trình bày nội dung trong một đoạn văn. Khi làm các bài tập này các em còn lúng
túng, cha biết triển khai thành đoạn. Giáo viên nên cho sẵn một vài câu chốt để các
em triển khai.
Ví dụ: Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy
Để các em triển khai đợc giáo viên hớng dẫn các em cách viết: Các em nên
coi đó là câu số 1.Các câu 2, 3, 4...bổ sung minh hoạ cho câu 1 Giáo viên cho các
3
em trình bày ra giấy nháp và gọi các em đọc phần bài làm của mình.Gọi em khác
nhận xét và cuối cùng là phần đáp án của giáo viên.
Ví dụ: Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy(1).Trong nhà tù Tởng Giới Thạch, mắc
dù bị giam cầm tù đày nhng Bác vần hớng lòng mình về ánh trăng (2).Trong cuộc
kháng chiến trờng kỳ gian khổ mặc dù bận rộn nhng Bác vẫn dành thời gian cho
trăng (3).
Không phải chỉ có một bài tập 4, giáo viên nên cho học sinh luyện tập cách
viết này nhiều lần.Có thể cho câu chốt sẵn có thể để tự các em xác định câu chốt,
xác định đề tài.
Kiểu bài tập 2: Cách làm của giáo viên cũng tơng tự, chú ý bài tập này không
có câu chốt,bởi ý khái quát không tập trung ở câu nào. Vì vậy yêu cầu các em phải
đọc kĩ để nắm ý cơ bản.
Nh vậy, muốn học sinh nắm chắc đợc đoạn văn giáo viên phải là ngời nắm
chắckiến thức. Đối với đoạn văn giáo viên không chỉ truyền thụ cho các em khái
niệm về đoạn mà còn truyền thụ cho các em về nội dung, cách trình bày nội dung.
Việc truyền thụ lý thuyết là căn bản, song quan trọng cơ bản là rèn kĩ năng
bài tập, phải đề ra nhiều dạng nhiều tình huống. Bài tập phải đi từ đơn giản đến phức
tạp.Đáng lu ý phải để các em tự làm, tự suy nghĩ phát huy t duy tích cực của các em.
Việc rèn luyện bài tập, việc học lý thuyết để cuối cùng đi tới một mục đích là:
Học sinh tái tạo đợc một văn bản. Trong các văn bản đó các em chỉ ra đợc nhiều
đoạn nhỏ, nêu đợc nội dung và cách trình bày nội dung trong một đoạn đó. Vì vậy

giáo viên phải thờng xuyên cho các em kiểm tra, giáo viên trực tiếp kiểm tra phần
làm của học sinh.
Muốn các em học tốt, giáo viên phải kiểm tra, kiên nhẫn uốn nắn những sai sót của
các em để các em học tập tốt hơn.
Trên đây là những định hớng trong việc rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn. Tổ
chuyên môn triển khai học tập tinh thần của chuyên đề sau đó dự giờ mẫu đồng chí
Ngọc rút kinh nghiệm
Tiếp theo các nhóm chuyên môn trao đổi bài dạy trong nhóm, áp dụng chuyên đề
trong bài dạy của nhóm. Tổ chuyên môn sẽ đánh giá việc áp dụng chuyên đề. Sau đó
rút kinh nghiệm, tiếp tục triển khai chuyên đề cho các thể loại còn lại trong chơng
trình Tập làm văn ở THCS.
Ngời viết
Đinh Thị Ngọc

4

×