Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hình tượng tác giả trong hồi ký văn học việt nam sau 1985 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.08 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KIỀU THU HUYỀN

HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ
TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1985

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2018
1


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã
hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS Lý Hoài Thu

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp cơ sở chấm luận án
tiến




họp

tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . vào
hồi

giờ

ngày

tháng

năm 20...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồi ký thuộc tiểu thể loại ký, xuất hiện muộn, là thể loại “trẻ”
nhưng chủ thể sáng tạo lại “già” - gồm những tác giả đã trải qua một
hành trình sáng tác lâu dài, có tên tuổi và vị trí trên văn đàn
Trong lịch sử nghiên cứu về thể ký, đã có nhiều công trình
đi sâu vào nghiên cứu các tiểu loại như: tùy bút, bút ký, du ký, tạp
văn, phóng sự văn học… thành công. Tuy vậy, hồi ký vẫn chưa
thực sự được quan tâm đúng với vai trò, vị trí của nó; chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện dưới góc độ đặc trưng thể

loại và thi pháp học. Khoảng trống này, xuất phát từ hai nguyên
nhân: Một là, thành tựu hồi ký không nhiều; viết hồi ký phải có độ
lùi thời gian; những tác giả viết hồi ký thường trải qua nhiều giai
đoạn sáng tác theo những biến thiên lịch sử. Hai là, quan niệm hồi
ký là thể loại ngoại biên văn học/cận văn học vẫn còn chi phối một
hướng phê bình nghiên cứu. Chính lí do đó đã khiến hồi ký chưa
được các tác giả và nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức.
Tuy nhiên, từ sau 1985, những tác phẩm hồi ký văn học không
chỉ cung cấp những lượng thông tin phong phú, đa chiều mà còn đáp
ứng được những khoái cảm thẩm mỹ trong tầm đón đợi của người đọc
hiện đại. Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài
Hình tượng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam sau năm 1985,
nhằm tìm ra quy luật vận động, những bước phát triển về nội dung và
nghệ thuật biểu hiện của vấn đề hình tượng tác giả thể hồi ký so với
các thể loại khác, đồng thời thấy được những thành tựu và đóng góp
của hồi ký đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3


2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Hình tượng tác giả trong
hồi ký văn học Việt Nam sau năm 1985 đến nay. Đây là giai đoạn hồi
ký nở rộ và có diện mạo riêng trong đời sống văn học Việt Nam,
đồng thời cũng là giai đoạn mở cửa, cả nhà văn và độc giả đều có sự
“mở” về tư duy nghệ thuật, cách tiếp cận vấn đề.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là từ đặc trưng thi pháp học
của thể loại, cụ thể hóa những đặc điểm và cách biểu hiện của hình
tượng tác giả trong hồi ký văn học từ 1985 đến nay ở một số phương

diện: sự khác nhau về hình tượng tác giả ở các thể loại văn học nói
chung và ở thể hồi ký nói riêng, sự vận động của hình tượng tác giả
trong hồi ký văn học; hình tượng tác giả với những đặc điểm cơ bản
về nội dung và hình thức nghệ thuật.
3. Cơ sở ý thuyết và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lí thuyết
Trong quá trình lựa chọn khảo sát những hồi ký văn học có tính
thẩm mỹ cao, luận án vận dụng các khái niệm của thi pháp học, tự sự
học để phân tích cách tiếp cận và khám phá hiện thực; cái nhìn về
con người; cách tổ chức điểm nhìn trần thuật. Ngoài ra, luận án còn
sử dụng lý thuyết thể loại để khu biệt đặc điểm hồi ký với những thể
loại khác. Đồng thời khẳng định được đặc điểm và vai trò của hình
tượng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam sau 1985.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp
loại hình để phân loại các thể loại văn học, trên cơ sở đó khẳng định
sự tồn tại và những đặc trưng cơ bản của hồi ký; Phương pháp hệ thống để
4


nghiên cứu hình tượng tác giả như một chỉnh thể hoàn chỉnh của tác phẩm
hồi ký; Phương pháp so sánh để tìm hiểu diện mạo, đặc điểm, sự vận động
và phát triển, đặc biệt là “hình tượng tác giả” trong hồi ký văn học sau
1985; Phương pháp thống kê cung cấp số lượng về tác phẩm, tác giả,
những nội dung và hình thức mà các tác giả hồi ký sau 1985 quan tâm.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các thao tác khoa học như phân tích,
tổng hợp để làm rõ những đặc điểm về phương diện nội dung cũng như
hình thức nghệ thuật của các văn bản hồi ký.
4. Đóng góp của luận án
Từ việc hệ thống hóa lý luận về thể hồi ký, luận án đưa ra

những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khát quát một số
khái niệm về tác giả, hình tượng tác giả trong văn học nói chung
và trong thể hồi ký nói riêng.
Là công trình nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống về thể hồi ký
để tái hiện sự vận động, phát triển của hồi ký, cụ thể là hồi ký văn
học Việt Nam từ năm 1985 đến nay; trên cơ sở đó, luận án hướng
tới những vấn đề cụ thể trong nội dung và hình thức thể hiện hình
tượng tác giả…
Khẳng định những cá tính sáng tạo độc đáo trong việc làm
mới thể loại. Qua đó, khẳng định vai trò, vị trí và giá trị của hồi ký
trong văn học dân tộc nói chung và sự vận động của văn học giai
đoạn từ sau 1985 nói riêng.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án
cấu trúc gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
5


Chương 2: Hình tượng tác giả và sự vận động của thể hồi ký
trong văn học Việt Nam sau 1985 đến nay
Chương 3: Hình tượng tác giả - những chủ thể giao tiếp nghệ
thuật trong hồi ký văn học Việt Nam sau 1985 đến nay
Chương 4: Hình tượng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam
sau 1985 nhìn từ phương thức biểu hiện.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi quan sát của mình, chúng tôi nhận thấy một
trong những phương diện được đánh giá cao trong các hồi ký văn học
thời kì đổi mới đó chính là hình tượng tác giả. Việc nghiên cứu hình
tượng tác giả trong hồi ký thời kỳ đổi mới là cần thiết, góp phần thiết

thực vào việc tìm hiểu một cái nhìn toàn diện hơn về đời sống văn
học sau năm 1985, đồng thời nhìn nhận một trong những vấn đề quan
trọng khẳng định phong cách nghệ thuật của từng tác giả.
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hình tượng tác giả và hồi ký
1.1.1. Khái niệm hình tượng tác giả.
1.1.1.1. Khái niệm tác giả văn học
Về mặt xã hội, tác giả văn học là người có chính kiến riêng về đời
sống và thời cuộc. Họ thường phát biểu nên tư tưởng mới, quan niệm mới
về các hiện tượng đời sống. Về đặc trưng, tác giả văn học là người xây
dựng thành công các hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động, có khả
năng tồn tại được trong sự cảm thụ thích thú của người đọc. Về mặt nghề
nghiệp, tác giả văn học là người xây dựng được một ngôn ngữ nghệ thuật
mới, có phong cách riêng, giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể loại,
có hệ thống hình ảnh biểu tượng đặc trưng riêng.
1.1.1.2. Hình tượng tác giả trong văn học
6


Hình tượng tác giả trong tác phẩm là một phạm trù của thi pháp
do nhà văn sáng tạo ra. Chúng ta có thể tìm hiểu hình tượng tác giả biểu
hiện chủ yếu ở một số phương diện như: Không gian thời gian, cái nhìn
riêng, độc đáo, nhất quán có ý nghĩa tư tưởng, đạo đức thẩm mĩ; giọng
điệu của tác giả thâm nhập vào cả giọng điệu nhân vật và ở sự miêu tả;
sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng.
1.1.2. Khái niệm hồi ký
Để lý giải khái niệm hồi ký, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã
căn cứ vào nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu khá
thống nhất ở điểm cơ bản: hồi ký là tái hiện quá khứ gắn với người thật,
việc thật, tác giả chính là người trong cuộc hoặc chứng kiến...
Trong sự phát triển của thể hồi ký, đường biên thể loại không

tuyệt đối, bản thân tác phẩm hồi ký luôn có sự xâm nhập, dung hợp các
thể tài, thể loại khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại, tác phẩm hồi
ký càng được chắp thêm đôi cánh vươn ra những chân trời mới của việc
tái hiện hiện thực. Đồng thời cũng thể hiện tính hiện đại, năng động, linh
hoạt của thể loại ký nói chung trong thời kỳ mở rộng và đổi mới tư duy
nghệ thuật của những năm sau 1985. Tuy vậy, văn bản hồi ký dù có tính
tự do (do tính chủ quan của hồi ức) hoặc dẫu khó xác định đường biên
thể loại thì cũng không thể nằm ngoài khung đặc trưng thể loại.
Như vậy, hồi ký là thể loại tự sự đặc biệt thuộc loại hình ký, “là
thiên trần thuật từ ngôi tác giả” - kể lại những sự việc đã xảy ra trong
quá khứ mà tác giả đã tham dự hay chứng kiến, thậm chí có thể lấy chất
liệu từ chính cuộc đời mình.
1.2. Những công trình, bài viết về hồi ký văn học Việt Nam sau
1985.
1.2.1. Những công trình, bài báo nghiên cứu khái quát
7


Các vấn đề được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm là: tính hư
cấu trong hồi ký, mối quan hệ giữa người kể và người ghi hồi ký; sự khác
nhau của nhân vật trong hồi ký với nhân vật trong tiểu thuyết;… Nhìn
chung, các tác giả chỉ điểm qua nhưng chưa khảo sát từ nhiều tác phẩm
hồi ký và chưa có những đối chiếu để thấy được những đặc điểm thuộc về
thể hồi ký. Việc nghiên cứu về hồi ký đến nay chủ yếu dừng ở việc định
hướng chứ chưa hệ thống hóa thành những luận điểm có cơ sở lý luận để
soi chiếu vào các tác phẩm hồi ký nói chung và hình tượng tác giả trong
hồi ký nói riêng nhằm tìm thấy đặc trưng của thể này.
Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của hồi ký giai đoạn sau 1985
đến nay nằm trong xu thế phát triển chung của các dạng thức hồi cố, hồi
thuật, nhằm thỏa mãn những nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân lúc bấy

giờ như một quy luật tất yếu. Nhiều nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng kết,
tổng quát quá trình phát triển của thể hồi ký
1.2.2. Những công trình, bài báo nghiên cứu về từng tác giả,
tác phẩm
Sau đổi mới xuất hiện nhiều công trình, bài báo nghiên cứu từng
tác giả, tác phẩm hồi ký văn học cụ thể, đặc biệt là những tác phẩm của
các tác giả có hành trình sáng tác lâu dài và có tiếng vang trên văn đàn.
Các tác phẩm hồi ký của các học giả, nhà nghiên cứu phê bình
như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Nguyễn Hiến Lê,
Đặng Anh Đào,… tuy chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, nhưng
mỗi bài viết đều có một cái nhìn riêng, khám phá một điểm thú vị ở mỗi
tác phẩm hồi ký của các tác giả này.
1.3. Sự phát triển của hình tượng tác giả dưới các điểm
nhìn khác nhau trong hồi ký sau 1985
8


Cơ sở nghệ thuật của hình tượng tác giả trong văn học là tính
chất gián tiếp của văn bản nghệ thuật: văn bản của tác phẩm bao giờ
cũng là lời của người trần thuật, người kể chuyện hoặc nhân vật trữ
tình. Nhà văn xây dựng một văn bản đồng thời với việc xây dựng ra
hình tượng người phát ngôn văn bản ấy với một giọng điệu nhất định.
Trong hồi ký, hình tượng tác giả “Tôi” là nhân vật chính tự kể
về mình. Cái tôi của người kể chuyện nhiều khi trùng hợp với các
sự kiện đời sống và tâm tư tình cảm của bản thân nhà văn. Nhưng
cũng có khi chỉ để thể hiện “cái ngoài mình”, một hiện thực cuộc
sống được “khúc xạ qua lăng kính của nhà văn”. Và khi đó cái “tôi”
không hoàn toàn đồng nhất với số phận, tính cách của nhà văn
“hình thức trần thuật có tính bộc lộ chủ quan và mang sắc thái cảm
xúc cao độ”. Người trần thuật ở đây hoàn toàn nhập vào nhân vật để

quan sát, giãi bày, tự mổ xẻ, phân tích nội tâm của mình. Tác giả là
người hướng vào diễn biến tâm lý bên trong của cái “tôi” đang ở vai
trò người kể chuyện.
TIỂU KẾT
Hình tượng tác giả đã được các nhà nghiên cứu trước đó quan
tâm, tìm hiểu, thậm chí đã có nhiều công trình. Và ngay cả hình tượng
tác giả trong hồi ký đã được không ít người nghiên cứu đưa ra trong
các bài viết, luận văn, luận án. Tuy nhiên, hầu hết trong số đó chủ yếu
khảo sát qua tác phẩm hồi ký của một tác giả cụ thể. Ở đây, chúng tôi
khảo sát hình tượng tác giả qua tất cả các tác phẩm văn học giai đoạn
đổi mới (sau 1985). Đây là thời điểm chuyển giao, cởi trói cho đời
sống của người dân nói chung và đời sống văn nghệ sĩ nói riêng. Chính
lẽ đó, đây cũng là giai đoạn mà nhiều tác phẩm hồi ký ra đời, và đem
lại những giá trị phong phú trong đời sống văn chương.
9


CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG
CỦA THỂ HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1985
2.1. Nội dung và biểu hiện của hình tượng tác giả văn học
2.1.1 Khái lược chung về hình tượng tác giả và một số loại
hình tác giả
2.1.1.1.Hình tượng tác giả trong văn học
Hình tượng tác giả là dấu ấn chủ thể sáng tạo in đậm trong tác
phẩm thấm trong toàn bộ cơ chế và yếu tố tạo thành tác phẩm. Song,
có một điểm chúng ta cần phải chú ý khi nói về hình tượng tác giả
cần phải thấy tính giãn cách của nó với các yếu tố trực tiếp của tác
phẩm. Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều dấu hiệu của nó
trong nhân vật hay trong người kể chuyện của tác phẩm nhưng nhất
định không được đồng nhất, đơn giản. Người phát ngôn trong tác

phẩm văn học không đồng nhất với tác giả, dù có rất nhiều điểm
thống nhất nhưng người kể chuyện trong tác phẩm chỉ là người đứng
ra trực tiếp kể chuyện cho tác giả. Do đó hình tượng tác giả không
thể là hình tượng người kể chuyện mà là một con người mà tác giả
quy nạp ra từ tác phẩm.
Hình tượng tác giả được tạo thành bởi những yếu tố cơ bản
sau: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật và
chân dung của tác giả... Những thể loại văn học khác nhau thì biểu
hiện của hình tượng tác giả sẽ khác nhau. Thông qua hình tượng tác
giả, mỗi nhà văn lại có cách biểu hiện cái nhìn về cuộc sống và bản
thân mình theo một cách khác nhau.
2.1.1.2. Một số loại hình tác giả văn học
10


Để xác định rõ được các đặc điểm loại hình tác giả văn học
trước hết cần nhận thức đúng mối quan hệ cơ hữu giữa lịch sử - văn
hóa của thời đại với tác giả văn học giai đoạn ấy. Từ đó xác định đặc
trưng loại hình tác giả và mức độ các kiểu loại, đội ngũ, trào lưu,
dòng văn của từng nhóm tác giả, từng giai đoạn, thời kỳ và thời đại.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh tính qui luật, tính phổ biến của loại hình
và kiểu loại tác giả cũng như tìm hiểu quan niệm phân kỳ văn học sử
gắn với loại hình tác giả.
Nếu văn học trung đại loại hình tác giả nhà nho tài tử được đặt
song song với nhà nho yêu nước thì trong văn học hiện đại chúng ta
dễ dàng nhận ra loại hình tác giả theo các nhóm phái với chung một
tuyên ngôn như kiểu Tự lực văn đoàn, Xuân Thu nhã tập, hay loại
hình tác giả văn nhân quân đội.
Sự minh định này chỉ là tương đối nhưng theo quan niệm của
chúng tôi mỗi khi thành lập một nhóm phái hoặc có cùng một tuyên

ngôn hoặc có thể gặp gỡ nhau ở một lí tưởng thẩm mĩ trong cách viết
đều có thể gọi là loại hình tác giả.
2.1.2. Hình tượng tác giả được nhìn từ góc độ thể loại
Điều quan trọng hơn chúng tôi muốn nhấn mạnh là ở mỗi thể
loại văn học, hình tượng tác giả lại được có cách biểu hiện riêng, khu
biệt các thể loại văn học khác nhau.
Trong thơ trữ tình
Hình tượng tác giả thường khó phân định do nhân vật trữ tình
và chủ thể trữ tình thường xuyên phân thân, hòa lẫn vào nhau. Tuy
nhiên, trong nhiều tác phẩm, nhân vật trữ tình không đồng nhất với chủ
thể trữ tình. Trong thơ trữ tình đương đại, hình tượng tác giả được
biểu hiện rất rõ. Không tránh né, không ngại va chạm, đi vào những
11


chủ đề chính của thời đại, các nhà thơ đã cất lên tiếng nói của mình
và tiếng nói thời đại.
Trong văn xuôi
Hình tượng tác giả trong văn xuôi gần gũi với người đứng ra kể
chuyện, người trần thuật. Tuy vậy, nhiều khi tác giả lùi lại để giao
chức năng kể chuyện cho một nhân vật nào đó. Nên hình tượng tác
giả trong văn xuôi mang tính khách quan hơn. Cùng một cái tôi, tác
giả sẽ ban phát vào nhiều nhân vật, chứ không phải chỉ cho một nhân
vật. Thông qua vai trò người kể chuyện hình tượng tác giả đã được
nhìn đa chiều, với những chiều kích không gian và thời gian, đặc biệt
là ngôn ngữ đa thanh.
Trong thể ký
Trong ký người viết ghi lại những sự vật, hiện tượng mà họ
hoặc nhân vật được họ xây dựng nên tham dự và chứng kiến, nên
hình tượng tác giả thường được biểu hiện trực tiếp hơn không qua hư

cấu, hay tái hiện cuộc sống theo lối khách quan.
Hình tượng tác giả trong ký, đặc biệt là ký văn học thường bộc lộ
quan điểm, tình cảm một cách thẳng thắn trực tiếp, thể hiện cụ thể ở vai
trò của người trần thuật - nhân vật xâu chuỗi, yếu tố liên kết chính yếu
của tác phẩm ký. Chính vì thế trong thể ký không thể thiếu hình tượng
tác giả. Một nhân vật có thể không có tên, có thể đứng sau những nhân
vật khác, nhưng bóng dáng, quan điểm của họ lại rất sáng rõ.
Nếu so với truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu thuyết, thì
ký không có một xung đột thống nhất, phần khai triển của tác phẩm
chủ yếu mang tính miêu tả, tường thuật. Đề tài và chủ đề của tác phẩm
cũng khác biệt với truyện, nó thường không phản ánh vấn đề sự hình
thành tính cách của cá nhân trong tương quan hệ với hoàn cảnh, mà là
12


các vấn đề trạng thái dân sự như kinh tế, xã hội, chính trị, và trạng thái
tinh thần như phong hóa, đạo đức của chính môi trường xã hội. Và
điểm rõ hơn cả là ký thường không có cốt truyện.
2.2. Sự vận động của hình tượng tác giả trong hồi ký văn học
Việt Nam sau 1985
2.2.1. Hồi ký văn học trước 1945
Hồi ký xuất hiện ở đầu trung đại, khoảng thế kỉ XIV nhưng
không để lại nhiều thành tựu. Các tác phẩm hồi ký giai đoạn này
thường là những thiên tự thuật kể về cuộc đời, chí hướng nhân cách
của bản thân tác giả dưới cái nhìn về lí tưởng đạo đức, lí tưởng quân
tử. Và với bình diện đối tượng nghiên cứu, chúng tôi cho rằng đó
chưa phải là hồi ký văn học như quan niệm ngày nay.
Đầu thế kỉ XX, chỉ lác đác một vài tác phẩm có thể xem là hồi
ký (dù chưa đúng với quan niệm về thể loại) như Ngục trung thư,
Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu), Giấc mộng lớn (Tản

Đà)... Ngay từ tên gọi, đây chỉ là những tác phẩm tiểu sử, lí lịch và
văn luận thuyết, thậm chí là truyện hư cấu. Số lượng không nhiều tác
phẩm, lại thêm những đặc trưng thể loại chưa thực sự riêng biệt, đã
khiến sự vận động của thể hồi ký giai đoạn trước 1945 không thực sự
tạo ấn tượng. Chính vì thế, hình tượng tác giả trong hồi ký trước 1945
cũng không được định hình rõ nét và rất khó để phân xuất.
2.2.2. Hồi ký văn học thời kì 1945 - 1985
Hồi ký giai đoạn này chủ yếu là những tác phẩm đứng trên lập
trường “văn học cách mạng”, “văn học xã hội chủ nghĩa”. Thành tựu
lớn nhất trong hồi ký giai đoạn này là hồi ký của các lãnh tụ, tướng
lĩnh, nhà cách mạng... Trong khi đó, hồi ký văn học thực sự khiêm
tốn, Vì vậy, nếu nói tư duy nghệ thuật trong hồi ký giai đoạn này, có
13


thể thấy ngay tính chất đơn phiến, công thức, tính “minh họa” khá cổ
điển, và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan điểm chính trị, quan điểm
ngoài văn học.
Ngoài ra, cũng cần phải nhắc đến những tác phẩm hồi ký được
viết ở đô thị miền Nam trước 1975 với cảm hứng chính là tự bạch và
hoài niệm.
2.2.3. Sự vận động của hồi ký văn học sau 1985 đến nay
Đây là giai đoạn các tác phẩm hồi ký nở rộ về số lượng. Những
tác phẩm lớn nhất, hay nhất của thể loại hồi ký hầu hết đều ra đời ở
giai đoạn này. Đó là những tác phẩm của Anh Thơ, Tô Hoài, Bùi
Ngọc Tấn, Phùng Quán, Vũ Bão, Ma Văn Kháng, Đặng Thị Hạnh,
Đặng Anh Đào...
Ngoài sự cởi mở về phạm vi nội dung phản ánh; bạn đọc còn
nhận thấy hồi ký giai đoạn này thay đổi cách thức tiếp cận và phản
ánh đời sống và con người; đa dạng hóa nghệ thuật trần thuật... kéo

theo sự thay đổi mạnh mẽ tư duy nghệ thuật của thể loại so với các
giai đoạn trước.
Hồi ký văn học thời kì sau 1985 phát triển mạnh mẽ, rõ nét, và đa
dạng vì ngoài việc tập hợp được lực lượng người viết là những cây bút
có tên tuổi trên văn đàn, điều quan trọng hơn hết chính giai đoạn đổi mới
đã mang lại bầu sinh khí mới kích hoạt sự sáng tạo của nhà văn.
TIỂU KẾT
Việc đưa ra các kiểu hình tượng tác giả văn học phần nào cho thấy
sự thay đổi về mặt loại hình đồng thời cũng là cái nhìn toàn diện và cụ
thể hóa.
Và ở mỗi thể loại, hình tượng tác giả trong tác phẩm có sự khác
nhau dựa vào đặc trưng thể loại. Điểm mạnh của hồi ký so với các thể
14


loại khác đó là chỉ với riêng mã sự thật, hình tượng tác giả đã chiếm trọn
sự tin tưởng của độc giả. Nó không chỉ là cái nhìn ngoái lại những
chuyện đã qua, đó còn là những câu chuyện của ngay hiện tại, và để thế
hệ tương lai có những định dạng, những cách nhìn riêng.
CHƯƠNG 3: HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ - NHỮNG CHỦ THỂ
GIAO TIẾP NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT
NAM SAU 1985
3.1. Chủ thể qua những chân dung văn học
Hồi ký là thể loại được tổ chức theo trục cái tôi tác giả. Với
lực lượng sáng tác hầu hết là những nhà văn lão thành, gạo cội của
văn học Việt Nam, hồi ký sau 1985 là tiếng nói của cái tôi trưởng
thành. Nhân danh cái tôi ấy, người viết nói với độc giả về những gì
mình chứng kiến, trải nghiệm, những điều tích lũy đã đủ độ chín cho
những triết lí về nhân gian và cuộc đời.
3.1.1. Từ chân dung tự họa của những người cầm bút

Sức hấp dẫn của hồi ký, đặc biệt là hồi ký văn học Việt Nam
sau 1985 đến nay trước tiên ở sự tự thể hiện bức chân dung con
người tinh thần của chính người cầm bút.
Đọc hồi ký văn học Việt Nam sau 1985, một cảm nhận rất rõ là
các nhà văn viết hồi ký, tạo dựng chân dung mình với một tâm thế
nhẹ nhàng, thanh thản. Sau rất nhiều những mất mát trong cuộc sống,
do va đập cuộc đời đem lại cái để bạn đọc thấy rõ là những trải
nghiệm, giúp các nhà văn có thêm hành trang sống và viết.
3.1.2. Đến chân dung bè bạn một thời
Tô Hoài từng tâm sự: viết hồi ký là một cuộc đấu tranh để viết
ra, đấu tranh để nói lên sự thật và một nhà văn thực sự dũng cảm mới
15


thử tài mình trong thể loại này. Trong cuốn hồi ký Cát bụi chân ai, ông
cũng chân thành bộc bạch quan điểm khi dựng chân dung về bạn bè,
đồng nghiệp: “Người ta ra người ta thì phải là người ta chứ”.
Hồi ký không chấp nhận sự hư cấu, tưởng tượng, phóng đại, nói
quá, bởi như vậy là đi ngược với mã sự thật mà đặc trưng thể loại này
đặt ra. Vì thế viết về bạn bè chưa bao giờ là dễ dàng. Ranh giới giữa
sự thật và tô hồng hoặc bôi đen gần kề, chút cảm tính, không tỉnh táo
khiến những trang văn dễ đi chệch làn ranh thể loại.
Qua hồi ký văn học Việt Nam sau năm 1985, hình tượng tác giả
hiện lên từ những điều nhỏ nhặt, đơn giản nhưng cũng vô cùng nghiệt
ngã.
3.2. Hình tượng tác giả như là những chủ thể giàu trải
nghiệm
3.2.1. Từ những bức tranh chân thực sống động
Hồi ký văn học Việt Nam sau 1985 đến nay, có nhiều câu chuyện
được kể lại thay vì sự lý giải cho những nguyên nhân, kết quả của sự

trăn trở, lên đường, nhận đường hay những vụ án, số phận văn chương
của các thế hệ văn nghệ sĩ. Các tác giả hồi ký cho người đọc thấy một
bức tranh hiện thực sống động với những con người cụ thể như: nông
dân, trí thức, người lao động chân tay, thậm chí là đám đông.
3.2.2.1. Việc “nhận đường”, “lên đường”
Công cuộc “nhận đường”, “lên đường” đầy khó khăn và thử thách
với các nhà văn. Đặc biệt, những ngày cải cách ruộng đất, những ngày
hợp tác hoá nông thôn, do quan niệm về chuyện đi thực tế có phần
thô thiển, ấu trĩ cùng với sai lầm trong đường lối của Đảng đã để lại
trong lòng giới văn nghệ sĩ nhiều nỗi buồn. Nhiều khi người nghệ sĩ
vẫn cảm thấy mông lung trong việc tìm con đường đi cho nghệ thuật,
16


cho chính mình và đáp ứng yêu cầu của thời đại. Họ rơi vào tâm
trạng bề bộn, rã rời, buồn bã, vẩn vơ.
3.2.2.2. Và số phận cá nhân
Nhân văn - Giai phẩm là sự kiện chấn động đời sống văn nghệ
Việt Nam những năm năm mươi của thế kỷ XX. Một không khí tù
đọng, ngột ngạt bao trùm lên đời sống văn học lúc bấy giờ. Người có
vấn đề luôn lo đối phó. Người “canh gác” luôn cảnh giác, “bới lông
tìm vết”, đọc a dua, đánh đòn hội chợ. Hay nói về nạn đói năm 1945,
các tác phẩm hồi ký giai đoạn này đã lột tả được cảnh người chết như
ngả rạ, những cái xác “teo tóp, gầy đen, đầy ruồi nhặng”.
Hình tượng tác giả thông qua những số phận cá nhân trước Nhân
văn – giai phẩm, trước cái đói cái khổ cho thấy cách nhìn cuộc sống
của họ thật phong phú và cũng thật nhân văn
3.2.2. Đến những suy ngẫm về thân phận con người
Bên cạnh việc dựng lại bức tranh đời sống, hơn hết các tác giả
hồi ký văn học sau 1985 đã đặt thân phận con người song hành. Họ là

chứng nhân của một thời, và họ cũng chính là bi kịch của một thời.
Thông qua họ, bạn đọc ngày hôm nay thấy những góc khuất, những
ngõ hẹp của ngày hôm qua.
Những nhân vật nông dân, người lao động, trí thức, và cả
những nhân vật đám đông được các tác giả hồi ký sau 1985 đề cập
đến nhiều. Đáng chú ý nhất là nhân vật đám đông làm nghề theo dõi canh cửa văn hóa - việc làm của những người biên tập.
Những tác giả như Tố Hữu, Tô Hoài, Đào Xuân Quý, Ma Văn
Kháng, Hoàng Minh Châu… không có ý định chép sử, họ chỉ tái hiện
lại những ngày đã sống, những người đã gặp, những việc đã làm và
dựng lại không khí của thời đại qua lăng kính, cảm xúc chủ quan của
17


người cầm bút, được soi chiếu bằng kinh nghiệm của cá nhân vì vậy
mới mẻ, chân thực hơn bao giờ hết.
3.3. Hình tượng tác giả như là chủ thể đối thoại, kết nối với
quá khứ và hiện tại
3.3.1. Từ những câu chuyện của quá khứ mang đến lời giải
đáp cho hiện tại
Đọc hồi ký, điều tò mò nhất là xem lại những câu chuyện mà
xưa nay vẫn là thâm cung bí sử, xưa nay chỉ nghe ngóng thì qua hồi
ký đã giải đáp được phần nào. Với việc đề cập đến những vấn đề của
quá khứ. Như trong cải cách ruộng đất, chuyện đồng tính để họ hiểu
được rằng, không chỉ ngày nay mà từ vài chục năm trước, những câu
chuyện này đã có, đã diễn ra, và người trong cuộc phải đối mặt với
nó như thế nào?
3.1.2. Từ tư tưởng dân chủ và tinh thần đổi mới đến những
sắc thái diễn ngôn mới mẻ cho hồi ký
Nếu như trước kia, các tác giả khi viết hồi ký thường phụ thuộc vào
quyền lực diễn ngôn thì hồi ký sau 1985, nhờ có tư tưởng dân chủ và tinh

thần đổi mới của thời đại, các nhà văn đã nói ra được những điều mình
nghĩ. Họ có một cái nhìn thẳng, thật và thậm chí thô. Chính vì thế, mã
nghệ thuật không quá phụ thuộc vào mã sự thật. Điều này thực sự đã đem
lại giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm đồng thời mang lại
niềm tin cho bạn đọc.
TIỂU KẾT
Đời sống văn nghệ của cả một thời đã in dấu trên mọi mặt đời
sống xã hội và con người khiến một số văn nghệ sĩ rơi vào con đường
cùng quẫn, bế tắc vật lộn với cuộc sống mưu sinh, đánh mất chính
mình, không được sống với những ước mơ, hoài bão chính đáng. Rất
18


ít trong số họ tìm được lối đi riêng cho mình, đi đôi khi cũng chủ yếu
là vì đảm bảo sự an toàn. Các tác phẩm hồi ký sau 1985 đã giải đáp
cho cộng đồng tiếp nhận đương đại hiểu được sự thật của một thời kỳ
đã qua. Đồng thời cũng khẳng định vai trò của hồi ký so với các thể
loại khác.
CHƯƠNG 4: HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ TRONG HỒI KÝ
VĂN HỌC SAU 1985 NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ
4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật
4.1.1. Không gian nghệ thuật
Cũng như các thể loại văn học khác, các tác phẩm hồi ký xây
dựng hình tượng tác giả trong sự va đập quăng quật của các không
gian, để từ đó bộc lộ tính cách, bản chất, sự thích ứng và khôn khéo
của nhân vật.
Chúng tôi cho rằng đây là một trong những điểm mạnh trong
phương thức biểu hiện của hồi ký văn học Việt Nam sau năm 1985.
4.1.1.1. Không gian hiện thực cụ thể gắn với những sự kiện
đáng nhớ

Sau năm 1985, các tác phẩm hồi ký đã tái hiện nhiều không
gian rộng lớn gắn với những sự kiện xã hội, những biến động lịch sử.
Cách tạo dựng không gian cho thấy không gian hồi ký sau
1985 mang tính sử thi, hay tiểu thuyết lịch sử với ý nghĩa là nó đã tạo
dụng lại được cả một bức tranh lịch sử rộng lớn, bề bộn, phức tạp,
một pho lịch sử xã hội đồ sộ mà thậm chí tiểu thuyết trước đó và
đương thời chưa làm được.
4.1.1.2. Không gian hiện thực gắn với không gian đời tư
19


Không gian sự kiện đời tư là không gian gia đình, của cá nhân có
những thay đổi ảnh hưởng tới cuộc sống, tâm lý của nhân vật. Vì thế,
không gian này thường có phần nhỏ bé hơn. Qua không gian đời tư,
chúng ta có được cái nhìn khá hoàn chỉnh chân dung nhà văn về cuộc
sống sinh hoạt đời thường và văn chương.
Đặt nhân vật, và chính mình vào trong một không gian, hoàn
toàn là chủ ý của nhà văn. Rằng không gian lịch sử xã hội sẽ không
có ý nghĩa nếu không khiến các cá nhân bị tác động. Nó chỉ được
sáng tỏ hơn khi làm nổi bật tính cách, tâm tư, tư tưởng, hành động cụ
thể của nhân vật.
4.1.1.3. Không gian sinh hoạt đời thường
Đây là không gian nhỏ bé nhất, nơi các cá nhân trú ẩn, neo vào,
nuôi dưỡng hay nung nấu những ý thích, những khát vọng những giá
trị vật chất, và tinh thần riêng tư, quý báu và cả tâm sự, oan uất, nỗi
buồn… Đó là không gian của tâm hồn con người, là phần sâu kín tận
đáy. Không phải ngẫu nhiên mà trong nhiều tác phẩm, các nhà văn hay
trở đi trở lại một vài “địa chỉ” quen thuộc, bộc lộ mình một cách tự
nhiên nhân bản nhất. Đáng chú ý nhất là không gian gia đình - căn
phòng. Ngoài ra còn có không gian làng quê và không gian đường phố.

4.1.2. Thời gian nghệ thuật
4.1.2.1. Thời gian lịch sử
Đọc hồi ký sau 1985, điều hấp dẫn bạn đọc nhất chính là tầng
tầng lớp lớp ăm ắp các sự kiện ở các tuyến thời gian khác nhau.
Ngoài những mốc thời gian cụ thể có ghi năm tháng, sự kiện... tạo
nên mã sự thật của quá khứ được kể lại, các trang hồi ký đầy ắp
những sự kiện liên tiếp nhau tạo nên mạch thời gian trôi chảy gấp gáp
cho tác phẩm. Và để làm điều này thì các tác giả hồi ký sắp đặt một
20


thời gian theo tuyến tính. Hầu hết các tác phẩm hồi ký đều khởi đầu
bằng chuyện quá khứ với chuyện gia đình, quê hương, tuổi thơ và kết
thúc là cái hiện tại đang còn dở dang, phồn tạp một cách thuận chiều
tuyến tính.
4.1.2.2. Thời gian đời tư
Đây chính là điểm mạnh của các tác giả hồi ký sau 1985. Nhiều
sự kiện chi tiết có thể được sắp xếp không theo trật tự, hoặc đảo ngược
trật tự, hoặc rút ngắn khoảng cách để đặt cạnh nhau, nhiều sự kiện được
nhắc đi nhắc lại trong sự liên tưởng kết nối. Đặc biệt thời gian quá khứ
được các tác giả chú ý tập trung khai thác. Các tác giả như Tô Hoài, Ma
Văn Kháng, Bùi Ngọc Tấn… rất biết khai thác điểm mạnh của đặc trưng
thể loại, khai thác thời gian quá khứ để khẳng định thời gian hiện tại.
Thời gian trong các tác phẩm hồi ký sau 1985 thường được tổ chức
không theo trật tự, nhưng có chủ ý và là phong cách riêng của từng tác giả.
Với phương thức biểu hiện bằng thời gian nghệ thuật, hình
tượng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam sau 1985 như được tiếp
thêm đôi cánh. Đôi cánh thời gian không hề làm hoen màu với lớp
phủ bụi, mà còn giúp bạn đọc sáng tỏ những chân dung con người một
thời, những số phận cuộc đời, và cả lịch sử đất nước.

4.2. Các phương thức trần thuật
4.2.1. Điểm nhìn trần thuật
Từ đặc điểm của thể loại, hồi ký là tác phẩm kể lại những biến
cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng
kiến, hồi ký luôn sử dụng cả trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân
vật làm điểm nhìn chủ đạo. Bởi nhân vật kể chuyện chính là tác giả.
Người kể chuyện là một thành viên trong câu chuyện, một nhân vật
trong tác phẩm, xưng tôi đứng ở ngôi thứ nhất số ít kể về cuộc đời
21


mình, kể về những người mình đã gặp, những việc mình đã làm, những
biến cố mình được tham dự hoặc chứng kiến.
4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật
4.2.2.1. Sự kết hợp giữa kể, tả và bộc lộ cảm xúc trong tổ chức
lời văn
Nếu như trước đây hồi ký nặng về tính chất kể và tả thì hồi ký
văn học Việt Nam sau 1985 chêm xen nhiều giọng điệu. Đặc biệt các
tác phẩm hồi ký giai đoạn này thường dùng nhiều ngôn ngữ bộc lộ
cảm xúc bình luận.
4.2.2.2. Ngôn ngữ dung dị, đời thường
Hồi ký ở Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ XX, song những trang hồi
ký văn học với ngôn ngữ trần thuật, tự nhiên, dân dã và đậm chất khẩu
ngữ chỉ xuất hiện và phát triển mạnh mẽ khi văn học hướng vào cảm hứng
thế sự - đời tư, phát huy cảm quan nhân bản đời thường, đào sâu vào số
phận, vận mệnh của mỗi cá nhân. Bởi vậy, hồi ký sau 1985 mang ngôn
ngữ đời sống, dân dã, tự nhiên đôi chỗ đậm chất khẩu ngữ.
4.2.3. Giọng điệu trần thuật
4.2.3.1. Giọng điệu suy tư chiêm nghiệm mang tính triết lý
Với giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm, mỗi trang hồi ký không

chỉ mang đến thông tin mà còn đặt ra bao điều phải nghĩ về cuộc đời,
về những gì đã qua trong hành trình sống của mỗi người. Và đây
chính là giọng điệu rất riêng của hồi ký so với các thể loại khác. Đặc
biệt hồi ký giai đoạn sau 1985 là giai đoạn mà các nhà văn tổng kết
lại chặng đường gần một thế kỷ đã qua, những thăng trầm, những
thành công, và cả những thất bại.
4.2.3.2. Giọng điệu xót xa thương cảm
22


Giọng điệu xót xa thương cảm tạo nên mối dây truyền cảm
giữa chủ thể viết hồi ký - người kể chuyện và đối tượng thẩm mĩ hiện thực và con người.
Người viết hồi ký - chứng nhân của những câu chuyện quá
khứ, khi kể thường bộc lộ cảm xúc. Do đặc trưng thể loại, cảm thức
hoài niệm chi phối giọng điệu trần thuật của hồi ký, làm nên chất
giọng nhiều hoài niệm, tiếc nuối và xót xa trong nhiều tác phẩm.
4.2.3.3. Giọng điệu hài hước, giễu nhại
Thông qua giọng điệu hài hước, giễu nhại ta thấy một thời, một
đời người hiện ra với muôn màu của cuộc sống đời thường. Đặc điểm
của hồi ký là được viết theo chiều nghịch của thời gian, hướng về dĩ
vãng với cảm hứng hồi cố. Hồi ký có tính tổng kết và lý giải, thiên về
hướng ngoại nhằm giãi bày, thú nhận với người khác những sự việc
nhà văn chứng kiến hoặc của chính nhà văn. Từ sau 1985, với nhu
cầu nhận thức lại quá khứ, dạng hồi ký tự trào trở nên phổ biến.
TIỂU KẾT
Hồi ký văn học Việt Nam sau 1985 ngày càng phát triển và giữ
một vị trí đáng kể trong đời sống thể loại. Chính sự giao thoa giữa các
thể loại giúp hồi ký mở rộng đường biên trong việc tái hiện hiện thực,
con người trong quá khứ. Thông qua các phương thức nghệ thuật, hình
tượng tác giả càng trở nên cụ thể, riêng biệt qua mỗi trang hồi ký.

KẾT LUẬN
1. Có một dòng hồi ký trong văn học Việt Nam nhưng phải chờ
đến sau năm 1985 mới thực sự khởi sắc. Chúng ta không thể hình dung
được văn học thời kỳ đổi mới thiếu đi mảng hồi ký thì sẽ kém sinh
động và hấp dẫn thế nào.
23


Cái nhìn trực diện, nói thẳng, nói thật như một món ăn cần thiết,
thay đổi khẩu vị, sau rất nhiều những ràng buộc của thời cuộc. Cũng là
cách nói thẳng nói thật, nhưng với sự giãn cách về thời gian, tâm thế
người sáng tác có phần khách quan hơn, đủ độ đằm để nhìn sâu, đủ độ
chín để nói những điều cần nói.
Và cũng từ sự nới rộng thể loại, nội tại văn học đã cho phép thể
hồi ký viết về quá khứ - cái quá khứ ấy luôn đặt trong trạng thái động
để biên độ của thể loại hồi ký mở được tới những thể nghiệm và
khám phá mới.
2. Làn gió đổi mới giúp các tác giả hồi ký có dịp nhìn lại mình
một cách rành mạch, nhận diện xã hội một cách rõ nét. Họ có cơ hội
tiếp cận không chỉ với hiện thực bề mặt mà còn với hiện thực bên
trong đầy phức tạp và bí ẩn của con người.
Nếu như trước đây văn học chỉ được chú ý nhiều hơn việc tác
phẩm phản ánh được cái gì và gắn với những bối cảnh đương thời
như thế nào thì hồi ký đã phá vỡ giới hạn đó. Mặc dù viết về quá khứ
nhưng lại đến rất gần cộng đồng tiếp nhận đương đại. Họ đón nhận
những tác phẩm này với một mặc định người sáng tác phải luôn luôn
chứng minh được mình nói thật đồng thời người tiếp nhận cũng tin là
người sáng tác viết thật. Đây cũng là lý do vì sao chúng tôi chọn hồi
ký chứ không phải là các thể loại khác.
3. So với các giai đoạn khác, giai đoạn sau 1985, hồi ký đã

khẳng định sự phong phú về nội dung, những đổi mới đáng kể về
phương thức biểu đạt. Đặc biệt, lý thuyết hình tượng tác giả giúp
chúng tôi có cái nhìn xuyên suốt về chủ thể qua những chân dung văn
học; những bức tranh chân thực sống động về cuộc sống, về thân
phận con người. Để từ đó chúng ta có thể đối thoại, kết nối giữa quá
24


khứ và hiện tại, mang lại những lời giải đáp cho cộng đồng tiếp nhận
đương đại.
Bên cạnh những giá trị nội dung, sự cách tân đáng ghi nhận
trong nghệ thuật biểu hiện và thi pháp thể loại của hồi ký văn học giai
đoạn 1985 đến nay như việc sử dụng không gian và thời gian linh
hoạt, và đa chiều; với các phương thức trần thuật như điểm nhìn,
ngôn ngữ, và giọng điệu mà hình tượng tác giả đã được biểu hiện rõ
nhất, đa dạng nhất.
4. Một thế hệ với những tác phẩm, tác giả đã tạo nên tầm ảnh
hưởng tới đời sống nói chung và đời sống văn chương đương đại nói
riêng. Cụ thể nhất là trường hợp Tô Hoài, với số lượng hết sức khiêm
tốn 4/200 đầu sách trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ nhưng hồi ký của
ông đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn học Việt Nam, đánh dấu
sự trưởng thành của thể loại.
Sau những năm 2000, hồi ký có phần chững lại, lý do một phần
là các nhà văn yêu thích thể loại này không còn nhiều. Một số tác giả
trẻ hiện nay cũng đã dự phần, song chưa có được sự đón nhận của bạn
đọc, hoặc nếu có cũng là sự tò mò muốn thay đổi quan niệm rằng đây
là thể loại không dành cho những người trẻ.
Song, năm 2017 được xem là năm trở lại của các tác phẩm hồi
ký văn học bằng sự ra mắt của các tác phẩm: Lang thang qua chiến
tranh, Cơ nhỡ trong hòa bình (Thanh Thảo); Mùa chinh chiến ấy

(Đoàn Tuấn)... Với sự vận động và phát triển của thể loại, sự cởi mở
trong việc tiếp nhận, chúng tôi tin rằng hồi ký sẽ vẫn là thể loại hấp
dẫn người viết và bạn đọc.

25


×