Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

KẾT hôn TRÁI PHÁP LUẬT THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP báo cáo 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.78 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hôn nhân là tiền đề cho việc tạo lập một gia đình. Hiểu một cách sát thực nhất thì
hôn nhân được hình thành dựa trên tình cảm lứa đôi, hai bên nam nữ yêu thương lẫn nhau
và muốn cùng nhau “về một nhà”, cùng nhau xây dựng gia đình nhằm thỏa mãn những nhu
cầu tình cảm giữa hai cá nhân và tương trợ lẫn nhau về những nhu cầu vật chất trong đời
sống hằng ngày. Bằng việc đăng ký kết hôn, Nhà nước sẽ thừa nhận quan hệ hôn nhân,
đồng thời Nhà nước luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp
nhằm ổn định quan hệ này. Nhà nước ta đã xây dựng một hệ thống các quy phạm pháp luật
hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) nhằm điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ cho phù hợp với
tính chất, đặc điểm của xã hội Việt Nam và phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người
Việt Nam. Tại đó quy định về điều kiện kết hôn hợp pháp cũng như các hình thức kết hôn
trái pháp luật.
Quan hệ hôn nhân được hình thành do sự kết hôn và được biểu hiện là một quan hệ
xã hội gắn liền với nhân thân của mỗi bên nam, nữ, đó là quan hệ vợ chồng. Ngày nay,
cùng với sự phát triển của xã hội, những mối quan hệ cũng như những vấn đề về tâm sinh
lý của con người ngày càng trở nên phức tạp. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ
hôn nhân, gia đình, trong đó có việc kết hôn giữa hai bên. Điều kiện kết hôn được coi là
yếu tố cơ bản góp phần hình thành gia đình tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên do
một số điều kiện kinh tế - xã hội mà những điều kiện đó chưa tuân thủ triệt để gây ra hiện
tượng kết hôn trái pháp luật. Thực tế đã cho thấy, ngày càng có nhiều trường hợp kết hôn
trái pháp luật diễn ra quanh cuộc sống của chúng ta, gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu
cực đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đến lối sống đạo đức và xã hội,
đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của dân tộc.
Khi mà đời sống vật chất của con người ngày càng đầy đủ hơn thì cái người ta quan
tâm sau đó chính là yếu tố tinh thần. Là một cuộc sống văn minh, hiện đại. Cùng với sự
phát triển không ngừng của các lĩnh vực như văn hóa, công nghệ, khoa học kỹ thuật,.. thì
ngành luật ở Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện để phục vụ cuộc sống. Kết hôn trái
pháp luật vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể mà còn ảnh hưởng đến đạo đức và trật tự xã hội. Khi


thực tế xã hội phát sinh ngày càng nhiều, những quy định của pháp luật về vấn đề này
càng đáng quan tâm hơn thì việc


nghiên cứu nó là điều vô cùng cần thiết. Công trình nghiên cứu giúp cho mọi người có cái
nhìn tổng quát hơn về một vấn đề nóng bỏng của xã hội, dự liệu thêm các trường hợp phát
sinh, hoàn thiện hơn nữa cách khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm nhằm hướng
đến một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh hơn.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Như ta đã thấy, tình hình kết hôn trái pháp luật diễn ra ngày càng phổ biến. Đó là
một vấn đề nóng bỏng trong thực tiễn cuộc sống, một vấn đề đáng quan tâm trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 ban hành đến nay cũng có khá nhiều
công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu liên quan đến những nội dung thuộc phạm vi
của chế định kết hôn, hay xoay quanh vấn đề kết hôn trái pháp luật như: “Kết hôn trái
pháp luật do bị cưỡng ép hoặc lừa dối – căn cứ xác định và đường lối xử lý” được đăng
trên trang web luanvan.net, “Một số vấn đề lý luận và thực tiến về kết hôn trái pháp luật
trong tình hình xã hội hiện nay” – luận văn thạc sỹ luật Dân sự của Nguyễn Huyền Trang,
“Các điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam” – khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị
Hương, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái
pháp luật” được đăng trên trang web luanvan.co,...
Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu trên hay các công trình nghiên cứu cùng chủ
đề khác mà em được biết là một sự khai thác khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ
khác nhau. Do đó, với việc lựa chọn đề tài này, em muốn tổng kết lại những hiểu biết có
liên quan và tiếp cận vấn đề một cách tổng quát để người đọc có thể nhìn nhận vấn đề một
cách chi tiết nhất về lý luận và thực tiễn tình hình kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện
nay.
Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu


Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là:


- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề kết hôn trái pháp luật;
- Chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện việc
hủy kết hôn trái pháp luật;
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật của
Nhà nước về vấn đề kết hôn trái pháp luật và khắc phục hậu quả của kết hôn trái pháp
luật;...
• Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận kết hôn trái pháp luật như: Khái niệm
kết hôn hợp pháp, kết hôn trái pháp luật; các trường hợp kết hôn trái pháp luật;
những yếu tố tác động tới việc kết hôn trái pháp luật; hậu quả của việc kết hôn trái
pháp luật,...
- Đánh giá thực trạng tình hình kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn hiện
nay và việc áp dụng pháp luật trong việc xử lý các vi phạm;
- Đánh giá chung về nhu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật
HN&GĐ về kết hôn cũng như kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến nghị và đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về kết hôn trái pháp
luật, quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về kết hôn trái pháp luật (đặc biệt là
các quy định về kết hôn trái pháp luật trong Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật
HN&GĐ năm 2014), tình trạng kết hôn trái pháp luật trong những năm gần đây và
thực tiễn thực hiện việc xử lý kết hôn trái pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu những quy định trong
pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề kết hôn trái pháp luật dưới nhiều góc độ
khác nhau. Luận văn sẽ chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận xung quanh khái
niệm kết hôn trái pháp luật cũng như thực tiễn kết hôn trái pháp luật trong xã hội
hiện nay. Từ đó tìm ra những điểm bất cập và đưa ra các phương hướng giải quyết.

Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp liệt kê: Liệt kê các quy định của pháp luật quy định về vấn
đề kết hôn trái pháp luật qua các thời kỳ
- Phương pháp so sánh: So sánh sự khác nhau giữa các quy định của pháp
luật Việt nam qua từng thời kỳ
- Phương pháp phân tích: Phân tích chi tiết từng nội dung của vấn đề kết
hôn trái pháp luật, phân tích những điểm hợp lý và bất cập của pháp luật hiện hành
quy định về vấn đề này.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi nghiên cứu các vấn đề được triển khai và
đưa ra kết luận cho từng vấn đề.


Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu một cách toàn diện về
vấn đề kết hôn trái pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ đó, kết quả
nghiên cứu có thể góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn đề khoa học pháp lý
về chế định kết hôn nói riêng, pháp luật HN&GĐ nói chúng và làm phong phú thêm
kho tàng tri thức khoa học pháp lý.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, cho công tác
giảng dạy và học tập khoa học luật tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật,...
Kết cấu khóa luận
Khóa luận được trình bày gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Một số khái niệm chung về kết hôn trái pháp luật
Chương 2: Các trường hợp kết hôn trái pháp luật và hủy việc kết hôn trái
pháp luật
Chương 3: Thực trạng kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay và đề xuất
kiến nghị



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
Khái niệm, mục đích và bản chất của kết hôn
Khái niệm kết hôn
Nhìn từ góc độ xã hội học, từ xưa, khi mà chưa hình thành một quy tắc, một
quy định nào thì khái niệm kết hôn chưa từng được biết đến. Quan hệ giữa một
người đàn ông và một người đàn bà chỉ đơn thuần là quan hệ “tính giao”. Vì thế sự
liên kết giữa họ chỉ đơn thuần nhằm thỏa mãn những bản năng thuần túy. Quan hệ
này tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh
tồn, phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên ở họ lại không hề có bất kỳ một sự
ràng buộc, ngăn cách hoặc giới hạn nào. Họ tìm đến với nhau đơn giản bởi những
nhu cầu bản năng, đó chính là sự liên kết hoàn toàn tự nhiên. Tuy nhiên, trải qua các
giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì dần
dần sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà không còn chỉ là sự ràng buộc
đơn thuần bởi quan hệ tính giao mà là sự liên kết mang tính xã hội, thể hiện những
giá trị văn minh của con người trong mối liên hệ đặc biệt được gọi là “hôn nhân”.
Khi đó những quy tắc xã hội dần dần xuất hiện, khái niệm “hôn nhân” cũng bắt đầu
được biết đến. Dưới góc độ này, sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà
chính là sự liên kết đặc biệt nhằm tạo dựng các mối liên hệ gia đình. Trong mỗi chế
độ xã hội, gia đình đều thực hiện những chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của
nó. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là sinh sản nhằm tái sản xuất ra
con người, là quá trình tiếp tục nòi giống. Đó là một quá trình cần thiết của cuộc
sống trong một xã hội nhất định. “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái – đó là gia đình1. Trong đời sống
HN&GĐ, sự kiện xác lập quan hệ hôn nhân được gọi là “kết hôn”. Như vậy, việc
kết hôn đã tạo ra một sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ, tạo
thành quan hệ vợ chồng.
Trải qua các thời kỳ khác nhau, quan hệ hôn nhân trước hết được điều chỉnh

bởi những tập quán, những ước lệ, bắt đầu xuất hiện những quy định về cấm kết
hôn giữa những thế hệ trực hệ, giữa bố với con gái, mẹ và con trai, ông bà với cháu,
dần dần cấm kết hôn giữa cả những thế hệ bàng hệ, giữa anh chị em ruột với nhau.
1

Xem: C.Mác – Ph.Ăngghen toàn tập, tập III, “Hệ tư tưởng Đức”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.


Cho đến giai đoạn phồn thịnh của tôn giáo thì những trật tự tôn giáo do giáo chủ đặt
ra còn có sức mạnh cưỡng chế, áp đặt hơn nhiều so với các tập tục, ước lệ trước kia.
Dưới thời kỳ này, quan niệm về hôn nhân trái pháp luật chính là những quan hệ hôn
nhân không tuân thủ những trật tự tôn giáo của xã hội. Khi xã hội phát triển đến
thời kỳ phong kiến, hôn nhân mang tính chất dân sự, tức là sự bày tỏ ý chí của các
bên và kèm theo đó là những mục đích về kinh tế, chính trị nhất định. Pháp luật của
Nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây quy định việc kết hôn của nam nữ phải
có sự đồng ý của cha mẹ hoặc họ hàng thân thích. Như vậy, có thể nói rằng, trải qua
những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, những yếu tố về chính trị, kinh tế,
văn hóa đã dần được hình thành và tác động trực tiếp tới các quy luật tự nhiên, điều
chỉnh các mối quan hệ tự nhiên đó theo những chuẩn mực mà xã hội đặt ra vì mục
đích lợi ích của giai cấp thống trị. Hay nói cách khác “Hôn nhân là tiếng nói văn
hóa của con người can thiệp vào tự nhiên”2.
Khi xã hội loài người có sự xuất hiện của pháp luật thì quan hệ hôn nhân gia
đình từ một quan hệ tự nhiên mới chính thức được xem xét trên khía cạnh một quan
hệ pháp luật về hôn nhân gia đình. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm kết hôn được
xem xét với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý hoặc một chế định pháp lý, nhằm xác lập
quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn. Nếu như về mặt xã hội, lễ cưới là sự kiện đánh dấu sự chính
thức của hôn nhân thì về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn. Tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán cũng như truyền thống văn hóa, pháp
luật của mỗi quốc gia có những lựa chọn khác nhau về hình thức xác lập quan hệ vợ

chồng. Theo quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành, nghi thức duy
nhất có giá trị pháp lý là nghi thức đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
“Nhà nước bảo hộ HN&GĐ...” (Khoản 2 Điều 36 Hiến pháp năm 2013).
Chính vì hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội nên Nhà
nước ta luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp nhằm làm
ổn định quan hệ này bởi “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt3”. Để đảm bảo tạo ra những tế bào tốt, những gia đình ổn định, lành mạnh
thì trước hết ngay từ việc kết hôn của hai bên nam nữ đã phải tuân theo những điều
kiện nhất định, sao cho cuộc hôn nhân đó được xã hội và pháp luật công nhận. Vậy
2

Tham khảo: Ts.Đặng Thị Kim Oanh – Tiến sĩ ngành Dân tộc học Đh KHXH&NV Tp.HCM, “Đặc tính của
hôn nhân dưới góc nhìn nhân học”, Nguồn: />3
Xem: Lời nói đầu Luật HN&GĐ năm 2000


thế nào là kết hôn hợp pháp? Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, cụ
thể tại Khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về khái niệm kết hôn như
sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định
của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Hệ thống pháp luật HN&GĐ
quy định nam nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn được kết hôn
với nhau, ý chí và mong muốn đó được thể hiện bằng tờ khai của họ trong tờ khai
đăng ký kết hôn cũng như trước các cơ quan đăng ký kết hôn theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân chỉ được
Nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Như vậy, kết hôn theo quy định của pháp luật là căn cứ để Nhà nước thừa

nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người kết hôn.
Mục đích và bản chất của kết hôn
• Mục đích của kết hôn
Hôn nhân là phương thức để xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia
đình, nó vừa liên quan chặt chẽ tới toàn bộ hệ thống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp
thường xuyên đến cuộc sống của mỗi cá nhân, vừa là biểu hiện sinh động sắc thái
của văn hóa tộc người. Vì vậy, hôn nhân không chỉ là sự thừa nhận tính hợp pháp
của quan hệ giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa văn hóa – xã hội khác.
Trải qua những giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người, nhân loại
đã chứng kiến những bước tiến mới trong việc nhìn nhận mục đích của việc kết hôn.
Khi gia đình “một vợ - một chồng” xuất hiện, quan hệ giữa người đàn ông và người
đàn bà không chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu bản năng thuần túy nữa, mà đó là
sự liên kết đặc biệt nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, tạo lập gia đình – nền tảng cơ
bản của xã hội. Do đó, hôn nhân ở đây mang tính xã hội sâu sắc, người kết hôn là
những người trực tiếp đặt nền móng cho lịch sử phát triển của xã hội.
Theo pháp luật HN&GĐ hiện hành thì hôn nhân được hiểu là quan hệ vợ
chồng sau khi đã kết hôn. Hôn nhân đem lại những quyền lợi và trách nhiệm quan
trọng cho những người đã trở thành vợ hay chồng của nhau. Quyền và lợi ích của
họ luôn luôn được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, là một hành lang pháp lý an toàn
cho mục đích của cuộc hôn nhân. Đó chính là sự “bảo hộ” của Nhà nước đối với
quan hệ hôn nhân.


Ngày nay, cũng có nhiều quan niệm cho rằng mục đích của cuộc hôn nhân là
nhằm sinh con để duy trì nòi giống. Tuy nhiên, quyền kết hôn là quyền của mỗi cá
nhân, vì thế pháp luật quy định về quyền kết hôn trước hết phải xuất phát từ lợi ích
của người kết hôn. Hôn nhân đáp ứng được một trong những yêu cầu cơ bản của
nhân loại là tái sản xuất ra con người. Nhưng nếu như chỉ để sản sinh ra con người
thôi thì không cần kết hôn cũng vẫn thực hiện được, vợ chồng vẫn có thể không
sinh con mà chung sống hạnh phúc bên nhau. Vì vậy, lợi ích của bản thân người kết

hôn trước hết phải được bảo vệ, lợi ích của gia đình và xã hội chỉ được xem xét
trong sự hài hòa với lợi ích của cá nhân. Xác định rõ mục đích của việc kết hôn giúp
chúng ta có thể dự liệu các phương án điều chỉnh pháp luật nhằm bảo vệ quyền tự
do kết hôn của mỗi các nhân.
• Bản chất của kết hôn
“Người KẾT HÔN về cơ bản không phải để có con, vì không lấy vẫn có
được, không phải vì giải quyết nhu cầu sinh lý, vì không lấy vẫn có thể giải quyết…
mà con người kết hôn vì thấy HẠNH PHÚC khi ở với người kia.
Bản chất của hôn nhân là hướng đến hạnh phúc, tức hướng tới vấn đề tâm lý
của con người. Khi vấn đề cốt lõi này bị lung lay thì hôn nhân sẽ không đứng vững.
Khi người ta thấy không thể chia sẻ, thấy mất niềm tin, mất tự do quá mức, thấy
mình không còn là gì trong lòng người kia thì tâm lý nảy sinh cảm giác bất an, thất
vọng.
Nếu cố gắng mà không thể cải thiện thì chia tay nhau là lựa chọn sáng suốt.
LY HÔN là cách tốt nhất trong một cuộc hôn nhân không tốt. Chúng ta nên nhìn
nhận mặt tích cực của nó, và đừng nghĩ những người ly hôn đều là người không
tốt…”4.
Bất kỳ ai, dù là tổng thống hay thường dân, dù là người giàu hay người
nghèo, những ai đang trong một cuộc sống hôn nhân hay đang chuẩn bị bước vào
đó đều mong muốn cuộc sống hôn nhân của mình được hạnh phúc trọn vẹn. Về mặt
xã hôi, bản chất của việc kết hôn chính là thỏa mãn sự khao khát được gần nhau của
những đôi nam nữ yêu nhau, muốn cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình, chia sẻ ngọt
bùi, khó khăn, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Vậy về mặt khoa học pháp lý, hôn
nhân có bản chất như thế nào?
Theo như THS Nguyễn Hồng Hải – khoa luật Dân sự Đại học Quốc gia Hà
Nội chia sẻ trong bài viết “Một vài ý kiến về khái niệm và bản chất pháp lý của hôn
4

“Tổng thống Nga Putin nói về cuộc ly hôn của mình”, Nguồn: />


nhân” có phân tích về bản chất pháp lý của hôn nhân, tôi xin trích dẫn một số ý
chính như sau:
“Bản chất pháp lý của hôn nhân là một hợp đồng hay là một thiết chế pháp
luật hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Ở các nước theo theo hệ thống pháp luật common law (đặc biệt ở Mỹ) tồn tại
quan niệm phổ biến: hôn nhân là một loại hợp đồng dân sự bởi vì hôn nhân chính
là sự thoả thuận giữa người đàn ông và một người đàn bà để thiết lập một quan hệ
pháp lý và làm phát sinh và thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với nhau.
Ở các nước XHCN và Việt Nam quan niệm chính thống về mặt học lý cho
rằng: Hôn nhân không phải là một hợp đồng mà là một sự liên kết đặc biệt giữa
một người đàn ông và một người đàn bà. Sự liên kết này không phụ thuộc vào tính
toán vật chất, mà được dựa trên cơ sở tình yêu thương, quí trọng, bình đẳng và tự
nguyện giữa vợ và chồng. Ngoài ra, mục đích của hôn nhân là xây dựng mối quan
hệ bền vững, đảm bảo thoả mãn nhu cầu tinh thần và vật chất chất của đôi bên,
sinh đẻ và giáo dục con cái.
Theo chúng tôi, để xác định hôn nhân là một thiết chế pháp luật hay là một
hợp đồng dân sự, cần xem xét trên các khía cạnh sau:
* Thứ nhất, có sự khác nhau giữa mục đích giao kết hợp đồng và mục đích
kết hôn.
Theo pháp luật về hợp đồng, sự thoả thuận là yếu tố bắt buộc phải có trong
hợp đồng, tuy nhiên đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để hợp đồng có hiệu
lực. Để hợp đồng có hiệu lực, sự thoả thuận của các bên phải làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong hôn nhân có sự thoả thuận,
nhưng thoả thuận đó không phải là thoả thuận trong hợp đồng. Vì mục đích của các
bên kết hôn không phải để tạo lập, thay đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ dân sự nào,
mà chỉ mong muốn lập một gia đình.
* Thứ hai, pháp luật qui định về năng lực kết hôn khác với qui định về năng
lực giao kết hợp đồng.
Năng lực giao kết hợp đồng chủ yếu được xác định trên hai điều kiện: độ
tuổi (tuỳ theo từng loại hợp đồng mà pháp luật qui định các độ tuổi khác nhau) và

khả năng nhận thức của chủ thể. Còn năng lực kết hôn ngoài điều kiện độ tuổi và
năng lực nhận thức, còn được xác định trên các điều kiện khác không có trong pháp
luật về hợp đồng.
* Thứ ba, việc kết hôn được thực hiện theo những nghi thức đặc biệt không
có trong pháp luật về hợp đồng.


* Thứ tư, pháp luật qui định về huỷ kết hôn trái pháp luật khác với các quy
định về huỷ hợp đồng.
Căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật và căn cứ hủy hợp đồng là khác nhau.
Một hợp đồng bị huỷ khi có một trong hai căn cứ: Các bên vi phạm các điều kiện do
luật định hoặc các bên vi phạm điều kiện do thoả thuận. Còn việc kết hôn sẽ bị hủy
khi vi phạm một trong các điều kiện kết hôn theo luật định.
* Thứ năm, các quy định về chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn khác với quy
định về chấm dứt hợp đồng
Một hợp đồng có thể chấm dứt do các bên trong hợp đồng thoả thuận hoặc
do ý chí đơn phương của một bên, mà không cần có phán quyết của Toà án. Trong
khi đó, một quan hệ hôn nhân chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định của Toà án xử
cho ly hôn hoặc công nhận thuận tình ly hôn.
Với những điểm khác biệt cơ bản nói trên, theo chúng tôi, không thể đồng
nhất hôn nhân với hợp đồng dân sự, mà nên xác định nó là một thiết chế pháp luật
thì phù hợp với thực tiễn và lý luận hơn”5.
Từ những gì phân tích ở trên, ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất pháp lý của
hôn nhân. Từ đó hướng đến việc xây dựng pháp luật hôn nhân gia đình một cách
hoàn thiện hơn.
Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Định nghĩa
Kết hôn trái pháp luật là một khái niệm pháp lý được pháp luật quy định và
điều chỉnh bởi Luật HN&GĐ. Kết hôn trái pháp luật cũng giống như vấn đề kết
hôn, nó đều chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội...

Tùy vào mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại, tùy vào điều kiện
sống, yếu tố xã hội, con người hay cách nhìn nhận vấn đề của mỗi quốc gia là khác
nhau mà vấn đề kết hôn trái pháp luật được hiểu dưới những góc độ khác nhau.
Trong xã hội phong kiến, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc
hôn nhân không tuân thủ các điều kiện kết hôn như: không môn đăng hộ đối, những
quan hệ hôn nhân không được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng,... Những quy định
này thể hiện rất rõ trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long của nước ta.

5

Ths.Nguyễn Hồng Hải – khoa Luật Dân sự Đại học Quốc gia Hà Nội, “Một vài ý kiến và bản chất pháp lý
của hôn nhân”, Nguồn: />

Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 có giải thích: “Kết hôn trái pháp
luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng
một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của
Luật này”. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ các điều kiện được pháp luật
quy định, không vi phạm các trường hợp cấm thì hôn nhân mới được coi là hợp
pháp, cụ thể là không vi phạm điều kiện về độ tuổi, về ý chí, người kết hôn không bị
mất năng lực hành vi dân sự hay không được kết hôn trong những trường hợp mà
pháp luật cấm kết hôn. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi tuân thủ các điều kiện kết hôn,
thì cuộc hôn nhân mới có giá trị pháp lý, giữa các bên mới phát sinh và tồn tại quan
hệ vợ chồng đúng nghĩa.
Các yếu tố dẫn đến việc kết hôn trái pháp luật


Kinh tế - xã hội

Kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mối
quan hệ trong xã hội, nó chi phối cả quan hệ hôn nhân gia đình. Nền kinh tế ngày

càng phát triển, đó là một điểm đáng mừng đối với các quốc gia, tuy nhiên mặt trái
của nền kinh tế thị trường đã tác động tới lối sống của một bộ phận không nhỏ nam
nữ thanh niên tạo ra những thay đổi đáng kể trong quan niệm về tình yêu và hôn
nhân. Vì vậy, tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng có chiều hướng gia tăng.
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng thể hiện ở nhiều dạng thức khác nhau đã tạo
ra những hiệu ứng không tốt ảnh hưởng tới đời sống HN&GĐ.
Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển cũng hình thành ở nhiều người tư tưởng
đặt mục đích của đồng tiền lên trên hết. Việc kết hôn mang nặng mục đích kinh tế
xảy ra ngày càng nhiều, đặc biệt giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, phổ
biến là với nam giới Hàn Quốc, Đài Loan... với mong muốn có thể đổi đời sau khi
lấy chồng “Tây”, điều đó đang làm mờ nhạt đi chức năng của gia đình. Những cuộc
hôn nhân chỉ vì mục đích kinh tế, không nhằm mục đích xây dựng gia đình chính là
hành vi kết hôn giả tạo. Vì thế, những cuộc hôn nhân không hạnh phúc và tỉ lệ ly
hôn ngày càng gia tăng. Với những lý do, những mục đích khác nhau mà nhiều
người có thể coi nhẹ giá trị của gia đình, của hôn nhân, dẫn đến việc vi phạm những
quy định về hôn nhân hợp pháp là điều không thể tránh khỏi.
• Do ảnh hưởng của phong tục, tập quán lạc hậu
Pháp luật HN&GĐ nói chung, pháp luật về kết hôn nói riêng chịu sự tác
động sâu sắc bởi phong tục, tập quán. Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp
được luật hóa thành những quy phạm, pháp luật điều chỉnh việc kết hôn như các
quy định về cấm kết hôn thể hiện việc gìn giữ thuần phong, mỹ tục của người Việt


Nam về việc tôn trọng trật tự, thứ bậc trong gia đình có ý nghĩa sâu sắc đối với việc
lưu giữ những giá trị truyền thống trong gia đình Việt Nam. Cũng có những phong
tục, tập quán lạc hậu còn được lưu giữ đến ngày nay, đặc biệt là ở các vùng dân tộc
thiểu số gây ảnh hưởng trật tự xã hội, dẫn đến gia tăng việc kết hôn trái pháp luật
như tục “cướp vợ, bắt chồng” của người dân tộc H’Mông, tục tảo hôn, tập tục về
“hôn nhân cận huyết”... Đây đều là những tập tục làm giảm tính thực thi của pháp
luật khi mà “phép vua thua hủ tục”. Những quan niệm cổ hủ dường như đã ăn sâu

vào trong nhận thức của người dân, do đó việc tuyên truyền phổ biến pháp luật để
cho họ hiểu là rất khó để có kết quả. Những cuộc hôn nhân trái pháp luật do ảnh
hưởng của phong tục, tập quán lạc hậu là vấn đề nhức nhối ở nhiều vùng dân tộc
thiểu số đang được xã hội quan tâm. Vì vậy, để đảm bảo nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật, giảm thiểu tình trạng kết hôn trái pháp luật, góp phần xây dựng gia đình
Việt Nam phồn thịnh thì cần phải loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về
HN&GĐ khỏi đời sống xã hội.
• Trình độ nhận thức kém, thiếu hiểu biết về hôn nhân gia đình
Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc vào Nam với diện tích đồi núi chiếm ¾
diện tích lãnh thổ. Với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, khó tránh khỏi sự chênh
lệch về văn hóa và trình độ phát triển ở từng địa phương. Trong khi ở các tỉnh đồng
bằng, các thành phố lớn được tiếp xúc với nhiều phương tiện truyền thông đại
chúng, báo đài, mạng Internet...về kiến thức hôn nhân gia đình thì ở những tỉnh
miền núi hẻo lảnh, các vùng cao do điều kiện vất chất thiếu thốn, trình độ dân trí
còn thấp, ít được tiếp xúc với những nguồn thông tin nên kém hiểu biết về pháp luật
hôn nhân gia đình. Vấn đề cưới xin ở nhiều nơi hầu hết dựa vào phong tục, tập quán
từ xa xưa. Có nhiều trường hợp người dân chỉ làm đám cưới ở bản làng chứ không
đăng ký kết hôn. Do không biết pháp luật quy đinh gì, điều kiện để được kết hôn
như thế nào nên ắt hẳn việc vi phạm quy định về điều kiện kết hôn là điều không thể
tránh khỏi.
Bên cạnh đó, nhiều gia đình Việt Nam vẫn còn có những suy nghĩ cổ hủ,
muốn có con trai để nối dõi tông đường nên thường vi phạm nguyên tắc hôn nhân
một vợ một chồng. Quan niệm “phải có con trai” đã ăn sâu, bén rễ trong nhiều thế
hệ gia đình Việt nên không dễ dàng thay đổi được. Nhiều bi kịch gia đình xảy ra khi
vợ không đẻ được con trai, chồng quyết định lấy vợ hai, hay chính người vợ tổ chức
cưới vợ bé cho chồng. Trong những trường hợp này, người vợ dù không có lỗi
nhưng nhiều người đành chấp nhận cay đắng để gia đình không tan vỡ. Chính
những suy nghĩ cổ hũ đó đã đẩy đến tình trạng kết hôn vi phạm điều cấm của pháp



luật là vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật HN&GĐ
bảo vệ.


Hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một xu thế toàn cầu, biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau
như liên kết tiểu khu vực, liên kết khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình
diện song phương hoặc đa phương. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở
rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế giúp mở rộng thị
trường thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập quốc tế cũng tác động khá mạnh
mẽ tới văn hóa truyền thống, tới các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân
gia đình nói riêng. Trong quá trình giao lưu, hội nhập đã tạo ra những xu thế mới
trong giới trẻ như: chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, kết hôn
đồng giới hay hôn nhân vi phạm chế độ một vợ một chồng. Ở Việt Nam không thừa
nhận những quan hệ hôn nhân nói trên nhưng tại một số quốc gia trên thế giới thì
điều đó lại được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Do đó, hội nhập quốc tế đặt ra nhiều
thách thức và đi kèm theo đó cũng có nhiều điểm bất lợi. Một trong những điểm bất
lợi đó chính là do ảnh hưởng tư tưởng của một số quốc gia khác mà dẫn đến việc vi
phạm điều kiện về kết hôn.
Hậu quả của việc kết hôn trái pháp luật


Hậu quả về mặt pháp lý

Trước hết, xét về mặt pháp lý thì kết hôn trái pháp luật xâm phạm đến quyền
và lợi ích chính đáng của công dân. Mỗi người dân đều có nhu cầu hạnh phúc cho
mình, được pháp luật bảo vệ, vậy mà hành vi kết hôn trái pháp luật đã đẩy họ vào
tình trạng quyền và lợi ích bị xâm phạm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Quyền

lợi đó có thể về nhân thân, tài sản hay con cái. Những người kết hôn trái pháp luật
sẽ không được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích như trong trường hợp kết hôn hợp
pháp. Những hành vi kết hôn trái pháp luật còn vi phạm những quy định của pháp
luật liên quan đến việc bảo vệ trẻ em, thậm chí có thể phạm vào một số tội được quy
định trong Bộ luật Hình sự như tội Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước cũng ảnh hưởng
nghiêm trọng. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn không có đăng ký kết
hôn khiến cho các cơ quan Nhà nước khó có thể nắm bắt vấn đề liên quan đến hộ
tịch, khai sinh hay giải quyết những tranh chấp khác.
• Hậu quả về mặt xã hội


Quan hệ hôn nhân vốn là một quan hệ xã hội, chính vì vậy, những hành vi
kết hôn trái pháp luật dẫn đến những cuộc hôn nhân bất hợp pháp không chỉ gây ra
những hậu quả về mặt pháp lý mà còn ảnh hưởng đến xã hội một cách nặng nề. Kết
hôn trái pháp luật vi phạm điều kiện kết hôn – là nền tảng cơ bản để xây dựng nên
một gia đình hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên các nhà làm luật lại nêu ra những
điều kiện kết hôn đó, mà đó chính là cả một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu qua thực
tiễn. Kết hôn trái pháp luật không thể tạo ra những gia đình hạnh phúc, lành mạnh,
gây ảnh hưởng đến thuần phong, mỹ tục – nét đẹp truyền thống trong gia đình Việt
Nam từ ngàn đời nay, đồng thời nó còn làm suy giảm giống nòi, ảnh hưởng đến
chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của đất nước. Tình trạng tảo hôn và hôn
nhân cận huyết ở các tỉnh miền núi đã gióng lên những hồi chuông báo động cần
phải ngăn chặn kịp thời. Việc trẻ em được sinh ra từ những ông bố, bà mẹ có tuổi
đời còn quá trẻ hay có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời có thể
khi sinh con ra mắc các bệnh về máu, dị tật bẩm sinh... là gánh nặng cho nền kinh
tế. Đất nước ta còn nghèo nên việc giải quyết các vấn đề về phúc lợi và an sinh xã
hôi gặp không ít khó khăn. Vì thế, để đảm bảo cho sự phát triển chung của xã hội,
một gia đình được hình thành và tồn tại để thực hiện tốt những chức năng của nó
phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu của hai bên nam nữ, sự yêu thương, gắn kết

và tự nguyện chung sống và phải được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Có như thế mới
tạo được nền tảng gia đình vững chắc, xã hội mới phát triển bởi gia đình là tế bào
của xã hội, gia đình có tốt thì xã hội mới tốt.
Pháp luật Việt Nam về kết hôn trái pháp luật qua từng giai đoạn phát triển
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945
• Quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Trong lịch sử lập pháp của Việt Nam không thể không nhắc đến sự đóng góp
to lớn của hai bộ Quốc triều Hình Luật (QTHL) hay còn gọi Luật Hồng Đức và
Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL), còn gọi là Luật Gia Long. Đó là những chuẩn mực
pháp lý được vua chúa đặt ra trong thời kỳ phong kiến nhằm điều chỉnh những mối
quan hệ cả về hình sự, dân sự phát sinh trong đời sống xã hội. Cả hai bộ luật này
đều có những điểm tương đồng trong các quy định về điều kiện kết hôn. QTHL và
HVLL đều quy định việc kết hôn phải có sự ưng thuận của cha mẹ hoặc các bậc tôn
thuộc. Do đó, nếu như việc kết hôn mà không có sự ưng thuận của cha mẹ hoặc các
bậc tôn thuộc hay vi phạm điều cấm thì đó chính là kết hôn trái pháp luật. QTHL


quy định cấm kết hôn trong thời kỳ tang chế, cấm kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm
tù tội (Điều 317 - 318). Bên cạnh đó các quy định về điều cấm kết hôn còn thể hiện
rõ việc bảo vệ các giá trị truyền thống, đạo đức của người Việt Nam, đó là: cấm lấy
cô, dì, chị, em gái, kế nữ (con gái riêng của vợ, người thân thích), cấm lấy vợ của
anh, em, của thầy học đã chết (Điều 324). QTHL còn quy định cấm các quan và
thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ (Điều 323). Ngoài những điểm tương
đồng trong quy định về điều kiện kết hôn so với QTHL, HVLL còn quy định về
việc cấm lừa dối trong hôn nhân.
Trong thời kỳ này, nếu nam nữ kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn thì đó là
kết hôn trái pháp luật và bị xử lý rất nặng, có thể xử phạt bằng trượng, xử biếm, xử
đồ... Như vậy, việc bảo vệ các giá trị đạo đức, phong tục, tập quán trong lĩnh vực
HN&GĐ cũng như trật tự đẳng cấp xã hội trong thời kỳ này được đề cao.

• Quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc
Trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp áp dụng chính sách “chia để trị”
nên đã chia cắt nước ta thành ba miền Bắc, Trung, Nam. Theo đó, tại mỗi miền
chúng lại đặt ra những chính sách cai trị khác nhau. Tương ứng với hoàn cảnh lịch
sử lúc đó là sự ra đời của ba Bộ luật điều chỉnh về vấn đề dân sự, HN&GĐ. Đó là
Bộ Dân luật Bắc Kỳ (DLBK) năm 1931 áp dụng tại miền Bắc, Bộ Dân luật Trung
Kỳ năm 1936 áp dụng tại miền Trung và Bộ Dân luật Giản Yếu Nam Kỳ (DLGY)
áp dụng tại miền Nam.
Theo quy định tại Bộ DLBK và DLTK thì có một điểm chung là đều quy
định tuổi kết hôn của nam là đầy mười tám tuổi và nữ là đầy mười lăm tuổi. Trong
khi đó, Bộ DLGY lại quy định tuổi kết hôn của nữ ít nhất là đầy mười bốn tuổi,
nam ít nhất là đầy mười sáu tuổi. Như vậy, so với thời kỳ phong kiến, tuổi kết hôn
theo pháp luật thời kỳ Pháp thuộc đã có những chuyển biến nhất định, tuổi kết hôn
dần được tăng lên là dấu hiệu thể hiện điểm tiến bộ đáng kể trong việc điều chỉnh
pháp luật về kết hôn hướng tới việc bảo vệ quyền tự do kết hôn đối với mỗi cá nhân.
Tiếp nhận những giá trị trong cổ luật Việt Nam thì cả ba Bộ luật đều quy định việc
kết hôn phải có sự ưng thuận của cha mẹ. Tuy nhiên nếu có lý do chính đáng, các
tỉnh trưởng có quyền miễn cho các người con thành niên khỏi phải có sự ưng thuận
của cha mẹ (Bộ DLBK và Bộ DLTK quy định điều này). Bộ DLGY có điểm tiến bộ
vượt xa so với quy định của pháp luật phong kiến khi trao cho người kết hôn quyền
được phép ưng thuận. Bộ DLBK và DLTK quy định điều kiện khi cưới là không
được mắc bệnh điên cuồng hoặc vô tri thức, nếu không giá thú vô hiệu (Điều 84).


“Khi một bên vì lầm hay bị cưỡng ép thì có thể tố cáo được” (Điều 86 DLBK). Điều
đó thể hiện sự quan tâm đến quyền của cá nhân dần dần được thừa nhận và bảo vệ.
Quy đinh về điều cấm nhằm bảo vệ trật tự đẳng cấp của thời kỳ phong kiến
được loại bỏ. Việc xử lý vi phạm các điều kiện kết hôn không còn quy định hình
phạt như trong pháp luật phong kiến nữa mà tùy từng trường hợp vi phạm thì có thể

coi hôn nhân là vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối.
Như vậy, quy định của pháp luật thời kỳ này về kết hôn trái pháp luật nói
riêng và chế độ HN&GĐ nói chung là công cụ pháp lý của Nhà nước thực dân
phong kiến ban hành dựa trên những phong tục tập quán của xã hội phong kiến Việt
Nam và phỏng theo Bộ dân luật Pháp (1804) với quan điểm thuần túy coi các quan
hệ HN&GĐ là một chế định do dân luật điều chỉnh.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1975
• Quy định về kết hôn trái pháp luật từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
năm 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một mốc quan trọng
trong lịch sử dân tộc, nước Việt Nam dân chủ ra đời. Trong những năm đầu (1945 –
1950), Nhà nước ta quy định vẫn cho phép vận dụng những quy định trong pháp
luật cũ có chọn lọc, theo nguyên tắc không trái với lợi ích của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động (theo Sắc lệnh số 90 – SL ngày
10/10/1945 của Chủ Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa). Năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước độc lập được ban hành, đánh dấu một bước ngoặt mới
trong lịch sử lập pháp của Nhà nước Việt Nam. Bản Hiến pháp là cơ sở pháp lý
quan trọng để Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật, điều chỉnh những quan
hệ xã hội, trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành hai
Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, đó là: Sắc lệnh số 97 – SL ngày
22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159 –
SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Sắc lệnh số 97 – SL đã có những
tiến bộ vượt bậc về điều kiện kết hôn như xóa bỏ việc cấm kết hôn trong thời kỳ có
tang (Điều 3) và cho phép người kết hôn được tự nguyện kết hôn không cần có sự
băng lòng của cha mẹ “Người con đã thành niên không bắt buộc phải có cha mẹ
bằng lòng mới được kết hôn” (Điều 2). Với quy định này, bước đầu đã tạo ra những
hiệu ứng vô cùng tích cực cho việc xây dựng đời sống HN&GĐ mới, tạo nền tảng
tiến tới xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ.
• Quy định về kết hôn trái pháp luật từ năm 1954 đến năm 1975



Mặc dù Cách mạng tháng Tám đã thành công, tuy nhiên trên thực tế hòa bình
mới chỉ được lập lại ở miền Bắc Việt Nam, miền Nam vẫn chịu sự áp bức, bóc lột
của đế quốc Mỹ, Việt Nam vẫn chia cắt hai miền. Do đây là giai đoạn khá đặc thù,
tình hình xã hội đòi hỏi cần phải xóa bỏ triệt để những tàn tích lạc hậu của chế độ
HN&GĐ phong kiến, xây dựng chế độ HN&GĐ xã hội chủ nghĩa. Luật HN&GĐ
năm 1959 ra đời đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình xã hội bấy giờ. Luật này
ghi nhận quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng nam nữ trong đời sống HN&GĐ.
Theo đó, Luật này quy định về điều kiện kết hôn như sau: “Con gái từ 18 tuổi trở
lê, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn” (Điều 6). Đồng thời, ghi nhận sự tự
nguyện kết hôn cho hai bên nam nữ (Điều 4). Quy định về điều cấm kết hôn, Luật
HN&GĐ năm 1959 cấm các hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự
do (Điều 3), cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác (Điều 5), cấm
kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa cha mẹ nuôi với con
nuôi, giữa anh chị em ruột, giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác
cha với nhau... (Điều 9). Luật còn quy định cấm kết hôn với những người bất lực
hoàn toàn về sinh lý, mắc một trong các bênh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa
khỏi (Điều 10). Mặc dù, pháp luật HN&GĐ thời bấy giờ chưa quy định thế nào là
kết hôn trái pháp luật, tuy nhiên, căn cứ vào các điều kiện kết hôn ta có thể hiểu vi
phạm các điều kiện về kết hôn hoặc kết hôn vi phạm điều cấm chính là kết hôn trái
pháp luật trong thời bấy giờ.
Tuy nhiên, ở miền Nam lại có hệ thống pháp luật riêng điều chỉnh quan hệ
HN&GĐ, từ năm 1954 đến năm 1975, pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ
tập trung trong ba văn bản pháp luật là: Luật Gia đình năm 1959, Sắc lệnh số 15/64
và Bộ dân luật năm 1972. Luật Gia đình năm 1959 quy định độ tuổi kết hôn là nữ từ
đủ 15 tuổi và nam từ đủ 18 tuổi (Điều 6). Bộ dân luật năm 1972 và Sắc lệnh số
15/64 đều quy định độ tuổi kết hôn của nữ là từ đủ 16 tuổi và nam là từ đủ 18 tuổi.
Về sự tự nguyện trong việc kết hôn, cả ba bộ luật này đều ghi nhận hôn nhân chỉ có
giá trị khi có sự ưng thuận của người kết hôn. Các quy định về cấm kết hôn được

mở rộng hơn so với Bộ dân luật thời Pháp thuộc. Theo Bộ dân luật năm 1972,
những người không có mối liên hệ về huyết thống nhưng vì lý do đạo đức, họ vẫn bị
cấm kết hôn, cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng như với ti thuộc trực
hệ của người này, giữa cha mẹ nuôi với người phối ngẫu của người con nuôi, giữa
những người con nuôi với con của người đứng nuôi (Điều 111), tuy nhiên nếu có lý
do trọng đại thì nguyên thủ quốc gia có thể đặc cách cho phép kết hôn trong một số
trường hợp. Bộ dân luật năm 1972 còn quy định người đàn bà ly hôn chỉ có thể tái
giá sau khi hết hạn 300 ngày kể từ ngày có án ly hôn (Điều 107). Quy định này là


giải pháp hạn chế tranh chấp trong việc xác định cha cho con. Pháp luật thời kỳ này
quy định trường hợp kết hôn vi phạm quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
thì hôn nhân bị coi là vô hiệu.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1975
đến nay
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(30/4/1975), cả nước thống nhất, đất nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn
phát triển đất nước. Quá trình thực hiện Luật HN&GĐ năm 1959 đã đạt được những
thành tựu to lớn, góp phần loại bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ HN&GĐ
phong kiến, tuy nhiên việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959 không còn phù hợp
với tình hình xã hội bây giờ. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của
Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 được ra đời đã khắc phục được
những hạn chế không còn phù hợp của luật cũ, thay thế bằng những quy định mới
theo hướng chặt chẽ và hoàn thiện hơn.
Các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 1986 về cơ bản
vẫn giống như Luật HN&GĐ năm 1959 nhưng có những sửa đổi phù hợp hơn. Diện
cấm kết hôn được quy định theo hướng thu hẹp hơn. Nhận thức được bản chất của
việc kết hôn và vấn đề sinh lý, bệnh tật không ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình
nên Luật HN&GĐ năm 1986 không còn cấm kết hôn đối với người bất lực hoàn
toàn về tâm lý hay người mắc bệnh hủi nữa. Điều đó hướng đến một suy nghĩ tích

hơn hơn trong xã hội, làm cho những người bệnh hay bị bất lực về sinh lý có thể
hòa nhập hơn với xã hội, có mưu cầu hạnh phúc riêng của mình trong hôn nhân.
Đây cũng là một bước tiến tuy nhỏ nhưng quan trọng trong việc đảm bảo được nhân
quyền. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của chế độ xã hội qua từng thời kỳ, cộng
với Hội nhập quốc tế sâu rộng thì sau hơn 10 năm áp dụng, Luật HN&GĐ năm
1986 đã bộc lộ những điểm không phù hợp với tình hình xã hội thời bấy giờ. Trong
bối cảnh đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7
thông qua vào ngày 9/6/2000, có hiệu lực từ ngày 1/1/2001 thay thế Luật HN&GĐ
năm 1986. Luật HN&GĐ năm 2000 đã một bước phát triển vượt bậc so với Luật
HN&GĐ năm 1986, đã nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với
HN&GĐ nhằm bảo vệ quyền tự do kết hôn của mỗi cá nhân, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của những người có liên quan, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc.
Các quy định về điều kiện kết hôn và điều cấm kết hôn về cơ bản vẫn xây dựng dựa
trên tinh thần một số điều của Luật HN&GĐ năm 1986, tuy nhiên được sắp xếp
khoa học hơn và phù hợp hơn với tình hình xã hội hiện tại. Theo đó, Luật HN&GĐ


năm 2000 vẫn quy định độ tuổi kết hôn là nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi
trở lên. Đối với trường hợp người bị mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận
thức hành vi của mình, Luật HN&GĐ năm 2000 đã thay đổi nội dung và quy định
theo hướng mở rộng hơn, đó là những người bị mất năng lực hành vi dân sự thì cấm
kết hôn, mắc bệnh hoa liễu cũng không còn là điều cấm kết hôn nữa. Tuy nhiên, vì
tôn trọng giá trị đạo đức, Luật còn cấm kết hôn với những người đã từng là cha mẹ
nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng
của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Đặc biệt là quy định mới mẻ về việc cấm
kết hôn giữa những người cùng giới tính. Dưới khía cạnh xã hội, việc xác lập quan
hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính không phù hợp với đạo đức, phong
tục tập quán của người Việt Nam. Pháp luật xuất phát từ cuộc sống, con người thì
không thể đi trái với quy luật của tự nhiên được, trên cơ sở đó Luật HN&GĐ năm
2000 đã quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Tuy nhiên, vài năm

gần đây chuyện hôn nhân đồng giới lại nóng lên với nhiều quan điểm trái chiều, khi
trên thế giới đã có những quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận hôn nhân đồng giới.
Vì thế bảo vệ quyền của người “đồng tính”, “song tính”, “chuyển giới” (viết tắt là
LGBT6) trở thành những vấn đề hết sức nhạy cảm.
Hiến pháp năm 2013 được ban hành thể hiện nhiều nội dung mang tính đột
phá trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người cũng như tiếp tục khẳng định
tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát triển chung của xã hội. Cùng với đó,
Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời với những quy định chặt chẽ hơn thay thế Luật
HN&GĐ năm 2000. Quy định về kết hôn trái pháp luật trong Luật HN&GĐ năm
2014 được phân tích cụ thể trong Chương 2 của luận văn. Có thể nói, Luật HN&GĐ
năm 2014 đã có những bước tiến mạnh mẽ mang tính đột phá và chú trọng hơn đến
quyền tự do của con người, thể hiện được tinh thần của Hiến pháp nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

6

LGBT là tên viết tắt của Cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam
(Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và Hoán tính hay còn gọi là Người chuyển giới


1.4. Các trường hợp kết hôn trái pháp luật
1.4.1 Kết hôn vi phạm độ tuổi kết hôn
Độ tuổi là một trong những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2014 với nội dung như sau: “Nam, nữ kết hôn với nhau
phải tuân theo các điều kiện sau đây: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi
trở lên”. Đây là tuổi tối thiểu cho phép nam nữ kết hôn. Khi đến tuổi luật định, nam
nữ kết hôn vào tuổi nào là tùy theo hoàn cảnh công tác, điều kiện sinh hoạt và sở
thích của mỗi người.
Luật HN&GĐ quy định tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý
của con người, căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hôi ở nước ta. Một trong những

chức năng của gia đình đó là chức năng sinh đẻ nhằm duy trì và phát triển nòi
giống. Theo kết quả nghiên cứu của nền y học hiện đại thì nam, nữ phải ở một độ
tuổi nhất định thì con sinh ra mới được khỏe mạnh, nòi giống mới phát triển lạnh
mạnh, đó là ở độ tuổi nam từ 18 tuổi trở lên, nữ từ khoảng 17 tuổi trở lên. Đồng thời
căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người, khi nam nữ đạt tuổi trưởng
thành sẽ có những suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình.
Đó là một trong những yếu tố đảm bảo cho quan hệ hôn nhân có thể tồn tại bền
vững. Do đó, Luật HN&GĐ quy định độ tuổi kết hôn cho cả nam và nữ là thể hiện
sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của nam nữ, đảm bảo cho nam nữ có
thể đảm đương được trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ và con cái
sinh ra được khỏe mạnh cả về thể lực lẫn trí tuệ, tạo điều kiện cho việc xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Theo Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP thì “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam đã đủ
hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng,
năm sinh.Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như
sau: a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì
tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh; b) Nếu xác định được năm
sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định


là ngày mùng một của tháng sinh. Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 0801-2015 chị B đăng ký kết hôn với anh A tại Ủy ban nhân dân xã X. Tại thời điểm
đăng ký kết hôn chị B chưa đủ 18 tuổi (ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015),
như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
thì chị B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân
và gia đình đã có hiệu lực (ngày 01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về
tuổi kết hôn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định độ tuổi kết hôn tăng hơn so với Luật
HN&GĐ năm 2000 và so với hơn 50 năm trước, khi mà Luật HN&GĐ năm 1959
có hiệu lực pháp luật (13/01/1960) thì đều giữ độ tuổi kết hôn ở nam là từ 20 tuổi,

nữ từ 18 tuổi, nghĩa là nam chỉ cần bước sang tuổi 20 (19 tuổi 1 ngày), nữ bước
sang tuổi 18 (17 tuổi 1 ngày). Đây là một bước tiến trong pháp luật hôn nhân gia
đình Việt Nam bởi sự đột phá, dám bước qua những quy định được áp dụng hơn 50
năm tại Việt Nam đã được thực hiện như một tập quán, mục đích muốn nam nữ có
thể trưởng thành hơn, suy nghĩ chín chắn hơn để bước vào cuộc sống hôn nhân,
nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc trong xã hội hiện nay.
So sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới, quy định về tuổi kết hôn
theo Luật HN&GĐ Việt Nam có những điểm khác biệt nhất định. Hầu hết các nước
phương Tây quy định tuổi kết hôn của nam và nữ thấp hơn so với Việt Nam. Dao
động trung bình ở khoảng cách hai tuổi, nữ 16 tuổi và nam 18 tuổi được phép kết
hôn nếu được sự đồng ý của cha mẹ hoặc Tòa án như Đức, Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Anh... Một số nước cho phép người chưa thành niên kết hôn nhưng
cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp như Nhật Bản,
Campuchia, Liên bang Nga và hầu hết các bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Đặc
biệt, có nước quy định tuổi kết hôn theo nguyên tắc chỉ có người thành niên 7 mới
được kết hôn. Ví dụ như Luật Hôn nhân Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định
tuổi kết hôn của nam là từ đủ 22 tuổi và nữ từ đủ 20 tuổi. Như vậy, quy định về tuổi
kết hôn trong pháp luật của mỗi quốc gia đều xuất pháp từ tình hình thực tế của mỗi
quốc gia, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia đó.
Tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam được xây dựng
dựa trên các cơ sở khoa học có tính đến phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống,
văn hóa của người Việt. Ngày nay xã hội đã có những bước phát triển lớn, cách
nhìn nhận của con người về hôn nhân gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều, hiện
7

Trên thế giới, các nước có quy định về độ tuổi thanh niên khác nhau: nhiều nước quy định từ 18 – 24 tuổi
hoặc 15 – 24 tuổi, một số nước quy định từ 15 – 30 tuổi, theo: Từ điển Wikipedia, nguồn:
/>

tượng vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền

núi, thiểu số. Và đường lối xử lý của Nhà nước cũng hết sức mềm dẻo, có thể căn
cứ vào tình trạng thực tế của cuộc hôn nhân mà có trường hợp xử hủy kết hôn trái
pháp luật, có trường hợp không hủy kết hôn, nhằm hạn chế một phần thiệt hại về
tinh thần lẫn vật chất của con người mà hậu quả của việc kết hôn trái pháp luật để
lại.
1.4.2. Kết hôn vi phạm về sự tự nguyện
Điểm b Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Việc kết hôn do
nam và nữ tự nguyện quyết định”.
Điều 39 Bộ luật sân sự năm 2005 cũng quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật về HN&GĐ có quyền tự do kết hôn”.
Tự nguyện trong việc kết hôn là hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết
hôn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau, xuất phát từ tình
yêu thương giữa họ nhằm mục đích cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của
các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại
lâu dài và bền vững.
Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên nam nữ
là nhằm đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn. Để đảm
bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, những người muốn kết hôn phải cùng có mặt
tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn, pháp luật không cho phép
cử người đại diện trong việc đăng ký kết hôn, và cũng không cho phép những người
kết hôn vắng mặt tại lễ đăng ký kết hôn. Trong thực tiễn, hiện tượng kết hôn thiếu
sự tự nguyện của nam nữ vẫn xảy ra, chủ yếu ở những gia đình có địa vị thấp kém
trong xã hội hay ở một số vùng dân tộc miền núi, điển hình như tục cướp vợ của
người H’mông. Hiện tượng này đã gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và quyền lợi
của những người kết hôn, gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Nhà nước đã thể
hiện thái độ dứt khoát, xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm điều kiện
về sự tự nguyện khi kết hôn.
1.4.3. Kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự
Pháp luật hôn nhân gia đình quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của
hai bên nam nữ. Do đó, đối với những người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác

mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và bị tòa án tuyên
bố là mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật không cho phép họ kết hôn, hay nói
cách khác là nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo điều kiện sau “Không bị mất


năng lực hành vi dân sự” (điểm c Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014). Như
vậy, chỉ khi có quyết đinh của Tòa án tuyên bố người đó là mất năng lực hành vi
dân sự thì người đó mới không được kết hôn, hay người khác không được kết hôn
với họ. Đối với pháp luật của nhiều quốc gia khác, người mất năng lực hành vi
không mất năng lực pháp luật kết hôn, luật của Pháp thừa nhận rằng người mất năng
lực hành vi vẫn có thể kết hôn một khi có ý kiến thuận lợi của bác sỹ điều trị và sự
cho phép của gia đình. Tuy nhiên đây là giải pháp khá riêng của luật Việt Nam,
nhằm đảm bảo cho việc thể hiện ý chí của người kết hôn, vì khi bị mất năng lực
hành vi dân sự, họ không thể thể hiện được ý chí của mình một cách đúng đắn, do
đó không đảm bảo được sự tự nguyện trong việc kết hôn.
1.4.4. Kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
• Kết hôn giả tạo
Khoản 11 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về kết hôn giả tạo như
sau: “Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập
quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc
để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.” Như vậy,
kết hôn giả tạo là việc hai bên đồng ý kết hôn theo những hợp đồng, thỏa thuận
ngầm hoặc trái quy định của pháp luật để để tiến hành kết hôn vì những lý do khác
hơn là lý do xây dựng gia đình. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam cấm việc kết hôn giả
tạo bởi vì mục đích của những cuộc hôn nhân đó không hướng đến việc xây dựng
gia đình, mà chỉ lợi dụng việc kết hôn để đạt được mục đích riêng của mình, ví dụ
như kết hôn với người nước ngoài hay với người Việt Nam định cư ở nước ngoài để
được nhập quốc tịch nước ngoài nhằm hưởng một số ưu đãi của Nhà nước họ sau
khi kết hôn. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ hôn nhân gia đình và xã
hội. Kết hôn giả tạo có thể làm gia tăng thêm tình trạng ly hôn sau khi người kết

hôn đạt được mục đích của mình.
Kết hôn giả tạo còn là hành vi trá hình của nhiều trường hợp kết hôn có yếu
tố nước ngoài nhằm che đậy các hành vi buôn bán phụ nữ qua biên giới hoặc đưa
người nhập cảnh trái phép vào các nước. Tháng 6 năm 2005, 44 người trong đó có
nhiều người Việt Nam cư trú tại thành phố Westmister (Mỹ), đã bị truy tố về tội tổ
chức kết hôn giả và đưa hàng trăm người từ Việt Nam và Trung Quốc sang Mỹ bất
hợp pháp. Hành vi vi phạm pháp luật của họ bị xử lý theo pháp luật Hoa Kỳ nhưng
quyền và lợi ích của những người kết hôn giả tạo không được bảo vệ, hơn nữa hình
ảnh của quốc gia ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.
• Cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn


Kết hôn là quyền của mỗi cá nhân chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy, về
nguyên tắc không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều
kiện hết sức quan trọng, được pháp luật hầu hết các nước phát triển, văn minh trên
thế giới ghi nhận để đảm bảo giá trị đích thực của hôn nhân. Không thể duy trì hôn
nhân bền vững khi không có sự tự nguyện và cuộc sống gia đình chỉ thực sự có
hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của hai bên nam
nữ. Chính vì thế, pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam cấm việc cưỡng ép kết
hôn,lừa dối kết hôn, hay cản trở việc kết hôn tự nguyện vì những hành vi này vi
phạm sự tự nguyện trong việc kết hôn. Những trường hợp kết hôn mà có hành vi
cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn đều bị coi là kết hôn trái pháp luật. Sự cưỡng
ép, lừa dối từ hai phía đối với nhau, sự cưỡng ép hay cản trở từ phía gia đình, xã hội
đều không đem lại hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên trên thực tế, tình
trạng kết hôn do cưỡng ép hoặc lừa dối vẫn diễn ra với vô vàn hình thức khác nhau.
Pháp luật HN&GĐ Việt Nam quy định: “Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa,
uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc
người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ” (Khoản 9 Điều 3 Luật HN&GĐ
năm 2014). Theo đó ta có thể hiểu, cưỡng ép kết hôn là buộc người khác kết hôn
trái với nguyện vọng của họ. Cưỡng ép có thể do một trong hai bên ép buộc bên kia

phải kết hôn với mình hoặc một trong hai bên nam, nữ hay cả hai bị người khác ép
phải kết hôn với nhau hoặc là hành vi cha mẹ ngăn cản con cái kết hôn với người
mà cha mẹ không thích. Tất cả những hành động ép buộc đều xuất phát từ tư tưởng
phong kiến với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, hoàn toàn trái ngược với
tinh thần của pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện nay.
Lừa dối để kết hôn là một trong hai người đã nói sai sự thật về người đó làm
cho người kia lầm tưởng mà kết hôn hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn
sẽ làm việc gì đó có lợi cho người kia làm người kia đồng ý kết hôn. Tuy nhiên,
việc xác định thế nào là kết hôn trái pháp luật do bị lừa dối hoàn toàn không dễ. Kể
cả quy định của pháp luật về vấn đề này cũng có phần không triệt để. Ví dụ như
việc một bên hứa hẹn sau khi kết hôn sẽ tìm việc làm cho người kia nhưng lại
không thực hiện được, pháp luật Việt Nam cho rằng trường hợp này là kết hôn do bị
lừa dối, điều này có khía cạnh không thỏa đáng. Bởi nếu như người lừa dối tìm việc
làm cho người kia để kết hôn mà người bị lừa dối đồng ý kết hôn, thì người bị lừa
dối đến lại hướng tới mục đích vật chất, hoàn toàn không phải vì tình yêu mà đến
với đối phương, đi ngược lại quan niệm hôn nhân tiến bộ của pháp luật.
Pháp luật Việt Nam cũng khá mềm dẻo trong việc xử lý các trường hợp kết
hôn trái pháp luật do bị cưỡng ép, lừa dối vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống


của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Nhà nước phải xem xét và
đánh giá thực chất quan hệ tình cảm giữa hai người từ khi kết hôn cho đến khi tòa
án xem xét cuộc hôn nhân đó, để từ đó có quyết định đúng đắn, đảm bảo thấu tình
đạt lý.
• Kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng
Pháp luật phong kiến Việt Nam từng quy định người đàn ông có thể lấy
nhiều vợ (Điều 79,80 Dân luật Bắc Kỳ). Pháp luật của Nhà nước tư sản cũng quy
định hôn nhân theo nguyên tắc một vợ một chồng nhưng trên thực tế nguyên tắc này
đã bị phá vỡ do nạn ngoại tình và mại dâm công khai. Do đó, xét về bản chất thì
“hôn nhân của giai cấp tư sản là chế độ cộng thê”. Ngược lại, bản chất hôn nhân

xã hội chủ nghĩa là hôn nhân một vợ một chồng như Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ
““Vì bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ...cho nên hôn nhân dựa trên tình
yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng”8.
Khoản 1 Điều 36 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Trên
nguyên tắc hiến định, Khoản 1 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 khẳng định: “Hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Hôn nhân phải
được xây dựng trên nguyên tắc một vợ, một chồng. Vì vậy, pháp luật HN&GĐ cấm
hành vi: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người đang có chồng, có vợ” (điểm c Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ
năm 2014).
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP thì “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại
điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các
trường hợp sau đây: a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ
(chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết; b) Người
xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký
kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ
(chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết; c) Người đã kết hôn với người khác vi
phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được
8

Xem: Ph.Ăngghen.”Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”, C.Mác và
Ph.Ăngghen tuyển tập, tập VI, tr. 129-130.


×