Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Thuc trang xay dung Nông thôn mới tại huyen Thanh Chuong, tinh Nghe An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.5 KB, 59 trang )

Đề tài: Nghiên cứu thực trạng công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Diễn Thái,
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng và có giá trị nhất trong sản xuất nông
nghiệp. Trong lịch sử nông nghiệp, cải cách ruộng đất luôn là khâu bứt phá quyết định
mọi quan hệ sản xuất và ảnh hưởng rõ rệt đến phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Trong công cuộc cải cách kinh tế nông nghiệp nông thôn những năm trước đây, Đảng và
Nhà nước ta đã có hàng loạt những chính sách mới về đất đai nhằm thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp, giải quyết vấn đề lương thực của cả nước trong đó điển hình là Luật đất đai
1993. Theo đó ruộng đất được chia đến tận tay người nông dân. Có thể nói rằng với chính
sách mới về quyền sử dụng đất như vậy đã làm thay đổi hoàn toàn quan hệ sản xuất ở
nông thôn, người nông dân đã thực sự làm chủ mảnh đất của riêng mình, đó là động lực
cho sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp nước ta sau giải phóng miền Nam. Điều đó đã
đưa nước ta từ một nước hàng năm nhập khẩu một lượng lớn lương thực vươn lên thành
một nước xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan. Mặt khác còn có các loại nông sản
như: chè, cà phê, thủy sản…tham gia xuất khẩu ngày càng nhiều, làm cho thu nhập của
người nông dân ổn định và đời sống của họ không ngừng được cải thiện…
Vai trò to lớn của việc phân chia ruộng đất nông thôn như nói trên là không thể phủ
nhận. Song với bối cảnh hiện nay đất nước đang trên đà phát triển theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa, trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế nông nghiệp không
chỉ có nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn phải đảm bảo
tối đa nguyên liệu cho ngành công nghiệp, tăng khối lượng nông sản xuất khẩu. Nhưng
trên thực tế khi chia ruộng đất cho nông dân theo Nghị định 64/CP ngày 27 tháng 9 năm
1993 của Chính Phủ chúng ta đã thực hiện phương châm công bằng của xã hội ruộng tốt
cũng như ruộng xấu, ruộng xa cũng như ruộng gần được chia đều trên nhân khẩu cho từng
gia đình, dẫn đến ruộng đất bị phân tán manh mún không đáp ứng được nhu cầu của nền
nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới. Sự manh mún đã dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả
sản xuất thấp, hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra tình trạng manh mún ruộng đất còn gây khó khăn trong


quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất. Để khắc phục tình trạng manh mún ruộng
đất như nói trên thì việc dồn đổi ruộng đất từ nhiều thửa nhỏ thành ô thửa lớn, liền khu,
liền khoảnh là việc làm hết sức cần thiết, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới,
xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng
ruộng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, tạo điều kiện cho các hộ nông dân yên tâm sử


dụng và khai thác lâu dài và hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về đất đai. Nắm bắt được tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra chủ trương
“dồn đổi ruộng đất” để việc sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Trên thực tế một số tỉnh đã triển khai làm điểm, thậm chí có những nơi đã có
những chính sách riêng để triển khai dồn điền đổi thửa giữa các hộ xã viên. Việc dồn điền
đổi thửa cũng đã thành công ở nhiều nơi, nhiều chỗ nhưng một số địa phương vẫn chưa
thành công. Mặt khác mức độ thành công ở các địa phương là không giống nhau: ở một
số địa phương chỉ hoàn thành trong vòng vài tháng là xong nhưng có một số nơi kéo dài
hàng năm gây tốn kém sức người và tiền của…Vì vậy cần phải có những đánh giá và tổng
kết lại các kinh nghiệm, những vấn đề tồn tại của các địa phương đã thực hiện để đưa ra
các khuyến nghị hữu ích cho các địa phương khác thực hiện có hiệu quả hơn. Với lý do
trên tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu thực trạng công tác dồn điền đổi thửa
trên địa bàn xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Diễn Thái.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dồn điền đổi thửa để nâng cao
hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn xã nghiên cứu.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu phải đảm bảo chính
xác và hệ thống.
- Phản ánh đúng thực trạng dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Diễn Thái, huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An làm cơ sở cho việc đề xuất sử dụng đất trong những năm tiếp theo.
- Đề xuất được các giải pháp hợp lý, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả dồn

điền đổi thửa ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất của địa bàn nghiên cứu.


PHẦN 2. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1. Giai đoạn 1945 – 1981
Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam có
mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề về sử dụng đất. Những mâu thuẫn trong chính sách
đất đai (vấn đề tiếp cận đất đai, sở hữu và sử dụng đất) đã diễn ra trong suốt thời kỳ thuộc
địa của thực dân Pháp; trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ và các chính sách của Chính
phủ từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Trước năm 1945, đất nông nghiệp được phân chia thành 2 loại đất chính: đất sở
hữu cộng đồng và đất tư hữu. Khu vực nông thôn được phân chia làm 2 tầng lớp dựa trên
tính chất sở hữu của đất đai: địa chủ và tá điền. Tầng lớp địa chủ chiếm khoảng 2% tổng
dân số nhưng lại chiếm trên 50% tổng diện tích đất, trong khi đó 59% hộ dân là tá điền
không có đất đi làm thuê cho tầng lớp địa chủ.
Sau năm 1945, Chính phủ đã thực hiện phân chia lại ruộng đất và giảm bớt thuế
cho dân nghèo và tá điền. Sau khi kết thúc chiến tranh với thực dân Pháp (1954), miền
Bắc thực hiện cải cách ruộng đất cơ bản. Mục đích là để công hữu hóa ruộng đất của địa
chủ người Việt và người Pháp, tiến hành phân chia lại cho hộ nông dân ít đất hoặc không
có đất với khẩu hiệu ‘‘Người cày có ruộng”. Giai đoạn tiếp theo của chính sách cải cách
ruộng đất là miền Bắc bước sang giai đoạn sở hữu tập thể đất nông nghiệp dưới hình thức
hợp tác xã từng khâu (bậc thấp) và hợp tác xã toàn phần (bậc cao). Đến năm 1960, 86%
hộ nông dân và 68% diện tích đất nông nghiệp đã vào hợp tác xã bậc thấp. Trong hợp tác
xã này người nông dân vẫn sở hữu đất đai và tư liệu sản xuất. Ở hợp tác xã bậc cao, nông
dân góp chung đất đai và tư liệu sản xuất khác (trâu, bò, gia súc và các công cụ sản xuất
khác) vào hợp tác xã dưới sự quản lý chung.
Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng phải gánh

chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại và những hậu quả từ những chính sách
trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung và thời kỳ kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Trong
thời kỳ kinh tế tập thể trong nông nghiệp, sản xuất giảm do người nông dân thiếu động cơ
làm việc, sản lượng nông nghiệp hàng năm tăng ở mức thấp 2%. Cùng thời điểm này dân
số tăng rất nhanh (2,2 – 2,5%/năm) đã dẫn đến việc phải nhập khẩu bình quân hơn một
triệu tấn lương thực mỗi năm trong suốt thời kỳ sau chiến tranh. Điều đó đã dẫn đến một
bộ phận lớn dân số sống trong tình trạng nghèo và đói.


1.1.2. Giai đoạn 1981 - 1988
Sự thay đổi cơ chế quản lý và sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp bắt đầu bằng
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng hay còn gọi là Khoán 100. Dưới chính sách
Khoán 100, các HTX giao đất nông nghiệp đến nhóm và người lao động. Những người
này có trách nhiệm trong ba khâu của quá trình sản xuất. Sản xuất vẫn dưới sự quản lý
của HTX, cuối vụ hộ nông dân được trả thu nhập bằng thóc dựa trên sản lượng đóng sản
xuất ra và ngày công đóng góp trong ba khâu của quá trình sản xuất. Đất đai vẫn thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước và dưới sự quản lý của HTX. Mặc dù còn đơn giản nhưng
Khoán 100 đã trở thành bước đột phá trong quá trình hướng tới nền kinh tế thị trường. Sự
ra đời của Khoán 100 đã có ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với
sản xuất lúa gạo tăng 6,3%/năm trong suốt giai đoạn 1981-1985. Tuy nhiên, sau năm
1985, tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu giảm, cụ thể tốc độ tăng trưởng của
tổng sản lượng nông nghiệp trong giai đoạn 1986-1988 chỉ là 2,2%/năm. Đầu năm 1988,
sản xuất lương thực không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến thiếu ăn ở 21 tỉnh, thành trên
miền Bắc. Ở miền Nam, một loạt các mâu thuẫn cũng gia tăng ở khu vực nông thôn, đặc
biệt là mối quan hệ đất đai bởi sự ‘‘cào bằng” về phân chia và điều chỉnh đất đai. Điều
này hiển nhiên đặt ra yêu cầu một cuộc cải cách mới trong chính sách đất đai.
Để giải quyết các vấn đề trên, chính sách đổi mới trong nông nghiệp đã được thực
hiện theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào tháng 4 năm 1988. Với sự ra đời
của Nghị quyết 10 thường được biết đến với tên Khoán 10, người nông dân được giao đất
nông nghiệp sử dụng từ 10-15 năm và lần đầu tiên hộ nông dân được thừa nhận như một

đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Bắt đầu từ thời kỳ này, các tư liệu sản xuất (máy
móc, trâu, bò, gia súc và công cụ khác) được sở hữu dưới hình thức cá thể. Một khía cạnh
khác của chính sách này đó là người nông dân ở miền Nam được giao lại đất họ đã sở hữu
trước năm 1975.
Tuy nhiên, cùng với Khoán 10 chưa có luật tương ứng dẫn đến một số quyền sử
dụng đất như cho tặng hoặc thừa kế chưa được luật pháp hóa và thừa nhận. Một loạt các
vấn đề khác nảy sinh liên quan đến sản xuất chẳng hạn như trạm điện, hệ thống giao
thông nông thôn, thị trường… mà trước đây thuộc trách nhiệm quản lý của các HTX nông
nghiệp. Để giải quyết các vấn đề này Luật đất đai năm 1993 đã ra đời.
1.1.3. Sự phát triển của quản lý ruộng đất sau đổi mới
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách và văn bản luật trong lĩnh vực
nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt liên quan đến sử dụng đất đai đã ra đời. Những chính
sách quan trọng nhất đó là Luật đất đai năm 2003, sau đó là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung
năm 1998 và 2001; Luật đất đai mới năm 2003; Nghị định 64/CP năm 1993 và Nghị định
02/CP năm 1994 về quy định việc giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp. Bên cạnh đó


cũng có một loạt các chính sách liên quan tục tiếp hoặc liên quan gián tiếp đến vấn đề đất
đai.
Theo Luật đất đai 1993, hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài với
5 quyền: quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền cho thuê, quyền thừa kế và
quyền thế chấp. Người có nhu cầu sử dụng được giao đất trong thời hạn 20 năm đối với
cây hàng năm, 50 năm đối với cây lâu năm. Việc giao đất sẽ được tiến hành lại tại thời
điểm cuối chu kỳ giao đất nếu như người sử dụng đất vẫn có nhu cầu sử dụng. Luật Đất
đai cũng quy định mức hạn điền đối với hộ nông dân, cụ thể đối với cây trồng hàng năm
là 2 ha ở miền Bắc và các tỉnh miền Trung; 3ha đối với các tỉnh phía Nam; đối với cây lâu
năm quy định tối đa là 10ha đối với các xã vùng đồng bằng và 30ha đối với vùng trung du
và miền núi. Cùng với việc giao đất cho các hộ nông dân thì giấy chứng nhận sử dụng đất
cũng được các cơ quan chức năng xem xét và cấp cho các nông hộ. Đến năm 1998, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho 71% hộ nông dân, cuối năm 2000 con số

này là trên 90%. Đối với đất rừng ở khu vực trung du và miền núi nơi có rất nhiều phong
tục tập quán thì việc giao đất phức tạp hơn, quá trình cấp giấy chứng nhận diễn ra chậm
hơn và quá trình này vẫn đang được tiếp tục thực hiện. Vào năm 1998, người nông dân
được giao thêm 2 quyền sử dụng đất nữa đó là quyền cho thuê lại và quyền góp vốn đầu
tư kinh doanh bằng đất đai.
Những thay đổi trong chính sách đất đai của Việt Nam từ năm 1981 cho đến nay đã
góp phần đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và phát triển khu vực
nông thôn. Tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6,7%/năm trong suốt giai đoạn 1994-1999
và khoảng 4,6% trong giai đoạn 2000-2003. An toàn lương thực quốc gia không còn là
vấn đề nghiêm trọng nữa và nghèo đói đang từng bước được đẩy lùi.
1.2. Tổng quan về dồn điền đổi thửa
1.2.1. Cơ sở lý luận của công tác dồn điền đổi thửa
1.2.1.1 Các văn bản pháp lý đất đai và công tác dồn điền đổi thửa
Công tác dồn điền đổi thửa được đề cập đến trong các văn bản hướng dẫn sau:
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh tại công văn số 6008/UBND.ĐC ngày
15/9/2009 về việc giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ chuyển đổi ruộng
đất cho nông dân để UBND huyện Diễn Châu thực hiện.
- Căn cứ Luật đất đai 2003;
- Căn cứ các Nghị định của Chính phủ: Số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về
thi hành Luật đất đai, Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Thủ tướng Chính


phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất.
Căn cứ các thông tư số 08/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 về việc hướng dẫn
thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; số 09/2007/TTBTNMT ngày 02/8/2007 về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; Thông
tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định
về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất.

Căn cứ hướng dẫn số 525/ĐC ngày 5/6/2001 của sở địa chính Nghệ An về việc
hướng dẫn quy trình chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
Căn cứ Quyết định số 146/2007/QĐ-UB ngày 19/12/2009 của UBND tỉnh Nghệ
An quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất vườn, ao trong cùng thửa
đất với đất ở và Quyết định số 111/2008/QĐ-UBND ngày 26/12/2008 của UBND tỉnh
Nghệ An về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 146/2007/QĐ-UB ngày
19/12/2007 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành quy định về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ở, đất vườn, ao trong cùng thửa đất với đất ở;
Căn cứ quy trình số 420/TNMT-ĐKTK ngày 4/3/2008 của Sở Tài nguyên và Môi
trường về việc tổ chức kê khai đăng ký, lập hồ sơ đăng ký, lập hồ sơ địa chính, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sau chuyển đổi ruộng đất.
1.2.1.2. Thực tế manh mún ruộng đất và sự cần thiết phải dồn điền đổi thửa
Từ trước năm 1986 đứng trước tình hình đất nước khủng hoảng về kinh tế, sản
xuất nông nghiệp kém hiệu quả, lượng lương thực sản xuất ra không đủ để nuôi sống con
người và phục vụ cho công tác chăn nuôi, đứng trước tình hình đó tại Đại hội lần thứ VI
của Đảng xác định không có con đường nào khác là con đường phải đổi mới. Qua chỉ đạo
thực hiện các mô hình thực tế, rút kinh nghiệm tại nhiều địa phương, nhiều tỉnh khác nhau
cho thấy năng suất, sản lượng từ sản xuất nông nghiệp được tăng lên, ý thức của người
sản xuất được xác định rõ trách nhiệm của mình hơn. Từ đó Đảng ta ra chủ trương khoán
thẳng ruộng đất cho người nông dân (Khoán 10), trên cơ sở Nhà nước chỉ đạo, định
hướng cơ cấu các loại cây trồng, nhân dân trực tiếp thực hiện. Trong quá trình thực hiện
sản xuất nông nghiệp có chiều hướng phát triển, năng suất sản lượng từng bước được tăng
lên rõ rệt, người sản xuất phấn khởi và nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình đã
mạnh dạn đầu tư thâm canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đến năm 1991 có lương thực
xuất khẩu. Năm 1992 Đảng ta lại tiếp tục đánh giá những thắng lợi trong thực hiện Khoán
10 và đồng thời rút ra những nhược điểm tồn tại. Qua những tồn tại Đảng ta tiếp tục đưa
ra những thử nghiệm mô hình mới và đã thành công vượt bậc, cũng từ đây Chính phủ ra
Nghị định 64/CP về giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người sản xuất có thời hạn từ 20



năm trở lên. Trong quá trình thực hiện nghị định 64/CP đến nay qua đánh giá đúc rút kinh
nghiệm thực tế vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm như: ruộng đất chia cho người dân còn
nhỏ lẻ, manh mún, một số gia đình còn có trên hàng chục thửa ruộng, đất trên các xứ
đồng khác nhau, từ những nguyên nhân trên dẫn đến tâm lý người sản xuất không mạnh
dạn đầu tư thâm canh, không dám đưa vào cơ cấu các loại cây con có giá trị kinh tế cao,
mà chỉ sản xuất dàn trải trên cơ sở theo hướng tự cung tự cấp. Người sản xuất không tự
độc lập hoạch toán được hiệu quả và giá trị trên đơn vị diện tích đất ruộng do gia đình
mình quản lý, mà sản xuất trên cơ sở kế hoạch của xóm, nên đã ảnh hưởng rất lớn đến giá
trị thu nhập hiệu quả của người sản xuất. Từ tình hình thực trạng trên năm 2002 Tỉnh ủy
Nghệ An đã có Chỉ thị 02 CT/TU, Huyện ủy Diễn Châu có Chỉ thị số 05 CT/HU về chỉ
đạo chuyển đổi ruộng đất trên địa bàn toàn tỉnh nói chung, địa bàn toàn huyện nói riêng.
Qua kết quả chỉ đạo chuyển đổi ruộng đất năm 2003 trên địa bàn toàn huyện mà trực tiếp
là địa bàn xã tổng kết cho thấy chuyển đổi ruộng đất đem lại được một số kết quả nhưng
chưa đạt được mục tiêu đề ra mà mới chỉ giảm được một phần số thửa cho các hộ, trên
các xứ đồng.
* Thực trạng ruộng đất sau chuyển đổi ruộng đất lần I.
Thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TU ngày 05/4/2001 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ
An, Chỉ thị số 08/CT-HU ngày 27/7/2001 của Ban thường vụ Huyện uỷ Diễn Châu về
cuộc vận động nông dân chuyển đổi ruộng đất để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn. Từ năm 2001 đến năm 2003, tất cả các địa phương trên địa bàn
huyện đã hoàn thành cuộc vận động nông dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô
thửa lớn.
Trước chuyển đổi ruộng đất toàn huyện có 980.000 thửa đất, sau chuyển đổi ruộng
đất chỉ còn lại khoảng 495.000 thửa (giảm được 50 % số thửa).
Bình quân mỗi hộ trước chuyển đổi là 20 thửa, nay còn lại 9,5 thửa/ hộ, giảm 50%
số thửa/hộ; trước chuyển đổi mỗi hộ được giao đất từ 8 đến 10 xứ đồng, nay còn lại từ 5
đến 6 xứ đồng/hộ;
Sau khi hoàn thành chuyển đổi ruộng đất lần I, tình trạng ruộng đất phân tán, manh
mún cơ bản đã được giảm, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện cho việc đưa
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tiết kiệm được chi phí đầu tư, thuận tiện cho

việc chăm sóc cây trồng, phát hiện kịp thời việc phòng trừ dịch bệnh; đã xây dựng được
nhiều mô hình phát triển kinh tế góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trên địa bàn huyện. [14]
* Sự cần thiết phải tiếp tục chuyển đổi ruộng đất lần thứ II.


- Mặc dù đã có sự điều chỉnh về diện tích của từng thửa ruộng nhưng đến giữa năm
2010, phần lớn mỗi hộ còn sở hữu 9,5 thửa/5-6 xứ đồng. Chưa tập trung đất sản xuất
khiến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi, đầu tư thâm canh gặp rất nhiều
khó khăn; bài toán giảm chi phí sản xuất chưa thể thực hiện. Mặt khác, ruộng đất phân
tán, chia cắt khiến giao thông nội đồng chật hẹp, chưa thể đáp ứng được yêu cầu đưa cơ
giới hóa vào sản xuất. Vận động nông dân chuyển đổi, chuyển nhượng ruộng đất là một
yêu cầu cần thiết trong mục tiêu xây dựng nông thôn mới mà Đại hội Đảng bộ huyện
Diễn Châu lần thứ 29 (nhiệm kỳ 2010-2015) đã đề ra.
- Do xu thế phát triển, xu thế hội nhập của đất nước, cho nên đòi hỏi trong nông
nghiệp phải đi vào sản xuất chuyên canh, sản xuất hàng hoá đang là một vấn đề thách
thức đối với mỗi địa phương, đơn vị.
- Do sự phát triển của khoa học công nghệ cho nên đòi hỏi ruộng đất phải được
chuyển đổi thành vùng tập trung thì mới ứng dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất như: Đưa các loại máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp được thuận lợi hơn.
- Do mục tiêu, yêu cầu về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo tinh
thần Nghị quyết TW7 (khoá X) cho nên vấn đề tích tụ ruộng đất cần được quan tâm chỉ
đạo thực hiện để đạt được mục đích yêu cầu đề ra.
Từ các yêu cầu nói trên, bên cạnh đó công tác chuyển đổi ruộng đất giai đoạn I
được tiến hành chưa triệt để cho nên cần thiết phải được tiếp tục chuyển đổi ruộng đất lần
thứ II.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn của công tác dồn điền đổi thửa
1.2.2.1. Tình hình thực hiện dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
Thực hiện Luật đất đai 1993 và Nghị định 64/CP của Chính phủ về việc giao đất
ổn định lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân thì nhìn chung các tỉnh đều giữ nguyên hiện trạng

từ Khoán 10 chuyển sang, phần lớn không đo lại diện tích giao đất cho nông dân, quỹ đất
công ích chưa quy thành vùng tập trung mà còn nằm đan xen giữa quỹ đất giao cho hộ gia
đình, cá nhân, tình trạng ruộng đất bị phân tán hầu như phổ biến ở các tỉnh, thành trong cả
nước. Nhất là các tỉnh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, ruộng đất quá manh mún và phân tán,
có thửa chỉ vài chục mét vuông, bề ngang có thửa không tới một đường bừa. Tình trạng
đó đã gây trở ngại cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Khái niệm dồn điền đổi thửa, trên thực tế xuất hiện ngay từ khi thực hiện việc chia
ruộng đất cho nông dân theo tinh thần Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 27 tháng 9
năm 1993. Thực hiện chủ trương chuyển đổi ruộng đất của Đảng và Nhà nước ngay trong
những năm 1993 – 1994, các tỉnh phía Bắc đã thực hiện dồn điền đổi thửa và thu được
nhiều thành quả to lớn. Huyện Hải Hậu (Nam Định) là một trong những huyện ý thức


được những nhược điểm của sự manh mún về ô thửa nên đã thực hiện việc đánh giá ruộng
đất, quy gọn các vùng trước khi chia ruộng đất cho các nông hộ. Nên mỗi hộ trung bình
chỉ có 3 đến 5 mảnh. Một số nơi khác như Chương Mỹ (Hà Tây), Văn Giang (Hưng Yên),
từ những năm 1997 đến 1998 nông dân đã tự bàn bạc để quy vùng tự chuyển đổi ruộng
cho nhau nhằm tăng kích thước các ô thửa (trồng một số cây trồng hàng hóa như cây ăn
quả, rau...).
Ở một số địa phương để giải quyết trước mắt tình trạng manh mún về số thửa và
quy mô thửa ruộng, người ta đã tổ chức cho nông dân dồn đổi ruộng. Quá trình này được
tổ chức một cách dân chủ. Nông dân tự nguyện chuyển đổi ruộng cho nhau, họ sẽ bàn bạc
xây dựng để đi đến thống nhất phương án dồn đổi ruộng và quy hoạch thủy lợi nội đồng.
Chính quyền các cấp là người tổ chức và trọng tài cho quá trình này. Các tỉnh Hà Tây,
Thanh Hóa là các địa phương đi đầu trong quá trình này. Ví dụ thị xã Bỉm Sơn quyết định
chuyển đổi ruộng đất năm 1999. Khi chưa chuyển đổi bình quân một hộ ở đây có 8,5
mảnh, cao có thể đến 15 mảnh. Bình quân mỗi mảnh 310 m 2. Sau khi chuyển đổi, số thửa
trên toàn Thị xã giảm từ 26.492 thửa xuống còn 11.595 thửa, giảm 56%. Mỗi hộ nông dân
sau khi chuyển đổi chỉ còn 3,8 thửa; trong khi diện tích trung bình thửa đã đạt 748 m 2.
Từ năm 2000, phong trào dồn điền đổi thửa phát triển rộng rãi ở đồng bằng sông

Hồng. Một số tỉnh đã triển khai làm thử, thậm chí là ra nghị quyết và chính sách riêng (ví
dụ như tỉnh Hưng Yên, Thái Bình...) để triển khai việc dồn điền đổi thửa giữa các hộ nông
dân.
Đa số sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, số thửa của các tỉnh đã giảm xuống rõ
rệt. Đặc biệt ở Nam Định, cụ thể là huyện Hải Hậu trong đợt chuyển đổi ruộng đất lần II
chỉ sau gần 1 năm triển khai, đến ngày 31-12-2011, cả 35 xã, thị trấn với 531 xóm, đội
của huyện Hải Hậu đã hoàn thành nhiệm vụ DĐĐT và về đích trước 2 năm so với kế
hoạch của UBND tỉnh. Cụ thể kết quả đạt được như sau:
Sau khoảng 9 tháng, toàn bộ 35 xã, thị trấn của huyện đã hoàn thành việc DĐĐT,
giao đất ruộng ngoài thực địa cho từng hộ nông dân nhưng vẫn bảo đảm ổn định sản xuất.
Sau khi DĐĐT, diện tích đất canh tác của huyện là gần 11.730 ha được giữ nguyên nhưng
số thửa giảm từ 222.835 thửa xuống còn 150.936 thửa. Bình quân mỗi hộ sử dụng 1,9
thửa, giảm 0,9 thửa so với trước; hộ sử dụng nhiều nhất 3,5 ha, tăng 2,5 ha; hộ sử dụng
thửa lớn nhất là 1,38 ha, tăng 1,02 ha; số vùng đất công chỉ còn 351 vùng, giảm 185 vùng;
vùng đất công có diện tích lớn nhất là 25 ha, tăng 9,4 ha...Đây là một thắng lợi có ý nghĩa
quan trọng, là tiền đề khích lệ các địa phương khác triển khai thực hiện công tác dồn điền
đổi thửa.
1.2.2.2. Tình hình dồn điền đổi thửa ở tỉnh Nghệ An


Thực hiện Nghị định 64/CP của thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua các
cấp ủy Đảng, chính quyền trong toàn tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai. Đến nay toàn
tỉnh đã có 100% số hộ với 100% diện tích đất nông nghiệp đã được giao và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất nông nghiệp cơ bản đã được quản lý chặt chẽ, sử
dụng đúng mục đích, nông dân phấn khởi yên tâm sản xuất, tích cực đầu tư thâm canh, cải
tạo đồng ruộng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ vậy mà sản
lượng lương thực được tăng lên nhanh chóng, nông sản phẩm ngày càng đa dạng và
phong phú, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi
mới.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số trở ngại cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đó là: tình trạng manh mún, phân
tán ruộng đất, bình quân mỗi hộ có từ 10 đến 15 thửa có hộ trên 35 thửa, diện tích mỗi
thửa từ vài chục đến vài trăm mét vuông, đã gây khó khăn cho việc áp dụng cơ giới hóa
trong sản xuất nông nghiệp, cải tạo kiến thiết đồng ruộng, hình thành các vùng chuyên
canh tập trung. Bờ vùng, bờ thửa chiếm diện tích khá lớn làm lãng phí diện tích đất canh
tác, hạn chế việc kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, làm cho
tiềm năng đất đai và lao động chưa được khai thác triệt để, không phù hợp với yêu cầu
phát triển sản xuất theo hướng tập trung chuyên canh.
Để khắc phục tình trạng nói trên và thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ V
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 – 2010. Ban thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu
cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tốt chủ trương dồn
điền đổi thửa nhằm đảm bảo cho hộ gia đình cá nhân vùng ruộng tập trung, chuyên canh,
khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp, thuận lợi cho việc cơ giới hóa và cải tạo, kiến thiết đồng ruộng, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn.
Thực hiện Chỉ thị số 02 ngày 05/4/2001 của BTV Tỉnh ủy Nghệ An, công tác
chuyển đổi ruộng đất trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên,
vẫn còn không ít hạn chế ảnh hưởng đến việc xây dựng nông thôn mới. Trước thực tế này,
BTV Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 08 ngày 8/5/2012 về đẩy mạnh vận động nông dân “dồn điền,
đổi thửa” và khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất quy mô lớn trong nông
nghiệp.
Dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất không phải là một tiêu chí cụ thể trong xây dựng
nông thôn mới. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân thì


không thể không thực hiện dồn điền đổi thửa, tạo những vùng sản xuất quy mô lớn. Mặc
dù qua 10 năm thực hiện Chỉ thị 02 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công tác dồn điền đổi

thửa trên địa bàn tỉnh đã thu được nhiều kết quả. Tuy nhiên, việc chuyển đổi ruộng đất tại
nhiều địa phương thời gian qua còn chưa gắn với quy hoạch lại đồng ruộng và chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; quy mô diện tích của thửa đất sau chuyển đổi còn nhỏ;
bình quân số thửa/hộ còn cao, chưa liền vùng, liền thửa, chưa hình thành được vùng
chuyên canh lớn hiệu quả kinh tế cao. Việc chuyển đổi ruộng đất ở các vùng màu, vùng
bãi, vùng cây công nghiệp chưa được quan tâm, quy hoạch và quản lý quỹ đất công ích
còn bất cập. Những hạn chế này đã ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư thâm canh, và hiệu quả kinh tế trong sản xuất
nông nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới.
Chỉ thị số 08 ngày 08/5/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh vận động
nông dân “dồn điền, đổi thửa” và khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất
quy mô lớn trong nông nghiệp nhằm tập trung ruộng đất đến mức cao nhất để quy hoạch
vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh lớn. Từ
đó, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nông dân đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh, chuyển đổi
mùa vụ, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí sản xuất. Tạo điều kiện để quy hoạch lại
đồng ruộng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống giao thông - thủy lợi nội đồng; thúc đẩy quá
trình phân công lại lao động nông nghiệp trên cơ sở tăng năng suất và hiệu quả kinh tế
của cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu lao động sang công nghiệp và dịch vụ; củng
cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, tạo tiền đề để phát triển lực lượng sản xuất; tạo
điều kiện thuận lợi để công tác quản lý và theo dõi biến động đất đai đi vào nề nếp, chặt
chẽ nhưng thủ tục đơn giản hơn; công tác chỉ đạo sản xuất được thuận lợi; đẩy nhanh tiến
độ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Trong đó, năm
2012, các huyện thành lập hoặc kiện toàn Ban chỉ đạo, tổ chuyên môn giúp việc; chuẩn bị
các điều kiện cần thiết phục vụ cho công tác dồn điền, đổi thửa; chọn ít nhất 1 xã điểm chỉ
đạo để rút kinh nghiệm. Từ năm 2013 sẽ triển khai ra diện rộng, phấn đấu hết năm 2016
hoàn thành tất cả các xã còn lại của huyện. Trong đó mục tiêu được Ban chỉ đạo dồn điền
đổi thửa của tỉnh đặt ra là; năm 2013: hoàn thành dồn điền đổi thửa tại thực địa 100 xã; năm
2014: hoàn thành dồn điền đổi thửa tại thực địa 80 xã; năm 2015: hoàn thành dồn điền đổi
thửa tại thực địa 80 xã; năm 2016: các xã còn lại.

Đến nay, toàn tỉnh đã có 13 đơn vị cấp huyện đã triển khai thực hiện bao gồm: Anh
Sơn, Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Thị xã Cửa Lò,
Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hòa. Bảy đơn vị
chưa triển khai bao gồm: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Quế Phong, Quỳ Châu,
Quỳ Hợp và TP Vinh. Trong số các đơn vị trên có 04 huyện đã tổ chức thực hiện công tác


dồn điền, đổi thửa tại một số xã trước khi có Chỉ thị số 08-CT/TU trên cơ sở chủ động đánh
giá kết quả thực hiện Chỉ thị số 02-CT/TU như: Thanh Chương, Anh Sơn, Yên
Thành, Quỳnh Lưu. Chiến dịch ra quân làm thủy lợi năm nay cũng được nhiều địa phương
gắn với công tác dồn điền đổi thửa.
Vận động nông dân “dồn điền, đổi thửa” và khuyến khích tích tụ ruộng đất, Nghệ
An đang từng bước đẩy mạnh phát triển sản xuất quy mô lớn trong nông nghiệp; đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh tiến độ
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
1.2.2.3. Tình hình dồn điền đổi thửa ở huyện Diễn Châu
Thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp ổn định lâu
dài cho nông dân, huyện Diễn Châu đã thực hiện xong năm 2003.
Tổng số hộ đã được giao đất nông nghiệp là 52.596 hộ
Tổng số diện tích được giao: 131.985,8 ha
Tổng số hộ đã được cấp GCNQSDĐ là 5.182 hộ chiếm 98,52 %
Sau khi đã được giao đất ổn định và cấp GCNQSDĐ. Bước đầu các hộ nông dân
đã phấn khởi yên tâm sản xuất đầu tư thâm canh nên năng suất và sản lượng cây trồng
ngày càng tăng, kinh tế hộ gia đình từng bước được phát triển đời sống nhân dân ổn định,
bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn bộc lộ những mặt tồn tại là:
- Ruộng đất được giao cho từng hộ nông dân quá manh mún, bình quân mỗi hộ
được giao đất 15 thửa. Bình quân mỗi thửa là 250 m 2. Hộ có nhiều thửa nhất là 30 thửa. Hộ ít
nhất là 5 thửa. Thửa có diện tích lớn nhất là 600m2. Thửa đất có diện tích nhỏ nhất là 6m2.
Chiều rộng có thửa chỉ có từ 2- 4m.

- Vị trí các thửa đất được giao cho từng hộ không tập trung. Do tư tưởng của nông
dân trước đây khi nhận đất phải có gần, có xa, có tốt, có xấu, cho nên vị trí các thửa đất
nằm rải rác ở nhiều nơi, nhiều xứ đồng dẫn đến rất khó khăn cho việc xây dựng quy
hoạch giao thông, thủy lợi tưới tiêu ổn định. Việc bố trí cơ cấu cây trồng theo vùng sản
xuất tập trung, chuyên canh gặp rất nhiều khó khăn. Đây là một yếu tố rất hạn chế đến
việc đầu tư thâm canh để làm tăng giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích và gây cản trở cho
quá trình thực hiện công nghiệp hóa trong nông nghiệp và nông thôn.
Thực hiện Chỉ thị số 02 – CT – TU ngày 5/4/2001 của ban Thường vụ Tỉnh ủy
Nghệ An, Chỉ thị số 08 CT – HU ngày 27/7/2001 của ban Thường vụ Huyện ủy Diễn
Châu và kế hoạch triển khai thực hiện số 464 KH/UB ngày 24/7/2001 của UBND huyện
Diễn Châu về cuộc vận động nông dân chuyển đổi ruộng đất để thực hiện công nghiệp


hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Công tác chuyển đổi ruộng đất lần I trên địa
bàn huyện Diễn Châu đã đạt được một số thành tựu sau:
Tổng số xã đã thực hiện : 38/39 xã (không tính Thị trấn)
- Trước khi chuyển đổi ruộng đất: Tổng số thửa đất giao cho các hộ theo Nghị định
64/CP là: 915 000 thửa, bình quân số thửa được giao là 20 thửa/ hộ, hộ có nhiều thửa nhất
là 30 thửa, hộ có ít thửa nhất là 10 thửa; vị trí các thửa đất của từng hộ được giao rải rác
từ 8 - 10 cánh đồng, diện tích thửa lớn nhất là 600m2, thửa nhỏ nhất là 6m2.
- Sau khi hoàn thành CĐRĐ, tổng số thửa đất đã được chuyển đổi còn lại khoảng
495.000 thửa; bình quân số thửa trên hộ là 9,5 thửa, giảm khoảng 50% số thửa/hộ; mỗi hộ
đã được giao đất bình quân từ 5 đến 6 xứ đồng, giảm 60% so với trước khi chuyển đổi; hộ
có thửa lớn nhất khoảng 1000 m2, hộ có thửa nhỏ nhất khoảng 200 m2 (trừ ruộng mạ).
Tổng số hộ đã được CĐRĐ là 54.566 hộ
Tổng diện tích đất nông nghiệp đã được CĐRĐ là 132.835 ha.
Tuy vậy, tại thời điểm thực hiện chuyển đổi lần I, do có những yếu tố khó khăn về
khách quan, chủ quan; đặc biệt là tầm nhìn của chúng ta còn hạn hẹp, chưa thấy hết được
quy luật xu thế phát triển của xã hội nên chưa tính đến chuyển đổi để phục vụ cho cơ giới
hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn lâu dài. Do vậy, tuy đã thực hiện chuyển đổi

ruộng đất lần I nhưng nhìn chung mới chỉ khắc phục được phần nào sự phân tán, manh
mún, và còn hạn chế trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi, đầu tư
thâm canh, giảm chi phí sản xuất. Mạng lưới giao thông nông thôn, giao thông nội đồng
nhìn chung còn chật hẹp, quy hoạch thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu đưa cơ
giới hóa vào trong sản xuất. Hệ thống kênh mương thủy lợi cho cây màu, cây công
nghiệp, các công trình phúc lợi của xã, xóm nhìn chung chưa được quy hoạch đảm bảo.
Qũy đất công ích còn phân tán nên phát huy hiệu quả đạt còn thấp.
Từ thực tế đó cùng với sự tiếp thu tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH
Trung ương Đảng khóa X và nội dung các văn bản hướng dẫn công tác dồn điền đổi thửa
lần II đến nay công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Diễn Châu đã đạt được một
số thành quả cụ thể như sau:
- Số xã thực hiện/tổng số xã phải thực hiện theo kế hoạch: 38/39 xã (không tính
Thị trấn).
- Số hộ đã được thực hiện dồn điền đổi thửa/Số hộ đang sử dụng đất nông nghiệp
phải dồn điền đổi thửa: 42.619/49.404, đạt 86,26%.
- Diện tích đất sản xuất nông nghiệp thực hiện dồn điền đổi thửa/tổng diện tích đất
sản xuất nông nghiệp đã giao ổn định: 9.290,8 ha/14.700ha.


- Trung bình số vùng (xứ đồng)/hộ: 2,35 vùng( xứ đồng)/hộ.
- Đánh giá kết quả đã thực hiện so với yêu cầu của đề án được phê duyệt:
1.2.2.4. Tình hình dồn điền đổi thửa ở xã Diễn Thái
Ngày 27 tháng 9 năm 1993 Nghị định 64/CP với nội dung chia ruộng đất tới tận
người nông dân. Lúc bấy giờ người nông dân thực sự làm chủ trên diện tích của mình
được chia. Đến ngày 21 tháng 9 năm 1996 Diễn Thái hoàn thành với tính san bằng sâu
cao xa xấu dẫn đến ruộng chia quá manh mún.
Hộ nhiều thửa nhất có tới 17 thửa. Hộ ít nhất có 4 thửa, thửa lớn nhất là 500m 2,
nhỏ nhất là 20m2, quân bình là 11 thửa/hộ, qua thời gian sử dụng và sản xuất hiệu quả
kinh tế không cao làm cản trở đến sự phát triển kinh tế chung như: Tiến độ khoa học kỹ
thuật, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh, chuyển đổi mùa vụ, tiết

kiệm thời gian chi phí.
Từ những yếu kém bộc lộ trên, tỉnh ủy Nghệ An ra tiếp chỉ thị 02-CT/TU ngày 05
tháng 04 năm 2001 với nội dung chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, với
mục đích hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng phân tán và manh mún về đất đai. Tạo
điều kiện thuận lợi cho hộ nông dân đưa tiến độ khoa học kỹ thuật công nghệ tiến vào sản
xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, đầu tư thâm canh, chuyển đổi mùa vụ, tiết
kiệm thời gian công sức chi phí trong sản xuất, có thu nhập cao nhất trên 1 đơn vị diện
tích;
Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất và phát triển kinh tế nông nghiệp vẫn còn tồn tại
một số hạn chế như:
- Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp:
Chưa quy hoạch được từng cánh đồng, từng vùng chuyên canh để sản xuất như: vùng lúa
chất lượng cao, vùng chuyên màu, vùng nuôi trồng thủy sản và các vùng xen canh khác;
Một vài cánh đồng sản xuất ba vụ lại chưa phát huy được sản xuất hàng hoá hoặc chất
lượng hàng hoá chưa cao.
- Hệ thống giao thông thủy lợi:
+ Về giao thông: đã nâng cấp được một số tuyến nội đồng đồng thời đắp mới được
một số tuyến nhưng hiện trạng đường vẫn còn nhỏ, thấp nhân dân lại phạt bờ thêm
trong quá trình sản xuất gây khó khăn cho quá trình chuyển chở, đi lại;
+ Về thủy lợi: Còn nhiều tuyến mương còn nhỏ, hẹp, cạn chưa đáp ứng nhu cầu tưới,
tiêu cho đồng ruộng.


- Quỹ đất 5% của UBND: Còn phân tán rải rác và manh mún dẫn đến công tác quản lý
còn gặp nhiều khó khăn;
- Diện tích đất khẩu của một số xóm còn chia theo hình thức xen kẽ, xen canh dẫn đến
không thuận lợi cho nhân dân trong quá trình canh tác, từ đó nhân dân vẫn chưa quan
tâm, chú trọng đẩy mạnh sản xuất.
- Qua thực hiện chúng ta đã làm được tổng số hộ nhận ruộng là 1712 hộ, một hộ có từ
2 đến 7 thửa với diện tích lớn nhất là 1100 m 2, nhỏ nhất là 33 m2 bình quân 5 thửa/hộ, đặc

biệt là đơn vị xóm 8 có trên 20 xứ đồng đang còn manh mún, có hộ nhận 7 thửa tại 7 xứ
đồng khác nhau; Bình quân số hộ nhận 5-6 thửa còn nhiều.
Sau khi thực hiện Chỉ thị 02, còn 2 xóm chưa hoàn thiện sổ 9A, 9B, hồ sơ địa chính
của xã chưa hoàn thiện, chưa cấp đổi được Giấy chứng nhận cho toàn dân
Qua một thời gian triển khai thực hiện đến ngày 10/1/2014 toàn xã đã hoàn thành
công tác bắt thăm đất; Đến ngày 20/1/2014 hoàn thành công tác giao đất thực địa cho
nhân dân sản xuất trên diện tích đất mới chuyển đổi cụ thể như sau;
+ Xóm 1: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 31/12/2013 với 210 hộ/756 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 345 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.64 thửa/hộ,
+ Xóm 2: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 03/01/2014, với 230 hộ/799 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 337 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.47 thửa/hộ;
+ Xóm 3: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 10/12/2013, với 211 hộ/648 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 248 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.16 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 85% so với kế hoạch;
+ Xóm 4: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 08/01/2014, với 114 hộ/400 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 182 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.60 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 119% so với kế hoạch;
+ Xóm 5: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 26/2/2014, với 149 hộ/422 khẩu được
giao đất mới/tổng số thửa 248 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.63 thửa/hộ; đạt tỷ lệ
97% so với kế hoạch;
+ Xóm 6: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 26/02/2014, với 251 hộ/789 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 302 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.16 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 103% so với kế hoạch;
+ Xóm 7: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 27/02/2014 với 218 hộ/689 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 219 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.00 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 103% so với kế hoạch;
+ Xóm 8: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 10/4/2014, với 153 hộ/479 khẩu được
giao đất mới/tổng số thửa 335 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 2.00 thửa/hộ; đạt tỷ lệ
91% so với kế hoạch;



+ Xóm 9: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 25/12/2013, với 218 hộ/766 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 412 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.60 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 113% so với kế hoạch;
+ Xóm 10: Hoàn thành giao đất thực địa ngày 15/01/2014, với 202 hộ/644 khẩu
được giao đất mới/tổng số thửa 355 thửa sau chuyển đổi, đạt bình quân 1.76 thửa/hộ; đạt
tỷ lệ 96% so với kế hoạch;
Sau khi thực hiện xong CT. 08 toàn xã có 6.394 khẩu được chia đất/tổng số 1.956
hộ gia đình được nhận đất/tổng số 2.983 thửa đất sản xuất nông nghiệp. Giảm 1271 thửa
so với trước chuyển đổi. đạt tỷ lệ bình quân chung toàn xã là 2.0 thửa/hộ, đạt 100% kế
hoạch đề ra; Tổng diện tích đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình cá nhân là 196.2 ha;
Thửa có diện tích nlỏ nhất là 400m2, thửa có diện tích lớn nhất là 3000m2; Hệ thống giao
thông nội đồng cơ bản đạt về bê rộng củng như đảm bảo tốt cho các phương tiện cơ giới
đến tận chân ruộng; Hệ thống thủy lợi nội đồng đảm bảo đựơc tiêu nước tốt trong mùa
mưa;
Thực hiện “dồn điền đổi thửa” toàn xã đã huy động đào đắp được 37.860m 3 đất
cho hạng mục mở rộng, nâng cấp đường giao thông, thủy lợi nội đồng, tương đương số
tiền nhân dân đã góp sức là 946.500.000 đồng; Huy động nhân góp đất, hiến đất để làm
đường giao thông, thủy lợi nội động và công trình công cộng của địa phương được
95.866m2 tương đương khoảng 3.738.774.000đồng; Ngoài ra nhân dân còn huy động từ
đóng góp bằng tiền mặt để phục vụ công tác “dồn điền đổi thửa” được 34.736.000 đồng;
Ngân sách huyện hộ trợ cho công tác “dồn điền, đổi thửa” là 40.000.000đồng. Vậy tổng
số tiền huy động cho công tác “dồn điền, đổi thửa” là: 4.770.000.000 đồng.
Sau khi thực hiện “dồn điền đổi thửa” xã đã xây dưng được cánh đồng mẫu lớn
gần 30ha; Quỹ đất công ích và đất do nhân dân góp để làm mặt bằng xây dựng công trình
công cộng được tập trung theo vùng, đúng vị trí quy hoạch; Đã hình thành các vùng đất
sản xuất tập trung; Chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những vùng đất xấu, khó sản
xuất, năng suất thấp chuyển sang trồng cỏ chăn nuôi;
Nhìn chung sau thực hiện “dồn điền, đổi thửa” nhân dân đã tịch cực, hăng hái
trong việc cải tạo đầu tư, thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm tăng năng suất,

tăng thu nhập cho gia đình. Đặc biệt có nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư hàng chục
m3 đất với kinh phí đầu tư hàng triệu đồng để cải tạo lại ruộng sản xuất.

CHƯƠNG 2. PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


2.1.1. Đối tượng nghiên cứu :
Toàn bộ quỹ đất nông nghiệp nằm trong ranh giới hành chính của xã Diễn Thái,
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Diễn Thái và các tác
động đến việc sản xuất nông nghiệp.
2.2. Địa điểm
Địa điểm: Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn xã Diễn Thái, huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng đất đai
xã Diễn Thái
- Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn xã Diễn Thái.
- Tìm hiểu nội dung, quy trình thực hiện phương án dồn điền đổi thửa trên địa bàn nghiên
cứu.
- Những tác động cơ bản của việc dồn điền đổi thửa trên địa bàn nghiên cứu.
- Những quan điểm và một số giải pháp nhằm khuyến khích nâng cao hiệu quả sử dụng
đất.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp điều tra khảo sát
Đây là phương pháp sử dụng để thu thập các số liệu, thông tin phục vụ cho đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài để nâng cao độ chính xác, tính thực tế, khách quan chúng
tôi đã sử dụng phương pháp này để thu thập số liệu về quỹ đất nông nghiệp, điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội của xã và các số liệu khác có liên quan.
2.4.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Đây là bước tiếp theo của công tác điều tra, khảo sát, sau khi thu thập được số liệu
thô tôi tiến hành phân tích và xử lý các số liệu đó, từ đó thiết lập các bảng biểu, đánh giá
sự tăng giảm trong dãy số liệu và tìm ra nguyên nhân của sự tăng giảm đó. Đồng thời từ
mối quan hệ giữa các dãy số liệu để đưa ra các biện pháp cần thực hiện sau khi thực hiện
dồn điền đổi thửa.
2.4.3. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu


Xã Diễn Thái là một xã thuần nông có địa hình tương đối bằng phẳng. Tuy điều
kiện kinh tế của địa phương còn khó khăn nhưng xã Diễn Thái đã hoàn thành tốt công tác
CĐRĐ ngay sau khi có chủ trương DĐĐT. Xã Diễn Thái cũng là một trong 10 xã điểm
của huyện trong công tác DĐĐT.
2.4.4. Phương pháp kế thừa
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã kế thừa các phương pháp, các số liệu đã
có sẵn làm nền tảng khoa học cho việc nghiên cứu.


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý:
Xã Diễn Thái là xã đồng bằng nằm về phía Tây của huyện Diễn Châu, cách trung tâm
huyện khoảng 12 km, có diện tích tự nhiên 602,12 ha, chiếm 1,97% diện tích của toàn
huyện, có vị trí địa lý:
- Phía Bắc, phía Tây và phía Nam giáp huyện Yên Thành;
- Phía Đông Nam giáp xã Diễn Nguyên;
- Phía Đông giáp xã Diễn Đồng;
Lợi thế nổi bật của xã là có tuyến tỉnh lộ 538 nối quốc lộ 1A với các huyện của tỉnh

Nghệ An chạy qua địa bàn xã, thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế - xã hội, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Hạn chế của xã là cách khá xa trung tâm huyện nên cũng hạn chế về phát triển kinh tế
hơn các xã gần huyện và thị trấn.
3.1.1.2. Địa hình địa mạo:
Diễn Thái có địa hình tương đối bằng phẳng, hướng nghiêng từ Tây sang Đông với
3 dạng địa hình chính:
- Địa hình vàn cao: Có diện tích 197,72 ha độ cao trung bình của địa hình từ 3 - 4
m. Nơi có địa hình cao nhất là 4,5 m, nơi có địa hình thấp nhất từ 2,5 - 3,0 m. Dạng địa
hình này chủ yếu thuận lợi cho phát triển cây màu và cây công nghiệp hàng năm.
- Địa hình vàn, vàn thấp có diện tích 357,14 ha phân bố ở hầu khắp các khu vực trên
địa bàn xã. Độ cao địa hình trung bình từ 2,0 - 2,5 m. Đây là khu vực có nguồn nước ngọt
thuận lợi cho trồng lúa.
- Địa hình thấp - thấp trũng: Có diện tích 20,65 ha chủ yếu phân bố dọc các tuyến
Kênh mương trên địa bàn xã. Đây là khu vực thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
3.1.1.3. Khí hậu:
Diễn Thái nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa
với một mùa nóng, ẩm, lượng mưa lớn (từ tháng 4 đến tháng 10) và một mùa khô lạnh, ít
mưa (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau). Những đặc điểm chính của khí hậu như sau:
- Chế độ nhiệt:
Diễn Thái nằm trong khu vực có nền nhiệt cao, nhiệt độ trung bình khoảng 23,4 0C,
cao nhất vào các tháng 4 đến tháng 11 (dao động vào khoảng 29 - 32 0C). Nhiệt độ thấp


nhất khoảng 5 - 70C vào các tháng 1 và tháng 2.
- Chế độ mưa, lượng bốc hơi, độ ẩm không khí:
+ Diễn Thái có lượng mưa bình quân 1.690 mm/năm nhưng phân bố không đều:
Mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10) lượng mưa chiếm tới 89% cả năm, tập trung vào các
tháng 8, 9, 10 dễ gây úng ngập ở những khu vực trũng thấp. Thời kỳ mưa ít từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau lượng mưa chỉ chiếm khoảng 11% lượng mưa cả năm. Đây là thời

kỳ gây khô hạn trên những chân đất cao.
+ Lượng bốc hơi bình quân khoảng 986 mm/năm. Các tháng 12, 1, 2 và tháng 3
lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa (1,9 - 2 lần) gây khô hạn trong vụ lúa đông xuân. Các
tháng 4, 5, 6 lượng bốc hơi tuy không lớn nhưng là thời kỳ có nhiệt độ cao và gió Tây
Nam khô nóng, gây hạn trong vụ xuân hè.
+ Độ ẩm không khí bình quân cả năm 85%, thời kỳ độ ẩm không khí thấp tập trung
vào mùa khô và những ngày có gió Tây Nam khô nóng (độ ẩm không khí có thể xuống tới
56%) hạn chế khả năng sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
- Chế độ gió, bão:
Diễn Thái nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng chính của 2 hướng gió chủ đạo: Gió
mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc xuất hiện từ các tháng 11 đến
tháng 3 năm sau thường kèm theo nền nhiệt độ thấp gây rét lạnh. Gió mùa Đông Nam
xuất hiện từ trung tuần tháng 4 tới đầu tháng 9 thường kèm theo khô nóng, độ ẩm không
khí thấp. Mỗi đợt kéo dài 10 - 15 ngày, gặp thời kỳ lúa trỗ bông sẽ hạn chế đáng kể tới
năng suất cây trồng.
Cũng như Nghệ An nói chung, Diễn Thái bình quân mỗi năm có 1,8 cơn bão đổ bộ
vào đất liền gây thiệt hại lớn về người và của của nhân dân trong xã.
Nhìn chung khí hậu của xã với nền nhiệt cao ổn định, lượng mưa khá lớn, thuận lợi
cho phát triển nông nghiệp của xã. Tuy nhiên do ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, lượng
mưa tập trung theo mùa và bão gió gây khó khăn không nhỏ cho sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân.
3.1.1.4. Điều kiện thủy văn, sông hồ:
Mạng lưới sông ngòi của xã gồm sông đào Vách Nam chảy qua khu vực phía Nam
của xã với chiều dài 2,5 km rộng trung bình 50 m, sông Cầu Bà chảy qua khu vực phía
Tây của xã với chiều dài 1,8 km, rộng trung bình 20 m và một số các sông ngòi nhỏ khác
dẫn nguồn nước ngọt đến các cánh đồng của xã. Cũng giống như hệ thống sông ngòi của
miền Trung do các sông, ngòi đều bắt nguồn từ khu vực địa hình cao có độ dốc lớn nên
chế độ thuỷ văn của các sông ngòi trên địa bàn xã đều phụ thuộc vào lượng mưa hàng
năm. Các tháng mùa mưa, nước các sông tập trung nhanh kết hợp với triều cường gây



hiện tượng ngập lụt cục bộ khu vực úng trũng, mùa khô nước các sông cạn kiệt khó khăn
về nguồn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp.
3.1.1.5. Tài nguyên nước
Nước mặt: Nguồn nước mặt của xã khá phong phú với sông Vách Nam, sông Cầu
Bà và hệ thống kênh mương, ao phân bố khá đồng đều trên toàn bộ diện tích tự nhiên của
xã. Chất lượng nguồn nước mặt tốt, thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên do
phần lớn các sông chảy qua địa bàn đều ngắn dốc, chế độ nước phụ thuộc vào lượng mưa,
mùa mưa lượng mưa lớn, nguồn nước ngọt dồi dào. Các tháng mùa khô mực nước các
sông cạn kiệt gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Nước ngầm: Tài nguyên nước ngầm ở Diễn Thái tuy chưa được khảo sát đánh giá
đầy đủ, song qua thực tế khai thác phục vụ sinh hoạt của nhân dân cho thấy, trữ lượng
nước ngầm khá phong phú đủ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
3.1.1.6. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 602,12 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 411,20
ha chiếm 68,29%; đất phi nông nghiệp là 185,13 ha chiếm 30,75%; đất chưa sử dụng là
5,79 ha chiếm 0,96%.
Căn cứ vào tính chất nông hóa thổ nhưỡng, đất đai của xã được chia thành 3 loại
chính sau:
- Đất phù sa được bồi hàng năm (Pbc): Phân bố chủ yếu ở khu vực phía Nam của
xã ven sông Vách Nam. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, khá tơi xốp. Độ dầy
tầng đất trên 100 cm, do phân bố ở chân vàn và thường bị ngập nước nên có tính glây yếu.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng của đất khá cao. Đất phù sa được bồi hàng năm thích hợp
với nhiều loại cây trồng đặc biệt là cây lương thực và cây màu.
- Đất phù sa không được bồi: Chiếm 2/3 diện tích tự nhiên của xã. Phân bố ở hầu
khắp trên địa bàn xã. Đất được hình thành do quá trình bồi lắng của các sông trên địa bàn.
Đất có tầng dày trên 100 cm, thành phần cơ giới trung bình đến thịt nhẹ. Hàm lượng các
chất hữu cơ trong đất ở mức trung bình. Đất phù sa không được bồi thuận lợi cho trồng
lúa và các cây màu lương thực.
- Đất phù sa úng nước bị glây (Pg): Có diện tích khoảng 30 ha, phân bố dọc hệ thống

Kênh đào và một số vùng trũng của xã. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình. Do phân bố
ở khu vực úng trũng nên có hiện tượng glây hoá. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất
khá cao. Diện tích đất phù sa úng ngập hiện chủ yếu đang được nuôi trồng thuỷ sản và trồng
lúa kết hợp nuôi tôm, cá.
Nhìn chung đất đai của xã khá thuận lợi cho phát triển các cây trồng lương thực và
các cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày.


3.1.1.7. Tài nguyên nhân văn
Diễn Thái là vùng đất có truyền thống cách mạng và hiếu học. Trong những năm
đấu tranh bảo vệ đất nước nhiều người con ưu tú của xã đã hy sinh để dành lại độc lập cho
đất nước. Ngày nay trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước phát huy truyền
thống, nhân dân các thế hệ của xã đang đóng góp công sức trí tuệ cho xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp. Đây là cơ sở quan trọng để xã đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới. Ngoài ra, Diễn Châu là vùng đất có rất nhiều lò vật và đô vật và
Diễn Thái là đất của nhiều đô vật có tiếng như ông Phó Ngà (làng Thư Phủ), Nguyễn
Ngọc Chấn (làng Nho Lâm). Mùa xuân hằng năm còn có các lễ hội như chọi gà, cờ người,
vật, đánh đu,... cùng với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao.
3.1.1.8. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên:
* Thuận lợi: Nhìn chung xã Diễn Thái có nhiều điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để
phát triển kinh tế. Với quỹ đất canh tác lớn xã mang hình ảnh một vùng quê thuần nông
với những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Ngoài ra xã Diễn Thái còn có hệ thống sông ngòi
gồm sông đào Vách Nam chảy qua khu vực phía Nam của xã với chiều dài 2,5 km rộng
trung bình 50 m, sông Cầu Bà chảy qua khu vực phía Tây của xã với chiều dài 1,8 km,
rộng trung bình 20 m và một số các sông ngòi nhỏ khác dẫn nguồn nước ngọt đến các
cánh đồng của xã phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp và cho sinh hoạt của người dân
trong xã.
* Khó khăn: Bên cạnh mặt tích cực, khu vực còn có những hạn chế nhất định như:
nằm trong vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng bão lũ vào mùa mưa, ngoài ra khu vực lập
quy hoạch còn chịu ảnh hưởng của các tai biến thiên nhiên khác như gió Tây Nam khô
nóng,…Vì vậy, khi phát triển xây dựng cần đầu tư khá lớn cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật

để đảm bảo phát triển bền vững.
3.1.2.Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
3.1.2.1. Về kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế của xã đã đạt được những thành tựu quan trọng
có bước phát triển nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011
- 2016 là 14,6%/năm, bình quân thu nhập đầu người năm 2015 đạt 11.014.000 đồng, dự
ước năm 2016 đạt 13 triệu đồng đạt mục tiêu đại hội.
- Chỉ số phát triển về kinh tế (năm 2015)
+Thu từ trồng trọt: 17.514.000.000 đồng
+ Thu từ chăn nuôi: 19.995.940.000 đồng
+ Thu từ TTCN và XDCB: 29.580.000.000 đồng


+ Thu từ dịch vụ thương mại: 2.270.000.000 đồng
Giá trị sản xuất 1 ha bình quân đạt 56 triệu đồng/năm
Bảng 3.1. Giá trị thu nhập và tỷ lệ thu nhập theo ngành của xã Diễn Thái
TT

Ngành

Giá trị ( tỷ đồng )

Tỷ lệ (%)

1

Sản xuất nông nghiệp

37,510


54,05

2

SXCN và TTCN

29,580

42,67

3

Dịch vụ thương mại

2,270

3,28

69,36

100,00

Tổng cộng

(Nguồn: Thống kê đất đai xã Diễn Thái năm 2016)
- Cơ cấu kinh tế:
+ Nông nghiệp: 54,05%
+ SXCN và TTCN: 42,67%
+ Dịch vụ thương mại: 3,28%
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm:

a. Trồng trọt: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá, đưa cây trồng có giá trị kinh tế cao
và áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất. Thực hiện đúng thời vụ, cơ cấu hợp lý. Do đó làm
chuyển biến một bước quan trọng kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gieo trồng hàng năm đạt 100% diện tích, năng suất cây trồng từ 300 kg/sào năm
2011 lên 330 kg/sào năm 2016.
Tổng sản lượng lương thực bình quân giai đoạn (2011 - 2016) là 4.381.8 tấn tăng
so với kỳ trước nhưng sản lượng hàng năm không ổn định có năm đã vượt kế hoạch chỉ
tiêu đề ra như năm 2011 là 5.252 tấn. Năm 2016 sản lượng lương thực quy thóc đạt 4.810
tấn. Bình quân lương thực theo đầu người đạt 666,11 kg/người.
b. Chăn nuôi:
Khuyến khích đầu tư phát triển chăn nuôi, áp dụng các tiến bộ KHKT, chú trọng
công tác tiêm phòng nên chăn nuôi có nhiều chuyển biến tích cực, hàng năm tổng đàn ổn
định và có tăng.
Tổng đàn lợn năm năm 2016 đạt 5.662 con, tổng đàn trâu bò năm 2016 đạt 703
con. Chăn nuôi gia cầm đạt 15.100 con.
c. Nuôi trồng thủy sản:
Diễn Thái có diện tích 20,65 ha đất thấp trũng phù hợp với nuôi trồng thủy sản,


nhưng đến nay mới đưa 14,61 ha vào chuyên nuôi trồng thủy sản. Đồng thời do được đầu
tư khai thác theo hướng thâm canh cao nên sản lượng và giá trị sản xuất ngành thủy sản
liên tục tăng.
* Về TTCN- XD và dịch vụ thương mại:
Khu vực kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển, quy mô chủ
yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ của hộ gia đình Trong đó, tập trung chủ yếu là các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp như xay xát, rèn, mộc, sữa chữa máy móc, nông cụ,... đáp ứng
nhu cầu của người dân và thu hút hàng trăm lao động tại chỗ của xã.
Xây dựng cơ bản được sự quan tâm chỉ đạo tích cực của các cấp, các ngành, các
công trình giao thông, thủy lợi, y tế, trường học, điện, bưu chính viễn thông của xã đến

nay đã khá hoàn thiện. Diện tích đất cơ sở hạ tầng của xã năm 2016 là 108,80 ha.
Số lượng các chương trình, dự án đã và đang thực hiện: Xây dựng công trình nước
sạch phục vụ dân sinh cho khoảng 580 hộ dân vùng ngoài, xây dựng kiên cố hoá trường
học, nâng cấp trang thiết bị dạy và học, xây dựng đường nhựa kinh tế được 4 km, bê tông
hoá kênh mương được 8 km.
Hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn xã chủ yếu do tư thương kinh doanh
dọc tỉnh lộ 538 và trục đường liên xã, chợ trung tâm và tại gia. Dịch vụ vận tải phát triển
nhanh đáp ứng yêu cầu lưu thông hàng hoá. Dịch vụ bưu chính viễn thông dần đáp ứng
yêu cầu thông tin liên lạc của nhân dân trong xã. Hiện nay có 202 lao động kinh doanh
dịch vụ, 413 lao động thợ xây, mộc và hàng trăm lao động gò, hàn, may, mặc, ...
3.1.2.2. Về văn hóa xã hội:
* Cơ sở giáo dục - đào tạo :
Công tác giáo dục chuyển biến mạnh, cơ sở vật chất, trang thiết bị tiếp tục được bổ
sung xây dựng, đáp ứng cơ bản về yêu cầu dạy và học. Hiện tại, địa phương đã và đang
duy trì tốt phong trào xã hội hoá giáo dục, chất lượng dạy và học được nâng cao. Công tác
xã hội hoá giáo dục đã đạt được nhiều tiến bộ, bước đầu đã huy động được nhân dân tham
gia phát triển giáo dục với nhiều hình thức phong phú như xây dựng quỹ khuyến học,
khuyến tài, ... Đến nay trên địa bàn xã có 01 trường THCS, 01 trường tiểu học và 02
trường mầm non được xây dựng kiên cố khang trang đáp ứng tốt cho yêu cầu dạy và học.
Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trong giai đoạn (2011 - 2016) đúng độ tuổi,
số học sinh giỏi ngày càng tăng. Tỷ lệ tốt nghiệp THCS trung bình hàng năm đạt 98%, tỷ
lệ học sinh lên lớp các cấp luôn đạt và cao hơn mức bình quân chung toàn huyện. Số học
sinh đậu vào trường cao đẳng, đại học trong 5 năm qua là 268 em, trong đó đại học là 133
em, cao đẳng là 135 em. Hàng năm các trường đều đạt tiên tiến, xuất sắc. Trường tiểu học
đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2, trường mầm non và THCS đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1.


Xã 10 năm đạt tiêu chuẩn tiên tiến về giáo dục.
* Cơ sở y tế:
Công tác y tế được quan tâm thường xuyên. Do vậy trong những năm qua đã làm

tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân, không có dịch bệnh xảy ra. Tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng từ 17% nhiệm kỳ trước giảm còn 7,04% năm 2016.
Trạm y tế đã được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ đảm bảo
khám và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Y tế thôn xóm hoạt động có hiệu quả,
100% số xóm có y tá. Với nhiều hình thức tham gia bảo hiểm y tế, đến nay toàn xã có
2.357 người đóng bảo hiểm y tế, đạt 32,6%.
* Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Dân số của xã năm 2016 là 7.221 người, với 1.740 hộ, quy mô hộ gia đình bình
quân là 4,15 người/hộ. Phân bố tập trung nhiều nhất ở xóm 1, xóm 6, xóm 7, xóm 9. Nhìn
chung dân số của xã trẻ, tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 15 - 35 chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu
dân số của xã.
Công tác dân số được chính quyền và các đoàn thể quan tâm, tuyên truyền bằng
nhiều hình thức như truyền thanh, vận động từng gia đình trong việc kế hoạch hóa gia
đình nên tỷ lệ sinh con thứ 3 đã giảm xuống còn 24,5 %. Tỷ lệ tăng dân số là 0,7 %/năm.
Năm 2016, tổng số lao động trong độ tuổi của xã là 3.396 người, chiếm 47% dân
số toàn xã. Cơ cấu lao động theo ngành: lao động nông nghiệp là 2.981 người chiếm
khoảng 87,8%; lao động phi nông nghiệp là 415 người chiếm 12,2%. Nguồn lao động của
xã nhìn chung đảm bảo tốt cho lao động sản xuất tại chỗ và cung ứng cho các nơi khác
trong và ngoài tỉnh.
Lao động việc làm có bước tăng nhanh, năm 2016 có 797 lao động đi làm ăn xa, có
180 lao động đi nước ngoài có nguồn thu nhập khá.
Thu nhập bình quân theo đầu người năm 2016 của xã đạt 13 triệu đồng/năm. Nhìn
chung, dân số của xã đông so với mặt bằng chung của toàn huyện nhưng tỷ lệ lao động
của xã thấp so với số dân trong xã, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó
họ có thu nhập thấp hơn mức bình quân chung của huyện. Tập quán sản xuất của địa
phương ngoài những phương pháp truyền thống, người dân cũng đang dần áp dụng các
cải tiến trong nông nghiệp (sử dụng máy móc) thay thế một phần sức người, sức trâu, bò
cày kéo (thủ công).
* An ninh quốc phòng:
Trong môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, nhưng thời gian qua trên địa bàn xã an

ninh quốc phòng được giữ vững, an toàn xã hội chưa có hiện tượng gì đáng kể. Lãnh đạo


×