Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Vận dụng cặp pham trù nguyên nhân- kết quả để phân tích thực trạng cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.03 KB, 11 trang )

1

Lời nói đầu
Nước ta có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và
khí hậu thuận lợi. Đất đỏ ba dan, rất thích hợp với cây cà phê được
phân bố rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt
đới gió mùa, nhất là những tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần
hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố đó đều rất thuận lợi
nước ta. Với sự say mê của cá nhân trong vấn đề cũng như nhiều ý
kiến quan tâm, em xin được đóng góp một vài ý kiến cá nhân nhỏ bé
của mình trong bài tiểu luân với đề tài: Vận dụng cặp pham trù
nguyên nhân- kết quả để phân tích thực trạng cà phê Việt Nam trên
thị trường thế giới và môt số giải pháp đưa ra để tiếp tục phát triển.
Trong khuôn khổ của một bài viết ngắn, và vì những hạn chế hiểu
biết, chắc chắn bài viết của em sẽ khơng tránh khỏi những sai xót.
Kính mong thầy cơ giáo và các bạn SV góp thêm ý kiến để em làm tốt
hơn cho những bài viết sau. Và em cũng xin chân thành cảm ơn các
thầy cô đã hướng dẫn, giúp em hoàn thành tốt bài viết này.


2

Chương I:

CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1 Khái niệm Nguyên nhân- Kết quả
a. Nguyên nhân.
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra sự biến đổi nhất định.


b. Kết quả
Kết quả là những biến đổi gây ra sự biến đổi xuất hiện do tác
động lẫn nhau của các mặt tập hợp trong một sự vật hoặc giữa các sự
vật với nhau.
2 Mối quan hệ biên chứng giữa Nguyên nhân và Kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả,vì vậy nguyên nhân bao giờ
cũng có trước kết quả. Cịn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi
nguyên nhân đã xuất hiện.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện
tượng nào cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả. Ví dụ: Ngày ln
ln đến sau đêm,sấm ln ln đến sau chớp v.v... như thế khơng có
nghĩa là đêm là nguyên nhân của ngày, chớp là nguyên nhân của sấm
v.v... Vì vậy khi nói về mối liên hệ nhân quả mà chỉ nói đến tính liên
tục nối tiếp nhau về thời gian thì chưa đủ. Cái phân biệt giữa mối liên
hệ nhân quả với sự liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ
giữa nguyên nhân và kết quả cịn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ
trong đó nguyên nhân sinh ra kết qủa. Ở ví dụ thứ nhất, nguyên nhân
là do sự tự quay quanh trục của trái đất mà ln có phần nưả trái đất
phơ ra ánh sáng mặt trời, cịn nửa phần bị che khuất. Ở ví dụ thứ hai,
nguyên nhân là do sự phóng điện, nhưng tốc độ lan truyền của ánh
sáng lớn hơn tốc độ lan truyền của âm thanh nên ta thấy trước, nghe
tiêng sấm sau v.v.....
-Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, một
kết quả thông thường phải do nhiều nguyên nhân và một nguyên nhân
cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả.


3
Sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân (hay là nguyên nhân
tổng hợp) đòi hỏi chúng ta phải phân tích tính chất, vai trị của từng

loại ngun nhân đó.

Nếu các nguyên nhân tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả.
Ngược lại, nếu những nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo
những hướng khác nhau tác động lên sự vật theo những hướng khác
nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoần tồn tiêu diệt tác dụng
của nhau.
Một ngun nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Ví dụ: dịng
điện vừa qua dây tóc bóng đèn, vừa làm đỏ dây tóc phát sáng, vừa làm
giãn nở bóng đèn (tuy khơng đáng kể), vừa làm thay đổi nhiệy độ
xung quanh bóng đèn v.v... Vì vậy địi hỏi chúng ta phải biết phân
loại những kết quả do nguyên nhân đưa lại. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với các hoạt động có mục đích của con người .Một cuộc
cách mạng coi như khơng thành cơng, khơng triệt để, khơng đạt được
mục đích nếu như nó khơng giành được chính quyền về tay các giai
cấp cách mạng. Lê-nin nói, chính quyền là vấn đề quan trọng nhất của
mọi cuộc cách mạng.
-Trong sợi dây truyền vơ tận của sự vật động của vật chất, khơng
có một hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng
khơng có kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan
hệ này, sự vật và hiên tượng nào đó được coi là nguyên nhân, song
trong mối quan hệ khác, nó lại là kết quả và ngược lại. Diễn tả tính
quy định này, Ăng-ghen viết: "...nguyên nhân và kết quả là những
biểu tượng chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được ứng
dụng vào một trường hợp cá biệt, nhưng ta xét trong trường hợp cá
biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với tồn bộ thế giới thì những
biểu tượng đó lại hồ hợp với nhau, xoắn xt với nhau trong sự tác
động qua lại một cách phổ biến, trong đó ngun nhân và kết quả ln
ln thay đổi vị trí cho nhau, cá ở đây bây giờ là kết quả thì chỗ khác

lạ trở thành nguyên nhân và ngược lại.
-Nguyên nhân sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiên, kết
quả khơng giữ vai trị thụ động đối với nguyên nhân, trái lại, nó có
ảnh hưởng ngược lại nguyên nhân. Sự ảnh hưởng,tác động trở lại
theo hai chiều, tích cực hoặc tiêu cực.


4

Chương II:
THỰC TRẠNG CÀ PHÊ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG
THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐƯA RA ĐỂ TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN
I. Thực trạng
Lịch sử phát triển cây cà phê ở nước ta đã có hàng trăm năm.
Sự phát triển nhanh với quy mô lớn của cà phê bắt đầu sau năm 1975
khi đất nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng tăng tốc
thực sự từ khi đời sống đất nước bước vào thới kỳ đổi mới. Năm
1976, quy mơ sản xuất cà phê chỉ có diện tích 19 nghìn ha và sản
lượng 6,1 nghìn tấn; năm 1986 lên tới 65,6 nghìn ha và 202 nghìn tấn;
năm 1999 là 397 nghìn ha và 486,8 nghìn tấn; năm 2000 là 430 nghìn
ha và 680 nghìn tấn. Từ 1976 đến 2000, diện tích cà phê tăng 21,6 lần
và sản lượng tăng gấp 111,5 lần. Hình thành vùng cà phê tập trung ở
Tây Ngun và Đơng Nam Bộ, trong đó Đắc Lắc là tỉnh có diện tích
và sản lượng cà phê nhanh nhất : năm 2000 đạt trên 350 nghìn tấn,
tăng gấp 2,3 lần so với năm 1995 (150nghìn tấn). Kế đến là Lâm
Đồng, khoảng 100 nghìn tấn, Gia Lai 70 nghìn tấn và Đồng Nai 30
nghìn tấn- chủ yếu là cà phê vối.
Cà phê Việt Nam là cây công nghiệp gắn với xuất khẩu rất chặt
chẽ. Quy mô sản xuất ln ln phụ thuộc vào thị trưịng cà phê thế

giới vì trên 95% cà phê sản xuất là để xuất khẩu. Năm 2000, sản
lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã lên tới 660 nghìn tấn ,đứng
thứ 2 trong xuất khẩu nơng sản gạo, nhưng có năm do giá cà phê thị
trường thế giới tăng, nên giá trị xuất khẩu cà phê đã vượt giá trị xuất
khẩu gạo (1998:xuất khẩu 320 nghìn tấn cà phê, kim ngạch đạt trên
560 triệu USD, cao hơn doanh thu từ xuất khẩu gạo trong năm đó). Cà
phê ở Tây Nguyên lên cao. Rừng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ bị
chặt phá để chuyển sang trồng cà phê với quy mô mỗi năm vài chục
nghìn ha. Nhân dân vùng Tây nguyên, nhất là Đắc Lắc, Lâm Đồng
giàu lên nhờ cây cà phê, nhờ giá cà phê thế giới đứng ở mức cao. Lợi


5
thế xuất khẩu cà phê trong những năm đó được coi là phát huy tối đa,
nên từ nông trường, lâm trường đến nhân dân ở các thành phố, thị xã
vùng và cả Thành phố Hồ Chí Minh đổ về Tây Nguyên để kinh doanh
cà phê. Đáng chú ý là tình hình mua, bán, cầm cố, sang nhượng vườn
cà phê trở nên phổ biến và phong trào đẩy mạnh sản xuất, đầu tư thâm
canh cây cà phê cũng được coi trọng, nên năng xuất cà phê nước ta từ
1 tấn/ha thời kỳ đầu 1990 tăng lên 1,5 tấn/ha thời kỳ 1996-2000.
Quy mô và tốc độ phát triển sản xuất cà phê nước ta có quan hệ
trực tiếp với quan hệ cung cầu trên thị trường cà phê thế giới, nhất là
các nước sản xuất cà phê và thị trường tiêu thụ cà phê.
Sản lượng cà phê toàn thế giới vụ cà phê 1990-1991 là 5,586 triệu
tấn, trong đó cà phê Arabica chiếm 75,6%, còn cà phê Robusta chiếm
24,4%. Từ năm 1970 trở lại đây, tỷ lệ này tiêu tương đối ổn định,
dạng sản phẩm được xuất khẩu trên thị trường thế giới chủ yếu là cà
phê nhân sống. Lấy số liệu năm 1990 làm ví dụ, lượng cà phê đã xuất
khẩu là 4,788 triệu tấn, gía trị 6,73 tỉ USD, trong đó cà phê nhâm sống
chiếm 95,2% ; cà phê rang rất ít, chiếm 0,1%; cà phê hồ tan chiếm

4,7%.
Giá cà phê trên thị trường thế giới không ổn định, lên xuống thất
thường. Năm 1992 đã có lúc giá cà phê Robusta chỉ còn 600 USD/tấn.
Nhưng đến năm 1996, giá cà phê Robusta lại tăng vọt, có thời điểm
đạt 4000 USD/tấn. Giá cả diễn biến phản ánh tình hình tồn kho ở các
nước tiêu thụ. Năm 1998, do hậu quả của En-ni-nô, sản lượng cà phê
thế giới giảm sút lớn. Đến tháng 12 năm 2000 giá cà phê ở nước ta
chỉ cịn ở mức dưới 5 nghìn đồng/kg thấp nhất từ trước đến nay.
Trong 70 nước sản xuất cà phê thì Việt Nam cáhc đây 20 năm cịn
đứng vị trí thấp,hằng năm xuất khẩu 5000-6000 tấn. Ngồi việc trao
đổi hàng hố với Liên Xơ và các nước XHCN Đơng Âu, cịn lại một
lượng nhỏ được bán cho các thương gia ở hai thị trường Xin-ga -po và
Hồng Kông. Ngày nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 40
nước với khối lượng lớn đứng hành thứ 4 trên thế giới. Mức tăng
trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Có thể xem số liệu
xuất khẩu cà phê của nước ta từ vụ cà phê 1992-1993 lại đây:
Niên vụ
1992-1993
1993-1994
1994-1995
1995-1996

Lượng xuất khẩu (tấn)
130 500
158 520
212 038
233 000

Tốc độ tăng (%)
65,0

21,5
33,7
9,8


6
1996-1997
1997-1998
1999-2000

346 000
382 000
660 000

48,5
10,4
72,7

Kim ngạch xuất khẩu còn tuỳ thuộc vào giá cả, có năm ngành cà
phê đã thu được 560 triệu USD. Nếu tính theo năm thì từ 1-1-1997
đến 31-121997, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 390 000 tấn, tăng 56%
so với năm 1996, đạt trị giá xấp xỉ 500 triệu USD, đứng thứ 6 về kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ năm 1998 đến năm 2000, dù giá cà
phê giảm nhưng nhờ lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch xuất
khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao; 1998 = 593,8 triệu USD,
1999 =585,3 triệu USD và năm 2000 giá cà phê giảm sút lớn, nhưng
nhờ lượng tăng 72% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt trên 500 triệu
USD.
Với một lượng hàng hóa lớn như vậy, Việt Nam đã thực sự có ảnh
hưởng to lớn đến giá cà phê Robusta trên thế giới tăng giảm theo mùa

vụ thu hoạch cà phê của Việt Nam và In-đơ-nê-xi-a. Trong tình hình
diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, ngành cà
phê còn non trẻ của Việt Nam cần xác định cho mình phương hướng
sản xuất kinh doanh đúng đắn. Nói một cách khác là phải có một
chiến lược đúng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
II. Các giải pháp
Vấn đề đặt ra cho ngành cà phê hiện nay là cần có một quan
điểm chiến lược đúng đắn, toàn diện và thống nhất để đưa cà phê Việt
Nam có ưu thế trên thị trường thế giới với một hệ thống các giải pháp
đồng bộ.
1) Vấn đề thâm canh tăng năng suất và duy trì sinh thái mơi
trường vườn cây bền vững.
Năm 1997 cả nước mới có 14 000 ha cà phê, sản lượng dưới 5 000
tấn, năng suất 4 tạ/ha thì niên vụ 1999-2000 diện tích cà phê kinh
doanh đã tới hơn 200 000 ha, năng suất bình quân trên 15 tạ/ha, sản
lượng hơn 680 000 tấn. Hầu hết cà phê được trồng trong các hộ gia
đình quy mơ vườn 0,5 - 1 ha và đang ở độ tuổi sung sức, có năng suất
khá cao , tập trung thành các vùng lớn ở các tỉnh Tây Nguyên, miền
Đông Nam Bộ và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Trong điều kiện khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, mơi trường sinh thái đã có sự thay
đổi lớn, cà phê sinh trưởng trong các vùng tập trung, sâu bệnh sẽ phát
triển mạnh và dễ dàng trở thành dịch. Mấy năm nay sâu bệnh đã gây
hại ở một số nơi cần tập trung chữa trị dứt điểm tránh để thành dịch
lan rộng gây thiệt hại lớn như ở một số nứơc. Mặt khác, cũng cần


7
ngăn chặn những khuynh hướng khai thác bóc lột vườn cây như sử
dụng phân hoá học quá nhiều, lạm dụng chất kích thích sinh trưởng,
tưới nước ồ ạt...thúc đẩy ra hoa quả nhiều để có năng suất rất cao

trong một năm, nhưng sau đó vườn cây lại chóng tàn lụi làm cho hiệu
quả kinh tế thấp kém. Thâm canh chăm sóc vườn cây, duy trì năng
suất cao ổn định tạo môi trường sinh thái bền vững suốt chu kỳ sinh
trưởng phải là phương hướng nhiệm vụ quan trọng trong toàn ngành.
Phương hướng thâm canh cà phê trong thế kỷ XXI là đầu tư chiều sâu,
ứng dụng rộng rãi tiến bộ sinh học và kỹ thuật mới vào các khâu
giống, chăm sóc để tăng chất lượng cà phê.
2) Tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối.
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê vối và cà
phê chè có năng suất và chất lượng cao. Những điều kiện đó đã tạo
cho Việt Nam lợi thế so sánh quan trọng : có thể sản xuất cà phê hàng
hóa có chất lượng cao và giá thành hạ để cạnh tranh trên thương
trường quốc tế. Mặt khác, cũng phải thấy rằng thị trường cà phê quốc
tế không phải đã ổn định. Nhu cầu tiêu dùng cà phê vẫn tăng lên hàng
năm, nhiều thị trường mới được khơi phục và mở rộng, cịn các nứơc
sản xuất cà phê thì điều kiện thời tiết, khí hậu khơng bình thường và
nhiều nguyên nhân khác cũng đã gây nên những khó khăn trong cung
ứng cà phê. Vì vậy, nước ta cần nhanh chóng mở rộng thêm diện tích
cà phê chè. Dự báo đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 450 000 ha cà phê,
trong đó cà phê chè 100 000 ha, sản lượng hơn 800 000 tấn và kim
ngạch xuất khẩu cà phê khoảng 1,2 tỉ USD. Theo phương hướng này,
công tác quy hoạch khảo sát thiết kế các vùng trồng mới phải được
tiến hành trước một bước và bố trí các mơ hình sản xuất thực nghiệm
nhằm xác định cơ cấu giống phù hợp, thực hành khuyến nông giúp
cho nhân dân làm quen dần tiến tới nắm chắc các vấn đề kinh tế - kỹ
thuật sản xuất cà phê chè. Chính phủ đã phê duyệt dự án phát triển cà
phê chè 40 000 ha trong 5 năm (1997 - 2000) bằng vốn trong nước và
vốn vay ưu đãi của Quỹ phát triển Pháp (CFD). Hiện nay nhiều tỉnh
đang triển khai trồng mới cà phê chè với tốc độ 300 - 1 000
ha/năm/tỉnh. Đối với cà phê cần ổn định diện tích hiện có ở Tây

Ngun, khơng mở rộng diện tích trồng mới trong thập niên đầu thế
kỷ XXI mà lấy thâm canh và nâng cao chất lượng làm hướng chính.
3) Phát triển cơng nghiệp chế biến cà phê.
Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất thơm
ngon vốn có của giống tốt được sản xuất trên các cao ngun có điều
kiện khí hậu thổ nhưỡng rất thích hợp. Tuy nhiên, cà phê hạt xuất
khẩu lại khơng có chất lượng tương xứng và vì vậy đã thua thiệt về
giá cả so với các nước khác. Một thời gian dài trước đây, công nghiệp


8
chế biến cà phê đã không được quan tâm đầy đủ, có sự thiếu sót về
nhận thức, có khó khăn về vốn đầu tư, trình độ cơng nghệ thấp kém
chậm đổi mới, tổn thất sau thu hoạch khá lớn (không dưới 10% giá
trị). Cần lưu ý là đã có những cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng,
thất thu hàng tỉ đồng vì chất lượng hạt xấu. Mặt khác, hơn 80% cà phê
được sản xuất ra là từ các hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu các điều
kiện sơ chế tối thiểu. Các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, các đại lý
mua cà phê cũng thiếu hệ thống kho tàng và thiết bị chế biến. Cà phê
nội tiêu ở trong nước tuy không nhiều, nhưng đã tăng lên hàng năm và
đòi hỏi ngành cơ sở số liệu phải cung cấp cho người tiêu dùng những
thành phẩm có chất lượng cao. Nhưng thật đáng tiếc, công nghiệp đồ
uống cà phê quá nhỏ bé có nguy cơ bị nước ngồi cạnh tranh mất thị
trường, chưa nói đến việc Việt Nam xuất khẩu cà phê thành phẩm để
tăng thu ngoại tệ. Có thể nói, cơng nghiệp chế biến cà phê đã khơng
theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cà phê, việc này
đã gây nên thiệt hại không nhỏ cho người sản xuất cũng như nhà
nước. Vì vậy, trong những năm tới, đẩy mạnh phát triển công nghiệp
chế biến cà phê phải được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hố ngành cà phê. Phải sử dụng thêm nhiều

cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ
thống sấy, xay xát, đánh bóng, sân phơi, nhà kho...mở rộng quy mơ và
nâng cấp Nhà máy cà phê Biên Hồ lên 1 000 tấn/năm và xây thêm
một số nhà máy thành phẩm khác khi thị trường được mở rộng. Một
việc không kém phần cấp bách là Tổng công ty cà phê Việt Nam phải
sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí thiết bị chế biến cà phê để sản
xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chun dùng trong cơng
nghiệp cà phê.
4) Mở rông thị trường cà phê tăng cường hợp tác quốc tế.
Hiện nay, hàng năm chúng ta đã xuất khẩu cà phê đến 48 nước và
có quan hệ thương mại với tất cả các hãng cà phê lớn trên thế giới.
Nâng cao chất lượng cà phê, bảo đảm tín nhiệm với khách hàng, tn
thủ thơng lệ bn bán quốc tế...là những biện pháp quan trọng để củng
cố thị trường. Mặt khác, cần có các giải pháp để khơi phục thị trường
truyền thống cũ trước đây ở các nước SNG và Đông Âu, mở thị
trường mới ở Trung Quốc và các nước Trung Cận Đông... Khối lượng
cà phê sản xuất ngày một lớn, không thể thụ động ngồi chờ ai đến
mua thì bán, cần chủ đơng tạo thị trường, mở cơ quan đại diện và sử
dụng các phương thức thương mại khác như: đổi hàng, trả nợ nhà
nước và các hiệp định Chính phủ. Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham
gia tổ chức Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) và những tổ


9
chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương
mại, khoa học - công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
5) Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng cường đào tạo
cán bộ cho ngành cà phê.
Nội dung công tác khoa học - công nghệ của ngành cà phê khá
rộng rãi, tuy nhiên một số lĩnh vực trước đây vẫn chưa được quan tâm.

Một thời gian dài chúng ta chú trọng các vấn đề nơng sinh học như
quy vùng quy họach, tìm các giống mới, kỹ thuật canh tác, tạo hình,
bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh... Thời gian tới, cần đầu tư
nghiên cứu hơn nữa vào công nghệ sau thu hoạch, công nghiệp chế
biến sâu, nghiên cứu chiến lược thị trường và thương mại. Mặt khác,
củng cố, nâng cấp Viện nghiên cứu cà phê Eakmát, lập thêm các trạm
nghiên cứu thực nghiệm ở các vùng, tăng cường công tác đào tạo cán
bộ và phổ cập rộng rãi các hình thức khuyến nông cà phê đến các hộ
nông dân. Hội đồng khoa học - công nghệ cà phê đã được thành lập và
hoạt động có hiệu quả, trên cơ sở này xây dựng hồn chỉnh hệ thống
quản lý cơng nghệ tạo thêm sức mạnh cho toàn ngành phát triển bền
vững trong cơ chế mới.
6) Vấn đề tổ chức quản lý và chính sách.
Hiện nay, ngành cà phê Việt Nam đã có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Kim ngạch xuất
khẩu hàng năm khá lớn và có thể dự đốn rằng trong 5 - 10 năm tới
đây cà phê và lúa gạo vẫn là những nông sản xuất khẩu hàng đầu ở
nước ta. Việt Nam là một nước xuất khẩu lớn cà phê cho nên đã có
ảnh hưởng đến cung - cầu và giá cả cà phê trên thị trường quốc tế.
Những vấn đề trên đây khá phức tạp đòi hỏi phải nghiên cứu một cơ
cấu tổ chức quản lý ngành hợp lý hơn và đề xuất những chính sách
mới tạo cho ngành phát triển thuận lợi. Việt Nam cũng cần sớm ra đời
một tổ chức quản lý sản xuất và xuất khẩu cà phê gọn nhẹ có thành
viên chuyên trách và một số thành viên kiêm nhiệm của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính... với
tên gọi cụ thể là "Hội đồng phát triển cà phê quốc gia". Hội đồng sẽ
nghiên cứu và trình ban hành một số chính sách riêng cho ngành cà
phê như tín dụng dài hạn, giá cả và hỗ trợ xuất khẩu, khuyến nông,
bảo hiểm và các quy chế quản lý khác... Tránh để tình trạng nhiều hộ
trồng cà phê, giá hạ không tiêu thụ được sản phẩm nên chặt phá cà

phê để trồng cây khác.
7) Tăng cường vai trò của Nhà nước đối với sản xuất và xuất khẩu
cà phê.


10
Vai trị đó cần hướng vào các vấn đề trọng tâm: chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch sản xuất và xuất khẩu dài hạn của các cơ chế chính
sách, về đầu tư vốn, khoa học - công nghệ và ổn định thị trường.

Kết luận
Những nguyên nhân khách và chủ quan đã có tác động lớn gây ra
nhiều kết quả khơng lường cho ngành cà phê Việt Nam. Đứng trước
những mối lo ngại cũng như những thế mạnh vốn có, nước ta cần có
những bước đi đúng đắn dựa trên cơ sở tìm hiểu chính xác ngun
nhân để có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu và kịp thời cho ngành
cà phê trước tình hình xuất khẩu cà phê của nhiều nước liên tục giảm
mạnh.
Với mọi vấn đề, việc tìm hiểu ngun nhân chính xác ln là bài tốn
khó, địi hỏi con người phải nghiên cứu và vận dụng hợp lý những
khái niệm thiết yếu. Tìm hiểu được nguyên nhân rồi thì sao? Con
người đưng trước bao nguy cơ tìm ẩn trong vũ trụ, dù tìm đựơc
nguyên nhân của mọi vấn đề đã là đi được hơn nửa quãng đường, vậy
con đường cịn lại là giải quyết vấn đề có dễ đi hay không? Cặp phạm
trù nguyên nhân - kết quả đã giải thích tính đúng đắn của vấn đề. Một
nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả, nhưng một kết quả là do nhiều


11
nguyên nhân gây ra, triết học luôn phản ánh những mặt khó và phức

tạp của mọi vấn đề trong cuộc sống. Vậy việc tìm hiểu rõ nội dung
của cặp phạm trù này đã ít nhiều giúp em lý giải được nhiều mặt khác
nhau của mọi vấn đề nói chung, cũng như việc áp dụng vào thực tiễn
ngành cà phê nói riêng.
Cám ơn sự ra đời của triết học, cám ơn sự trường tồn của nó đối với
lồi người. Và em cũng xin cám ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của các
thầy cô giáo cho em được hiểu thêm, biết thêm cách nhìn nhận cuộc
sống, giúp em có thể hồn thiện được bản thân mình hơn nữa.



×