Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Tai lieu on tap ngu van 12 tap 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.44 KB, 55 trang )

Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

HỒ CHÍ MINH
I – VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ
- Hồ Chí Minh (1890 – 1969), quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh
ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, thân phụ của Người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Thời trẻ học chữ Hán ở nhà, sau học tại Trường Quốc học Huế, rồi dạy học ở Trường Dục Thanh.
- Năm 1911, Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Năm 1919, Người gửi tới Hội
nghị hoà bình ở Véc-xay (Pháp) bản Yêu sách của nhân dân An Nam.
- Năm 1920, Người dự Đại hội Tua và trở thành một trong những thành viên sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp.
- Người chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước tại Hương Cảng,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3 – 2 – 1930.
- Tháng 2 – 1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, thành lập Mặt trận Việt
Minh. Ngày 13 – 08 – 1942, Người sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế, nhưng bị
chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam 13 tháng, trải qua 18 nhà tù.
- Sau khi ra tù, Người về nước, tiếp tục lãnh đạo cách mạng, tiến tới giành thắng lợi trong
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
- Năm 1946, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó,
Người giữ chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước cho đến khi qua đời vào ngày 2 – 9 – 1969.
- Người khai sáng sự nghiệp cách mạng vĩ đại; đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Người
đặt nền móng vững chắc cho văn học cách mạng Việt Nam. Người được UNESCO suy tôn “Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn”.

II – SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
1 – Quan điểm sáng tác
- Người khẳng định Văn nghệ là vũ khí đấu tranh phục vụ sự nghiệp cách mạng, người
sáng tác là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá :
+ “Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (Cảm tưởng đọc
Thiên gia thi).
+ “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy ”


(Thư gửi các hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ 1951).
- Hồ Chí Minh chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn chương nghệ thuật :

1


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

+ Người nhắc nhở những tác phẩm : “chất mơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự
sinh hoạt rất ít”.
+ Theo Bác nhà văn phải “miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn” và “giữ tình
cảm chân thật”, “nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc” và “ giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt”.
+ Người đề cao sự sáng tạo của văn nghệ sĩ : “chớ gò bó họ vào khuôn, làm mất vẻ sáng
tạo”.
- Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội
dung, hình thức của tác phẩm văn học : “Viết cho ai?”(đối tượng), “Viết để làm gì ?”(mục
đích) và “Viết cái gì ?”(nội dung), “Viết như thế nào ?”(hình thức)…
2 – Di sản văn học
a) – Văn chính luận
- Đặc điểm nổi bật : kết hợp lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo và tình cảm yêu ghét nồng nàn,
sâu sắc ; Lời văn chặt chẽ, súc tích.
- Tác phẩm tiêu biểu :
+ Bản án chế độ thực dân Pháp (1925): tố cáo chế độ thực dân, nói lên nỗi thống khổ của
người dân thuộc địa..
+ Tuyên ngôn Độc lập (1945) : tuyên bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946) và Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966)
thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông đất nước.
+ Di chúc (1969), tác phẩm để lại muôn vàn tình thương yêu cho nhân dân và đề ra chiến
lược phát triển đất nước.

b) – Truyện và kí
- Đặc điểm nổi bật : Bút pháp hiện đại, tình huống truyện độc đáo, trí tưởng tượng phong
phú, hình tượng sống động, sắc sảo, nghệ thuật trần thuật linh hoạt  “Chất trí tuệ và tính hiện
đại”.
- Tác phẩm tiêu biểu : Pa-ri (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành
(1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925),…
c) – Thơ ca
- Đặc điểm nổi bật : Thơ Bác khắc hạo bức chân dung nhân vật trữ tình mang nặng “nỗi
nước nhà”, phong độ ung dung, lạc quan, tâm hồn hoà hợp với thiên nhiên và bản lĩnh của một
nhà cách mạng luôn làm chủ tình thế.

2


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

- Tác phẩm tiêu biểu :
+ Nhật kí trong tù (1942 – 1943) : 134 bài thơ (cả đề từ), tiêu biểu : Chiều tối, Lai Tân,…
+ Chùm thơ viết thời kì tiền khởi nghĩa và trong kháng chiến chống Pháp : Thơ tuyên
truyền (Dân cày, Công nhân, Ca binh lính,…) ; Thơ nghệ thuật (Tức cảnh Pác Bó, Đăng sơn,
Nguyên tiêu, Báo tiệp, Cảnh khuya,…).
3 – Phong cách nghệ thuật
a) – Văn chính luận
- Ngắn gọn, tư duy sắc sảo.
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, bằng chứng thuyết phục.
- Giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.
b) – Truyện và kí
- Vẻ đẹp hiện đại.
- Tính chiến đấu mạnh mẽ.
- Nghệ thuật trào phúng sắc bén, nhẹ nhàng mà hóm hỉnh, sâu cay.

c) – Thơ ca
- Thơ tuyên truyền : Lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại.
- Thơ nghệ thuật : Vẻ đẹp hàm súc, hoà hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, giữa chất
“tình” và chất “thép”.

TÂY TIẾN
Quang Dũng
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Quang Dũng

-

Quang Dũng (1921-1988), tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện

Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông tham gia quân đội sau Cách mạng tháng Tám. Sau năm 1954, ông
làm biên tập viên tại Báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học.
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài (làm thơ, viết văn, vẽ tranh…), nhưng được biết đến
nhiều nhất là thơ - hồn thơ đầy cảm hứng lãng mạn, hào hoa, thanh lịch – có khả năng cảm nhận
và diễn tả tinh tế, giàu chất thơ mộng.

3


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

- Những tác phẩm chính : Mùa hoa gạo (truyện ngắn, 1950), Rừng biển quê hương (thơ,
văn in chung với Trần Lê Văn, 1957), Đường lên Châu Thuận (1964), Rừng về xuôi (truyện kí,
1968), Nhà đồi (truyện kí, 1970), Gương mặt hồ Tây (bút kí, in chung 1984), Mây đầu ô (tập thơ,
1986), …
- Năm 2001, Quang Dũng được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

2 – Bài thơ Tây Tiến
Bài thơ Tây Tiến được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến. Tây Tiến là
một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947 hoạt động ở biên giới Việt – Lào, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên
Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ nhưng họ
rất lạc quan và dũng cảm.
Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị
khác. Rời đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, ông viết Nhớ Tây Tiến sau đổi lại là Tây Tiến
và in trong Mây đầu ô.

II – NỘI DUNG CHI TIẾT
Nhắc đến Quang Dũng, độc giả không chỉ nhớ tới Tây Tiến như một kỉ niệm đẹp mà còn
gợi nhớ về hình ảnh xứ Đoài mây trắng : Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm (Đôi mắt người Sơn
Tây) – quê hương của nhà thơ – Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Quang
Dũng đã mang “cái hào hoa của người Hà Nội và của cả xứ Đoài” ấy để làm nên chất men say
lãng mạn ở Tây Tiến cùng nhiều bài thơ khác của ông.
Đặc biệt, hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa của Quang Dũng được
thăng hoa ở Tây Tiến, nhất là đoạn thơ sau : …
1 – Một Tây Tiến dữ dội, hùng vĩ (Sông Mã xa rồi … mùa em thơm nếp xôi)
Cảm hứng bao trùm bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ. Mở đầu bài thơ là tiếng gọi thân
thương trìu mến hướng về Tây Tiến : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !”. Sau tiếng gọi ấy chính là
nỗi nhớ Tây Tiến dạt dào cảm xúc :
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ khó định hình, khó nắm bắt nó nhẹ tênh bay bỗng nhưng nặng vô
cùng. Từ “chơi vơi” hợp với vần “ơi” ở câu trên đạ tạo âm hưởng lan toả. Nỗi nhớ ấy như vươn
theo thời gian, trải rộng với không gian và thấm vào lòng người.

4



Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Tây Bắc là nơi in đậm bao gian khổ, niềm vui, nỗi buồn của những người chiến sĩ, là nơi
mà Quang Dũng từng đi qua. Nỗi nhớ rừng núi với Quang Dũng đã bắt đầu bằng những cuộc
hành quân :
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi
Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ấn tượng về vùng đất xa xôi, hoang sơ. Âm điệu câu
thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” như chùng xuống, đều đều, gợi lên sự mệt mỏi, bải
hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân sắp ngã, sắp chìm trong sương mù dày đặc. Thế nhưng
đến câu sau âm điệu như vút lên cao bởi câu thơ hầu hết là thanh bằng : Mường Lất hoa về trong
đêm hơi”. Đó là hình ảnh hoa rừng hiện ra trong sương mù, thật mơ mộng và lãng mạn. “Hoa về”
là một cách nói đa nghĩa, thể hiện sự táo bạo và mang đậm phong cách lính… Hình ảnh ấy đã xoá
tan cái mệt nhọc của đoàn quân để họ tiếp bước.
Tiếp theo là những câu thơ gợi ra cái hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc với những
núi cao, vực sâu, dốc thẳm :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ở Tây Tiến ấy, câu chữ như bị bẻ gãy để tạo hình độ cao dựng đứng giữa hai triền dốc
núi: Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm ; Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống. Nhịp ngắt
4/3 quen thuộc của thể thơ bảy tiếng trở thành giao điểm phân định rạch ròi hai hướng lên xuống
của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân Tây Tiến.
Ở Tây Tiến ấy, câu thơ nhiều thanh trắc (Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm) cùng những
từ ghép, từ láy giàu sức tạo hình được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp : khúc
khuỷu, thăm thẳm, heo hút.
Thử thách với con người đâu chỉ ở núi cao, vực sâu, dốc thẳm. Đọc những câu thơ :

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
mà tưởng chừng gặp những chuyện chuyện đường rừng. Thác gầm thét và cọp trêu người gắn
với hai từ chiều chiều, đêm đêm dùng để chỉ tính thường trực, liên tục của những hiểm nguy đang
rình rập. Địa danh nào cảnh vật ấy. Chỉ cần đọc hai tiếng Mường Hịch như đã thấy lởn vởn dấu
chân cọp dữ vừa lướt qua.

5


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Giữa cái hùng vĩ, dữ dội hoang sơ đó, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra với nhiều
nét rất đặc trưng của đời lính. Đọc theo từng câu thơ, chúng ta tưởng chừng như còn nghe thấy
hơi thở nặng nhọc của họ trên mỗi chặng hành quân vượt dốc, với những gương mặt dãi dầu
sương gió :
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Trên mỗi chặng đường, không ít người lính đã kiệt sức thậm chí có người đã hi sinh vì
lam sơn chướng khí, vì rừng thiêng nước độc. Cụm từ gục lên sung mũ toát lên một sự hi sinh vô
cùng cao đẹp vì hạnh phúc của mọi người. Hình ảnh thật là vừa bi vừa hùng.
Tuy nhiên, cũng có những giây phút đoàn quân cảm nhận được sự thư thái và niềm vui của
đời lính. Đó là niềm vui khi chinh phục được núi cao, rừng thẳm, là sự phát hiện rất đặc biệt về
độ cao : Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Đặc biệt, giữa mạch thơ tập trung diễn tả cái dữ dội tột
đỉnh của thiên nhiên, lại hiện ra một ánh nhìn vô cùng bay bổng của người lính Tây Tiến : Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn thanh bằng như toát lên một tiếng thơ phào nhẹ nhỏm của
người lính sau chặng đường vượt dốc vất vả.
Vượt qua núi rừng, đoàn quân đến với những bản làng. Nơi đó, người lính ngập tràn hạnh
phúc giữa tình quân dân ấm áp với những hương vị đặc trưng của miền Tây :
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Khép lại đoạn thơ, người đọc hình dung rất rõ về một cuộc hành quân gian nan nhưng đầy
tinh thần lạc quan và lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Với cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối
lập được khai thác triệt để, đoạn thơ đã khắc hoạ được vẻ hoang vu, dữ dội của núi rừng Tây Bắc
và hình ảnh vừa bi vừa hùng của người lính Tây Tiến cũng như những kỉ niệm ấm áp tình quân
dân trong kháng chiến chống Pháp.
2 – Một Tây Tiến thơ mộng, trữ tình (Doanh trại … đong đưa)
Khác với đoạn thơ phía trên, đến đoạn thơ thứ hai này, hình ảnh thơ không còn dữ dội mà
đậm màu sắc trữ tình, thơ mộng với hai bức tranh, hai khung cảnh khác nhau : buổi liên hoan ở
doanh trại và cuộc tiễn đưa trong một chiều sương. Giọng thơ vì thế cũng chuyển từ nặng nề sang
rộn vui và có lúc sâu lắng thiết tha.
Bốn dòng thơ đầu tái hiện những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên
hoan văn nghệ nơi bản làng mà đoàn quân Tây Tiến dừng chân nghỉ. Đoạn thơ đã đem đến
cho người đọc ấn tượng về không khí hội hè rộn ràng vui vẻ, cái nhìn chiêm ngưỡng, say sưa mà
đa tình của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa xứ lạ,
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

6


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. Truyện Kiều có câu : “ Đuốc hoa
chẳng thẹn với chàng mai xưa” (3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về
đêm liên hoan lửa trại của các chiến sĩ với đồng bào bản mường. Ánh sáng của hội hè bừng lên từ
đuốc hoa, từ áo xiêm lộng lẫy làm cho người lính cũng ngạc nhiên reo vui : “kìa em”… Dáng
người đẹp mềm mại, e ấp theo những điệu múa, tiếng khèn rộn ràng thật tình tứ làm sao. Trong

cái nhìn lãng mạn, hào hoa của người lính, ánh đuốc của buổi liên hoan đã thành những ngọn
đuốc hoa tân hôn ngọt ngào. Còn người đẹp xiêm y như bước ra từ huyền thoại :
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Người lính như nhập cuộc, hoà mình say sưa theo âm điệu dìu dặt, theo điệu múa yểu
điệu, đưa hồn về những giấc mơ, những chân trời chưa tới, xây hồn thơ với bao mộng ước ngọt
ngào : Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Bốn câu thơ tiếp theo gợi ra nỗi nhớ về cảnh sông nước miền Tây thơ mộng với bức
tranh Châu Mộc chiều sương bảng lảng mơ hồ :
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tác giả chỉ phác hoạ đôi nét, chủ yếu đánh thức, gợi cảm nhận ở người đọc. Những chữ
có thấy, có nhớ là hỏi lòng mình đầy bang khuâng, lưu luyến. Cảnh thơ tĩnh lặng, buồn, song rất
thi vị. Tâm tình con người gửi trong cái xôn xao nỗi niềm của hồn lau nẻo bến bờ, trong một
dáng người khoẻ khoắn trên con thuyền độc mộc trôi dòng nước lũ. Những đoá hoa rừng duyên
dáng, tình tứ biết đong đưa làm duyên với lính Tây Tiến. Tất cả những cảnh ấy, người ấy làm sao
không thấy và không nhớ ?
Thi liệu trong bốn câu thơ trên đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất
lạ. Thấp thoáng trong vần thơ Tây Tiến là những câu cổ thi tuyệt bút :
Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…
(Chinh phụ ngâm)

7


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)


Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau :
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Trong hai bức tranh, hai khung cảnh ấy, người lính hiện ra với tâm hồn lạc quan, yêu đời
của người lính. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh,
sinh viên nên sự lạc quan, yêu đời đã sẵn có trong tâm hồn họ. Hơn nữa, sống đời lính bôn ba thì
ít nhiều họ cũng hay mơ mộng, đa tình. Những tâm hồn nhạy cảm đó bắt gặp những cảnh tưng
bừng, hay cảnh sông nước hữu tình thì hỏi sao tâm hồn người lính không xao xuyến rung động.
Tây Tiến của những buổi liên hoan văn nghệ quân dân, của những chiều sương mơ hồ
bảng lảng đã để lại cảm giác nhung nhớ, bâng khuâng trong lòng người. Khác với đoạn thơ thứ
nhất, ở đây Quang Dũng chủ yếu sử dụng những nét vẽ mềm mại, tinh tế, cái tinh tế toát ra từ
“cốt cách hào hoa phong nhã và một thi tài hiếm có” (Trinh Đường).
3 – Một tượng đài người lính Tây Tiến bất tử với thời gian (Tây Tiến đoàn binh … độc hành)
Trước hết, hình tượng người lính Tây Tiến được khắc hoạ bằng một nét vẽ chân dung rất
gân guốc, lạ hoá và phi thường :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhưng đó là cái lạ hoá, gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc
là hậu quả của trận sốt rét rừng. Rồi trải qua nơi rừng thiêng nước độc, gian khổ thiếu thốn, thuốc
men không có. Quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Nhiều bài thơ chống Pháp từng nói
tới hiện thực này.
_

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.
(Tố Hữu)


_

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt rung người vầng trán ướt mồ hôi”
(Chính Hữu)
Tuy nhiên, hiện thực ấy khúc xạ qua bút pháp lãng mạn Quang Dũng trở thành cách nói
mang khẩu khí lính Tây Tiến. Không mọc tóc chứ không phải tóc không thể mọc. Quân xanh
8


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

màu lá còn là xanh áo lính, xanh lá nguỵ trang. Thế mới xứng với những chữ dữ oai hùm. Đó
mới thực là khí phách, tinh thần của đoàn quân.
Đời lính đâu chỉ biết đối mặt với lam sơn chướng khí, đâu chỉ biết đối mặt với đạn bom,
người lính cũng có những giây phút tâm hồn bay bổng rất lãng mạn, mộng mơ :
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bên cạnh cái gian khổ trèo đèo lội suối, bên cạnh nhiệm vụ chính trị của đời lính, bên cạnh
tinh thần sục sôi chiến đấu, vẫn có một khoảng trời của tâm tưởng đi về trong mộng ước với dáng
hình người đẹp. Dáng kiều thơm gợi vẻ đẹp yêu kiều, thanh lịch, sắc nước hương trời của người
thiếu nữ Hà thành – nơi mà ở đó người lính từng sống, từng học tập và cũng là nơi các anh từ giã
người thân lên đường đi chiến đấu. Nơi hậu phương ấy trở thành động lực thúc giục người lính
quên gian khổ để tiến lên phía trước, vượt qua bom đạn để trở về.
Những câu thơ tiếp theo sau như là lời phát ngôn cho lí tưởng, khát vọng của người lính
Tây Tiến với niềm tự hào chất ngất :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh tuổi trẻ, đời xanh bao mơ ước còn đang phía trước. Nhưng với các anh, còn gì

quý hơn Tổ quốc thân yêu, còn gì “quý hơn độc lập tự do”. Vì thế, dù biết rằng đời lính gửi vào
đầu súng mũi lê, ra đi không hẹn ngày về , nhưng các anh vẫn chấp nhận ra đi để dâng hiến, để xả
thân. Họ chẳng khác nào các vị tướng ngày xưa tung hoành chiến trận. Hai câu thơ như gợi lại
hào khí của cha ông ta xưa :
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Phạm Ngũ Lão).
Hào khí thời đại cũng ùa vào chắp cánh cho hai câu thơ này. Nó gợi cái âm vang của lời
thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” (Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi – Nào có sá chi đâu
ngày trở về - Ra đi ra đi bảo tồn sông núi – Ra đi ra đi thà chết không lùi …). Tinh thần “nhất
khứ bất phục phản” ngàn đời ấy đã trở thành lí tưởng, khát vọng của người chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ thứ ba khép lại bằng sự hi sinh của người lính :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trên chặng đường hành
quân, nhiều người lính không thể vượt qua đã vĩnh viễn gục lên súng mũ bỏ quên đời. Dọc đường
9


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Tây Tiến cũng là vô vàn nấm mồ liệt sĩ mọc lên Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Tuy nhiên, ấn
tượng để lại với người đọc là cái đẹp trong tâm tưởng của họ. Họ đều là những chiến tướng ngày
xưa rực rỡ với chiếc áo bào :
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào áo gió thu
(Chinh Phụ Ngâm).
Cái chết đã được sang trọng hoá lên để xứng với ngoại hình, nội tâm và lí tưởng của họ.
Về đất là cách nói giảm nhằm thể hiện sự ra đi thanh thản của người lính sau khi làm tròn trách
nhiệm người trai. Cái chết của họ như thiêng liêng và động đến cả đất trời : Sông Mã gầm lên

khúc độc hành. Câu trên nhẹ nhàng, thanh thản, kìm nén. Câu dưới dữ dội, gào thét. Tất cả nội
lực câu thơ đều dồn xuống từ gầm và gợi ra một âm hưởng thật bi tráng cho đoạn thơ.
Cả đoạn thơ như một khúc ca mang âm điệu bi tráng về tượng đài người lính Tây Tiến.
Những câu thơ với hàng loạt các từ Hán Việt trang trọng, những hình ảnh phi thường đã làm sống
lại một thời oanh liệt của dân tộc ta.

III – KẾT LUẬN
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình
tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội
và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức
hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
Tây Tiến (hoặc đoạn thơ trên nói riêng) rất tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Quang
Dũng.

VIỆT BẮC
TỐ HỮU
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Tố Hữu
a) – Tiểu sử

- Tố Hữu (1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai,
nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Sinh ra trong một
gia đình nhà nho nghèo có truyền thống văn chương, từ sáu, bảy tuổi, Tố Hữu đã học và
tập làm thơ.

10


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)


- Ông giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo
Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế, rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Những bài thơ đầu tiên của ông được sáng tác năm 1937, 1938. Tháng 4 – 1939,
ông bị thực dân Pháp bắt và giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3 –
1942, Tố Hữu vượt ngục Đắc Lay, tiếp tục hoạt động cách mạng.
- Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước : Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở thành phố Huế, Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng .
- Tố Hữu đã vinh dự nhận giải Nhất Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1954 –
1955, Giải thưởng văn học ASEAN (1996), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật (1996).
b) – Đường Cách mạng, đường thơ
 Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946)
Tập thơ gồm 72 bài, gồm ba phần : Máu lửa, Xiềng xích, và Giải phóng.
Phản ánh chặng đường cách mạng của những năm diễn ra phong trào Mặt trận Dân chủ và
cuộc vận động nhân dân tiến tới cuộc khỡi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Tập thơ thể hiện niềm say mê khi bắt gặp lí tưởng cách mạng và bước trưởng thành của
người thanh niên quyết tâm hi sinh cho Đảng. Đó là tình cảm cảm thông, sẻ chia của nhà thơ với
những mảnh đời “cùng khổ”; niềm khát khao tự do, quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng Cộng sản.
 Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954)
Tập thơ gồm 27 bài.
Tập thơ Việt Bắc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tập thơ tập trung phản ánh
hình ảnh nhân dân, bộ đội ( anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ, em liên lạc…) và căn
cứ kháng chiến Việt Bắc.
Tập Việt Bắc bộc lộ những tình cảm lớn của nhà thơ Tố Hữu và của những người kháng
chiến : tình quân dân “cá nước”, miền xuôi – miền ngược, nhân dân – Bác, nhân dân – cách
mạng…
 Tập thơ Gió lộng (1955 – 1961)
Tập thơ gồm 25 bài.
Gió lộng được viết khi miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và

đấu tranh thống nhất đất nước. Gió lộng là tập thơ phơi phới tinh thần lãng mạn cách mạng, ngợi

11


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

ca cuộc sống mới trên miền Bắc tràn đầy sức sống và niềm vui : tập làm chủ, tập làm người xây
dựng,…
Thông qua tập thơ, Tố Hữu thể hiện tình cảm thiết tha, sâu đậm của mình và những người
kháng chiến với miền Nam ruột thịt.
 Tập thơ Ra trận (1962 – 1971), Máu và hoa (1972 – 1977)
Ra trận gồm 34 bài, Máu và hoa gồm 13 bài.
Hai tập thơ ra đời trong thời kì cả nước kháng chiến chống Mĩ. Hai tập thơ tập trung ca
ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ghi lại những bản hùng ca về Miền Nam trong lửa đạn áng
ngời, ca ngợi những hi sinh, khẳng định niềm tin, niềm tự hào chiến thắng.
 Tập thơ Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999)
Hai tập thơ ra đời trong thời kì cả nước đã thống nhất, đang bước vào thời kì khắc phục
những tổn hại của chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
Nhà thơ tập trung thể hiện những suy cảm, chiêm nghiệm về cuộc sống, về giá trị con
người. Nhà thơ bộc lộ rõ niềm tin vào lí tưởng và con đường Đảng đã lựa chọn, tin vào bản chất
tốt đẹp của con người Việt Nam mới.
c) – Phong cách thơ Tố Hữu
Về mặt nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình – chính trị rất sâu sắc :
Hồn thơ hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng và
đời sống cách mạng. Chính vì vậy mà chặng đường thơ của Tố Hữu luôn phản ảnh chặng đường
hoạt động cách mạng của ông nói riêng và cách mạng của dân tộc nói chung. (Chứng minh bằng
các tập thơ : Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng,…) ;
Thơ Tố Hữu đậm nét cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi. Ông luôn hướng về
tương lai với niềm tin, tin vào tương lai cách mạng, tin vào con người sống đẹp : “Người yêu

người sống để yêu nhau” ;
Giọng thơ tâm tình của Tố Hữu là lời ca ngọt ngào, thương mến : “Đồng bào ơi, anh chị
em ơi”, “Hỡi các chị các anh”,… Nhà thơ thường bộc lộ sự xót xa thương cảm, hay trìu mến, say
mê. Thơ lục bát của ông ngân nga, đi vào âm điệu tâm hồn của dân tộc. Giọng thơ tâm tình ngọt
ngào của ông còn được tạo nên bởi nhiều yếu tố biểu đạt đậm chất dân gian : kiểu kết cấu đối đáp
giao duyên, cách xưng hô Mình – ta, hình ảnh ẩn dụ, so sánh,…
Về mặt nghệ thuật, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. Vấn đề cốt lõi của cách mạng và
đời sống được Tố Hữu phản ánh theo truyền thống đạo lí của ông cha (truyền thống thuỷ chung
son sắt…). Tính dân tộc còn thể hiện ở thể thơ truyền thống (chủ yếu là lục bát); trong vận dụng
tục ngữ, ca dao, những lối nói dân dã; trong cách cảm, cách thể hiện.

12


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

2 – Bài thơ Việt Bắc
 Hoàn cảnh ra đời :
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định
Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và
bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.
Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.
Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử đó, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để nói lên tình cảm thắm
thiết với Việt Bắc – quê hương của cách mạng. Việt Bắc rất tiêu biểu cho thể tài thơ trữ tình chính
trị của Tố Hữu.
 Giá trị tư tưởng :
Việt Bắc thể hiện tình cảm của Tố Hữu đồng thời tiêu biểu cho tình cảm cao đẹp của
những người kháng chiến đối với căn cứ Việt Bắc, đối với nhân dân và Đất nước.
Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung giữa những con người cách mạng kháng chiến
(người miền xuôi) với Việt Bắc và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện truyền thống

đạo lí thủy chung, giàu ân nghĩa của dân tộc ta.

II – NỘI DUNG CHI TIẾT
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ
Việt Bắc là tiếng hát nghĩa tình sắt son thuỷ chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào
với chiến khu Việt Bắc, với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ. Việt Bắc còn là
khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.
Bài thơ Việt Bắc mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu lục bát, vừa mang âm điệu ca
dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc. Đặc sắc của
bài thơ có thể kể đến đoạn thơ sau :…
1 – Đoạn 1 (Mình về mình có nhớ ta … Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay)
Giống như những khúc hát giã bạn “người ơi người ở đừng về” trong đêm hội, ở đây
người cất lên tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là người ở lại, gợi nhắc về những kỉ niệm
gắn bó suốt mười lăm năm :
Mình về mình có nhớ ta.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Giọng cất lên là giọng của yêu thương trìu mến, nhung nhớ, chia xa. Tất cả nhắc gọi về kỉ
niệm giống như vô vàn những cuộc chia tay muôn thuở xưa nay. Có bao nhiêu điều cụ thể từng

13


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

chia sẻ, gắn bó đã trôi qua suốt Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng… Cụm từ thiết tha mặn
nồng dường như không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn gói trọn cả những sẻ chia sóng gió thác
ghềnh làm nên cái nặng sâu bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Thời gian mười lăm năm được
đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc,
hoà bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.

Chuyện nghĩa tình cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị như vậy đã hoá thân tự nhiên
vào câu chuyện tình cảm lứa đôi bền chặt, để mười lăm năm ấy trở thành thiết tha mặn nồng dìu
dặt và quyến luyến lòng người.
Đúng ở thời khắc chia tay, mối bận tâm, điều muốn nhắn gửi, cũng là điều muốn dò đón,
khắc sâu chính là mối băn khoăn Có nhớ không ? trào lên qua câu chữ :
Mình về mình có nhớ không
Bảo là hỏi tu từ, hỏi để gợi nhắc, gợi nhớ cũng đúng. Nhưng bảo là mối quan tâm thực sự
tha thiết đang chờ đợi câu trả lời có lẽ đúng hơn. Có nhớ không ? trở thành mối quan tâm đau đáu
riết róng vì thói thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng hạnh phúc rất dễ làm con người quên
đi những ngọt bùi cay đắng đã nếm trải.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
Bốn câu thơ trên chính là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao điều chưa
nói sẽ được thổ lộ giãi tỏ tâm tình. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để trào tuôn mạch cảm xúc nhớ
thương trong lòng người lên đường.
Bốn câu thơ cuối của đoạn (lời người đi) đã tái hiện trước mắt người đọc một cuộc
chia tay kẻ ở người đi đầy bâng khuâng, lưu luyến :
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Sắc áo chàm chất phát, đậm đà, quen thuộc gắn bó với đồng bào Việt Bắc giờ đây hiện
lên như một điểm nhớ thân thương trong lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ
của nhà thơ. Tất cả đã làm trào dâng cảm xúc trong lòng người lên đường.
Người ra đi như đồng vọng thiết tha với cảm xúc thiết tha của người ở lại nên ngập
ngừng không nỡ bước chân :
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

14



Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Các từ láy bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết hài hoà đồng điệu với nhau để thể hiện cảm
xúc, vừa lưu luyến nhớ thương, vừa mong ngóng nôn nao. Những câu thơ gợi nhắc tới bao cuộc
chia tay muôn thuở trong thi ca :
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng
(Chinh phụ ngâm).
Nhà thơ đã sử dụng thành công nhịp ngắt linh hoạt của thơ lục bát để gợi ra khung cảnh
và ấn tượng, cảm xúc cuộc chia tay : Áo chàm đưa/ buổi phân li; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm
nay… Như hiển hiện sau câu chữ là động thái trữ tình : người đi kẻ ở tay trong tay, những khoảng
ngừng lặng không nói nên lời bởi bộn bề cảm xúc, biết nói gì đây bởi quá nhiều điều để nói, bắt
đầu từ đâu và nói bao nhiêu cho đủ, cho thoả bấy nhiêu năm thiết tha mặn nồng gắn bó cùng
nhau.
2 – Đoạn 2 (Mình đi có nhớ những ngày … Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?)
Đoạn thơ là lời người ở lại nhắn nhủ với người đi đừng quên “chiến khu” – vùng đất
gắn liền với những gian lao trong kháng chiến và lòng căm thù giặc nhưng cũng rất hào
hùng trong chiến đấu :
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?...
Những dòng thơ gợi nhắc kỉ niệm đã lí giải vì sao nhà thơ gọi mười lăm năm ấy bằng từ
thiết tha mặn nồng đầy nghĩa tình. Bởi đó là thời gian dệt lên từ tình yêu thương, từ gian khổ
thiếu thốn, từ sự chung sức chung lòng. Ở đó ta – mình cùng chia sẻ những khó khăn, vất vả của
cảnh mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, cùng dằn lòng với miếng cơm chấm muối, chung
một mối thù nặng vai, cùng trải qua những buổi hắt hiu lau xám để gánh cuộc kháng chiến trên
vai. Từ thuở khởi đầu chiến đấu, bên ta đã có mình, hỏi sao không chất chứa tình cảm thiết tha
mặn nồng lưu luyến ?
Đặt trong cấu trúc cân đối, hài hoà của những tiểu đối trong các câu thơ tám chữ, ấn tượng

để lại với người đọc là cái sắt son bền chặt thuỷ chung của tình cảm con người. Từ miếng
cơm chấm muối mà nung nấu tâm can mối thù nặng vai thêm sôi sục. Từ hắt hiu lau xám, mưa
nguồn, suối lũ, mây mù mà ngời lên đậm đà lòng son vẹn tròn, chung thuỷ. Mười lăm năm ấy biết
bao nhiêu tình. Mười lăm năm ấy cũng là bao nhiêu kỉ niệm kháng chiến.

15


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Theo dòng hồi tưởng, người ở lại gợi nhắc cho chúng ta trở về thuở ban đầu gây dựng
nền móng cách mạng cho đến khi lớn mạnh trưởng thành. Và đến giờ, nghĩa tình của đồng bào
Việt Bắc vẫn sắt son và mãi khắc ghi trong dạ :
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Những khi ấy, mình – ta từng chung niềm vui kháng chiến sôi sục trong những ngày
kháng Nhật, phong trào Việt Minh và mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào nơi Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, tiền thân của quân đội Việt Nam lớn mạnh sau này,
nơi Quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn trước lúc chia xa. Đó là nỗi
nhớ khôn khuây, ngơ ngẩn : Mình về, rừng núi nhớ ai – Trám bùi để rụng, măng mai để già… Đó
là nỗi niềm bồi hồi dâng lên khi kỉ niệm dào dạt ùa về.
Nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ rừng núi nhớ ai,… trám để rụng, măng để già, điệp từ mình
về, mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 – 4/4 đều đặn… gợi lên hình ảnh một người đang bâng

khuâng sững sờ với cảm giác hụt hẫng của chia li, dè chừng sự lãng quên nên tha thiết nhắc nhở
người về bằng những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất..., sâu trong tình người,
rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những con người cách mạng trong không gian,
thời gian của cách mạng.
3 – Đoạn 3 – (Nhớ gì như nhớ người yêu … Chày đêm nện cối đều đều suối xa)
Hiện theo mỗi điệp khúc nhớ là hình ảnh con người và thiên nhiên hoà quyện trong nhau.
Khác với đoạn thơ trước, cảnh Việt Bắc ở đây hiện ra rất thơ mộng hiền hoà. Một vầng trăng
thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiều lấp ló lưng nương :
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Những bản làng bồng bềnh thực hư trong sương khói :
Nhớ từng bản khói cùng sương

16


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Những rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy vơi trong nhung
nhớ :
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Mỗi cảnh vật là một nét nhớ, nét thương thân thuộc vì gợi nhắc đến con người Việt Bắc.
Đó là những con người từng chia bùi sẻ ngọt cùng người cách mạng :
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm
cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân cá nước thêm ấm áp. Câu thơ làm ta nhớ đến những

vần thơ sáng ngời tình đồng chí của Chính Hữu : Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỷ (Đồng Chí).
Đó là những con người tảo tần lam lũ, chịu thương chịu khó :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Trên những miền núi quê ta, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh những người mẹ
vừa làm nương rẫy vừa địu con trên lưng thật cảm động : Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi – Mặt
trời của mẹ em nằm trên lưng" (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa
Điềm. Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc.
Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”…
Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật nhất đã từng xuất hiện như
thế này trong nhiều trang thơ của Tố Hữu và bao giờ cũng gây một mối giao cảm mãnh liệt.
Đó là những con người từng cùng vui niềm vui của lớp học xoá mù chữ, diệt giặc dốt
và những giờ liên hoan tưng bừng với ngọn đuốc sáng :
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan
Đó còn là những người lạc quan yêu đời gắn bó cùng kháng chiến và cuộc sống thanh
bình tươi đẹp Việt Bắc :
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

17


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Bức tranh không chỉ có đường nét, màu sắc, ánh sáng mà còn gợi tới âm thanh : tiếng i tờ
vỡ lòng ngượng nghịu, tiếng hát ca vang núi đèo, tiếng mõ rừng chiều thân quen, tiếng chày đêm

nện cối điểm nhịp đều đều nơi suối xa… Những âm thanh ấy đã thổi cái hồn riêng vào bức tranh
thơ.
Bên cạnh việc sử dụng điệp từ nhớ, trong cả đoạn thơ tác giả còn sử dụng thành công
nhiều biện pháp nghệ thuật khác. Đó là nhịp điệu thơ mượt mà, êm ái, như ru người đọc vào
những kỉ niệm bang khuâng. Đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con
người mang đậm chất Việt Bắc. Đó còn là những cách diễn tả đậm màu sắc trữ tình phù hợp với
cấu tứ như cuộc chia tay của đôi bạn tình đã từng gắn bó nay phải tạm chia xa. Việt Bắc đã trở
thành người yêu (Nhớ gì như nhớ người yêu), thành người thương (Sớm khuya bếp lửa người
thương đi về) trong nỗi nhớ ấy.
Đoạn thơ trên là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tuy nhiên,
không phải nhà thơ chỉ dừng lại ở việc tả cảnh tả người, mà qua mỗi hình ảnh thiên nhiên, mỗi
hình ảnh về con người đều chất chứa một nỗi niềm nhung nhớ của người đi. Bức tranh hiện ra với
nhiều chi tiết thật cụ thể, thật quen thuộc, thật cảm động. Điều đó thể hiện nghĩa tình thuỷ chung
của người đi rất sâu đậm với chiến khu Việt Bắc.
4 – Đoạn 4 (Ta về, mình có nhớ ta … Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung)
Trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc, người đọc dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người hiện lên thật sinh động. Đặc biệt tác giả đã dụng tâm khắc hoạ một bức tứ bình về
thiên nhiên, con người Việt Bắc trọn vẹn trong khổ thơ cân đối hài hoà :
Ta về, mình có nhớ ta
……
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Hai câu đầu khái quát chung về nỗi nhớ, cũng là hé mở cách tạo “bố cục” cho bức
tranh : một nét vẽ hoa (những hoa) – thiên nhiên và một nét vẽ con người (cùng người), cứ thế
lần lượt hiện ra :
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Những câu tiếp theo tập trung vào miêu tả thời gian trôi đều đặn qua bốn mùa cùng
những tín hiệu riêng của cảnh và người. Mùa đông ấm nóng, tươi tắn trong gam màu nóng của
những bông hoa chuối rừng đỏ tươi thắp lửa thấp thoáng bên tàu lá. Cả khu rừng màu xanh như
được điểm thêm sắc đỏ cùng “nắng ánh” như tạo một không gian khí trời mùa đông “không lạnh

18


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

lẽo”. Trong khung cảnh đó, nhà thơ vẽ một nét chấm phá về con người, đó là con người đi rừng
lao động thu hái sản vật núi rừng :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Mùa xuân Việt Bắc bạt ngàn màu trắng của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ như gợi sắc
xuân núi rừng Việt Bắc một nét mơn mởn tươi trong và tinh khiết. Hoà cùng sắc xuân ấy là cảnh
người dân Việt Bắc chuốt giang đan nón. Cuộc sống mùa xuân như sôi động hơn cũng chính bởi
cảnh lao động của những thôn dân nơi đây :
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Hè sang, tiếng ve kêu báo tín hiệu của mùa và rừng phách ào ạt đổ vàng. Đó cũng chính
là lúc “cô em gái” đi hái măng “một mình”. Mùa nào thức nấy, thiên nhiên đã cung cấp nhiều
“sản vật” núi rừng cho bữa ăn hằng ngày của người dân nơi đây. Cảnh “cô em gái” măng cũng
thường xuất hiện nơi núi rừng Việt Bắc và đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng người đi :
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Mùa thu thanh bình trong ánh trăng hạnh phúc. Trong ánh trăng huyền ảo lung linh, giọng
ai cất lên tiếng hát về mối ân tình thuỷ chung càng làm cho bức tranh Việt Bắc thêm thơ mộng và
trữ tình biết bao :
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ trên có thể xem là tuyệt bút khi viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Chỉ
qua một vài nét chấm phá, cảnh núi rừng Việt Bắc xuất hiện thật sinh động : mỗi mùa một nét
riêng, thiên nhiên hiện lên đa dạng theo thời gian, không gian, có nắng sớm, nắng chiều, trăng
khuya và các mùa… Bức tranh chẳng khác nào cuộc sống “nhàn” mà các nhà nho thường chọn

để giữ tròn nhân cách con người :
Thu ăn măn trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đặc biệt, bức tranh Việt Bắc càng hữu tình, sinh động hơn khi có sự gắn bó với con
người qua cách miêu tả tài tình : một câu tả cảnh đi liền là một câu tả người. Âm hưởng bao trùm
đoạn thơ là ngọt ngào, thiết tha sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ
niệm không quên.
19


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

5 – Đoạn 5 (Nhớ khi giặc đến giặc lùng … Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)
Ta dễ dàng cảm nhận được đoạn thơ trên khắc hoạ cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc
mang âm điệu mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi, hào hùng. Hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất
sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng “đất nước đứng lên” như sống dậy trong
mỗi câu thơ.
Đó là hình tượng người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến, bộ đội, dân công,
rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù :
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
……
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Cuộc kháng chiến thần thánh ngày một trưởng thành lớn mạnh. Từ lúc giặc đến giặc lùng,
rừng và người Việt Bắc che chở, bao bọc nhau, đến chỗ rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây là một
bước phát triển của kháng chiến.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Sự lớn mạnh đó là nhờ vào sự chung lòng đoàn kết chiến đấu của mọi người dân :
Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Để rồi từ đó, chúng ta có những chiến thắng đầu tiên nức lòng nhân dân, bộ đội gắn với
các địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà,…
Ai về ai có nhớ không ?
……
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Đó là bức tranh Việt Bắc ra trận với khí thế sôi nổi, hào hùng. Cuộc kháng chiến
chống Pháp đã đi đến những ngày quyết định cuối cùng. Cả một đội quân nhân dân trùng trùng ra
trận được khắc hoạ hoành tráng trong mỗi câu thơ :
Những đường Việt Bắc của ta
……
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã
đến ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu gắn với ý

20


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

nghĩa biểu tượng về đường cách mạng. Tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng
mãnh của những người ra trận bằng biện pháp so sánh cường điệu và từ láy gợi thanh :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những chiến sĩ trong một cuộc ra quân
vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
Trong cuộc ra quân ấy, hình ảnh đoàn quân rất đẹp.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Đẹp trong đội ngũ điệp điệp, trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong ánh sao

đầu súng bạn cùng mũ nan gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu và hình
ảnh súng ngửi trời trong thơ Quang Dũng. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen với mũ
nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng của người lính. Một hình ảnh thơ vừa
thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tuyền tiến. Khí thế mạnh mẽ của
đội quân nhân dân được tác giả khắc hoạ bằng lối thậm xưng, phóng đại :
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh đuốc
đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng !
Còn bước chân nát đá là bước chân của những người đạp bằng mọi chông gai để đi tới, hình ảnh
được lấy từ ý ca dao : Trông cho chân cứng đá mềm…
Hai câu tiếp theo là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn
sương đêm dày thăm thẳm :
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Từ những đêm Việt Bắc, những đường Việt Bắc đó,
một cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói loà qua từng câu thơ
đầy hào khí.
Và đây là một “bản đồ vui” toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
……

21


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Nhịp điệu thơ dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi một địa danh là một nốt nhạc vui

rộn ràng trong bản hùng ca chiến thắng.
Các địa danh không chỉ có ở Việt Bắc mà còn trải dọc theo trăm miền đất nước : từ Nam
Bộ, Tây Nguyên cho tới Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Sự xuất hiện của một loạt các địa danh
trăm miền bên cạnh nhau gắn với các tin vui chiến thắng dường như cho thấy tốc độ thần kì của
những thắng lợi đó.
Những từ ngữ vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi
miền vui. Từ Việt Bắc niềm vui toả đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc.

III – KẾT LUẬN
Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và
con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian –
tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống
quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Việt Bắc (hoặc đoạn thơ trên) tiêu biểu cho hồn thơ và thể tài thơ trữ tình – chính trị mang
đậm tính sử thi, cảm hứng lãng mạng và đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu.

ĐẤT NƯỚC
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
NGUYỄN KHOA ĐIỀM

I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân trong một gia
đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội năm 1964, ông vào Nam
chiến đấu. Từng hoạt động ở chiến khu Trị - Thiên rồi vào nội thành Huế, xây dựng cơ sở cách
mạng, viết báo, làm thơ...
- Nguyễn Khoa Điềm từng tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III, là Tổng
thư kí Hội Nhà văn Việt Nam khoá V. Ông từng giữ chức vụ: Trưởng ban tư tưởng văn hoá Trung
ương, Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.


22


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

- Ông là nhà hoạt động chính trị văn nghệ, thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu cảm xúc và chất suy tư về đất nước và con người Việt Nam.
Năm 2000, ông vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm chính : Đất ngoại ô (tập thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tuyển chọn, 1990), Cõi lặng (thơ,
2007).
2 – Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành năm 1971 trên chiến trường Bình Trị
Thiên khói lửa (in lần đầu năm 1974), viết về sự thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền
Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về
nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với
cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Đoạn trích Đất Nước chiếm gần trọn vẹn chương V của bản trường ca. Đây là chương hay
nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng
cốt lõi của tác phẩm : Đất Nước của Nhân dân.

II – NỘI DUNG CHI TIẾT
Đất nước là một đề tài chẳng bao giờ cũ nhưng cũng không còn mới trong văn học nghệ
thuật. Đối với thơ ca, điều này càng rõ. Chỉ riêng giai đoạn 1945 – 1975, kho tàng thơ Việt Nam đã
tiếp nhận khá nhiều tác phẩm hay : Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Ta đi tới (Tố Hữu), Tổ quốc bao
giờ đẹp thế này chăng ? (Chế Lan Viên), Những người đi tới biển (Thanh Thảo), Đất Nước – trích
Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm),...
Mặt khác, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mà Nguyễn Khoa Điềm phát biểu không chỉ
là nhận thức của riêng nhà thơ mà còn là của cả thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong những năm
chống Mĩ cứu nước (Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Mĩ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,...).

Tuy vậy, mỗi nhà thơ lại có một góc nhìn riêng gắn liền với những trải nghiệm riêng của
mình về đất nước... Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm là
một minh chứng. Có thể thấy điều đó qua đoạn thơ sau : ...
1 – Đoạn 1 (Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi … Đất Nước có từ ngày đó…)
Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã có từ thuở rất xa xưa trong những câu
chuyện cổ tích mẹ thường hay kể :
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.

23


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Từ xa xưa ấy đến nay, Đất Nước đã được hình thành từ nhiều yếu tố, nhiều phương
diện. Đất nước hiển hiện và hình thành từ những yếu tố giản dị trong đời sống như miếng trầu bà
ăn, luỹ tre làng, cái kèo, cái cột, hạt gạo,...
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Hay :
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Đất nước cũng bắt đầu cùng với sự ra đời của những nét phong tục rất đẹp của nhân dân ta
suốt mấy ngàn năm qua : miếng trầu bây giờ bà ăn (tục ăn trầu), tóc mẹ thì bới sau đầu,...
Đất nước lớn lên từ những ngày đầu trồng tre đánh giặc giữ nước như cậu bé làng Gióng
thuở nào...
Đất nước còn được nuôi lớn từ những truyền thống dân tộc (chống giặc ngoại xâm, thuỷ
chung gắn bó) và những ngày lao động vất vả một nắng hai sương của nền văn minh nông nghiệp.
Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của Nguyễn Khoa Điềm, khởi nguyên của đất
nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích của thuở hồng hoang vĩ đại mà là

những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục tập quán riêng biệt đã có từ ngàn đời.
Lịch sử lâu đời của đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc
son lịch sử chói lọi mà nhìn từ trong chiều sâu văn hoá và văn học dân gian. Đây cũng chính là
điểm mới trong cách tìm về nguồn cội của đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Một đoạn thơ ngắn nhưng gợi dậy biết bao nét văn hoá và văn học dân gian quen thuộc.
Đó là tục ăn trầu, là miếng trầu giao duyên, miếng trầu nên nghĩa nên tình đã thành một nét đẹp
trong văn hoá Việt. Đó là cách búi tóc thành cuộn sau gáy quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam.
Đó còn là kho tàng truyện cổ tích của người Việt mà mỗi khi bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa” cất
lên ai cũng nhớ; là câu chuyện về cổ tích Trầu cau thấm đượm tình anh em, là câu chuyện về
Thánh Gióng chống giặc ngoại xâm. Đó là những câu ca dao về chồng vợ trọn nghĩa vẹn tình :
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau,...
Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất tài tình và hiệu quả những chi tiết trên. Nhà
thơ không chỉ ra cụ thể bài nào, không dẫn nguyên văn một câu nào mà chỉ dẫn ra, gợi ra một vài
từ ngữ và hình ảnh tiêu biểu. Nhưng từ đó cũng đủ để nhà thơ thể hiện một đất nước dung dị, gần
gũi và gợi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hoá nghìn đời của dân tộc
rất đáng tự hào.

24


Bài học Ngữ văn 12 (tập 1)

Một đoạn thơ ngắn nhưng lại có một trường liên tưởng thật sâu rộng. Nén trong từng câu
từng chữ là vốn sống, vốn văn hoá, văn học dân gian và những cảm nhận phong phú về đất nước
của tác giả.
2 – Đoạn 2 (Trong anh và em hôm nay ... Làm nên Đất Nước muôn đời)
Đi tìm lời đáp cho câu hỏi Đất Nước là gì ?, trong đoạn thơ trên nhà thơ đã có những
phát hiện sâu sắc và mới mẻ về Đất Nước : Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt
Nam.

Hai câu thơ mở đoạn là sự nhận thức chân lí về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử
của Đất Nước. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, gần gũi, giản dị và gắn bó thân thiết với
“anh và em”, với mọi người :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Không đâu xa vời, Đất Nước là sự hoá thân và kết tinh trong mỗi con người. Chỉ một phần
nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “ mỗi
công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn đạt một cách
“mềm hoá” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”. Và của bao lứa đôi khác :
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Giang Nam)
Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay”
đến “mai sau”.
Trước hết, Đất Nước được hình thành và đi lên từ mối quan hệ gắn bó giữa những cá
nhân – “anh và em” với cộng đồng – “mọi người” :
Khi hay đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Hai chữ cầm tay trong câu “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương.
“Khi chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,... Mọi người có cầm tay
nhau, yêu thương chia sẻ cho nhau những đắng cay ngọt bùi... mới có thể có hình ảnh “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”. Từ hài hoà, nồng thắm đến vẹn tròn, to lớn là cả một bước phát triển và đi lên rất
lớn của lịch sử dân tộc và đất nước. Hay nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi là :

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×